Triết học giáo dục của Karl Jaspers nhận định chính nền giáo dục đương thời đã áp đặt các định chế giá trị cuộc sống của con người, không xem xét đến sự tồn tại của họ với tư cách là một hiện sinh độc đáo vốn có, vì thế ông luôn nhấn mạnh đến mục đích giáo dục phải đào tạo con người tự do, chân thành, dám dấn thân và có trách nhiệm về cuộc đời mình.
Ý nghĩa cuộc đời con người họ phải nhìn thẳng và thông hiểu được nguồn gốc và yếu tính thực tại với tư cách một con người biết suy tư và hành động một cách “tự do” không để mình nô lệ vào một cái gì
Trong tính tự do này con người mới có quyền gặp gỡ lại chính mình qua hiện hữu và suy tư đích thực của mình, để thực hiện thành công mục đích của giáo dục thì bản thân nền giáo dục phải từ bỏ mọi cách suy tư quen thuộc, ước lệ xã hội, mọi tham vọng nửa vời và phiến diện. Giáo dục phải hình thành nên những con người “hãy là chính mình” trở về với tự do, với trách nhiệm và sự quyết định của mình.
Ý niệm đại học của Karl Jaspers
Những lý tưởng về một nền giáo dục đại học khai phóng được chia sẻ trong các ngành nhân văn, chẳng hạn như tìm kiếm chân lý một cách toàn diện, lý tưởng về tính hợp lý trong giao tiếp, nhu cầu kết hợp giữa lý thuyết và thực hành sao cho giáo dục hướng tới con người toàn diện, là những mục tiêu mà Jaspers nhấn mạnh trong cuốn sách Ý tưởng của trường đại học.
Triết học giáo dục của Karl Jaspers về một trường đại học bao gồm hai yếu tố chính:
- Các trường đại học là các tổ chức nghiên cứu và học thuật như những cách “trong đó sự thật trở nên có ý nghĩa và hiển nhiên”.
- Giao tiếp tạo thành “cốt lõi sống động của đời sống đại học”.
Đối với Jaspers, hai nguyên tắc, sự thật và giao tiếp, không phải là những mục tiêu riêng biệt hoặc không liên quan mà thay vào đó nhất thiết phải bổ sung cho nhau.
Để trở thành sự thật thực sự, sự thật phải được truyền đạt…Chúng tôi đại diện cho hiện tượng nguyên thủy này của nhân loại chúng ta do đó: chúng ta chỉ là chính mình thông qua cộng đồng những hiểu biết có ý thức lẫn nhau. Không thể có một người đàn ông nào chỉ sống cho chính mình, với tư cách là một cá nhân đơn thuần…Rớt khỏi giao tiếp, sự thật trở nên phi thực tế. Phong trào giao tiếp đồng thời là sự bảo tồn và tìm kiếm sự thật.
Làm người là thuộc về và tham gia vào một cộng đồng. Do đó, sự hiểu biết của con người luôn luôn có sẵn và mang tính xã hội, và do đó, sự hiểu biết về sự thật cũng mang tính xã hội và chỉ có thể thực hiện được trong và thông qua giao tiếp. Một sự thật không thể truyền đạt là một sự trừu tượng, vì sự thật “không thể tách rời khỏi khả năng truyền đạt. Nó chỉ xuất hiện trong thời gian như một thực tế thông qua truyền thông”.
Là một tổ chức chuyên tâm tìm kiếm sự thật thông qua giao tiếp, tầm nhìn của Jaspers về một trường đại học hoàn toàn không tương thích với tư duy công cụ và độc đoán. Sự hiểu biết về sự thật của Jaspers không tương ứng với một kết quả có thể xác định được và hoàn thiện; thay vào đó, sự thật được mô tả như một quá trình liên quan đến việc tìm kiếm kiến thức tập thể, không ngừng mở và liên tục.
Mô tả này chống lại việc giảm mục đích của giáo dục đại học, nhiệm vụ của trường đại học, trở thành một chương trình đào tạo đơn thuần cho các mục tiêu được xác định rõ ràng và xác định trước, chẳng hạn như trình độ thành thạo nghề nghiệp. Mặc dù tầm nhìn hướng tới sự thật của Jaspers về một trường đại học khiến nó chống lại các mục tiêu đơn thuần mang tính công cụ của giáo dục đại học, nhưng đức tính và sự cần thiết của giao tiếp đã khiến trường đại học lý tưởng của Jaspers trở thành một tổ chức chống độc tài.
Để phù hợp với mục tiêu học tập hợp tác thông qua giao tiếp, trường đại học có một cộng đồng học giả, nơi sự phân biệt cấp bậc và quyền hạn không lấn át sự tham gia sáng tạo và liên ngành, và nơi chuyên môn không cản trở sự tiến bộ về tư tưởng. Mô hình trường đại học này sẽ đòi hỏi những nỗ lực hợp tác của giảng viên, sinh viên và các nhà quản lý để tạo ra một môi trường học tập đầy cảm hứng mà không chỉ giới hạn ở việc tiếp thu kiến thức chuyên môn nghề nghiệp.
Để phục vụ cho việc chuẩn bị cho thế hệ sinh viên tiếp theo có khả năng tham gia vào nhiệm vụ này, mong muốn về hình thức học tập cao hơn này phải được nuôi dưỡng ở học sinh ngay từ khi còn nhỏ. Định hướng theo hướng tự do điều tra đòi hỏi phải có điều kiện kinh tế và những cân nhắc mang tính công cụ cho giáo dục không làm cạn kiệt lý do tìm kiếm giáo dục đại học của sinh viên.
Khát khao về sự thật “vì chính nó” được nuôi dưỡng tốt nhất bằng cách duy trì sự tò mò tự nhiên của trẻ em đối với những câu hỏi lớn, cho dù là những câu hỏi khoa học, như sự khởi đầu của vũ trụ, hay những câu hỏi hiện sinh, như ý nghĩa cuộc sống, hay những câu hỏi chính trị, chẳng hạn như như bản chất của tình bạn. Bên cạnh mục tiêu tìm kiếm sự hiểu biết và định hướng đến sự thật, trẻ em cũng phải sẵn sàng cho nhiệm vụ bổ sung của trường đại học: giao tiếp giữa các bạn cùng trang lứa.
Năng lực tham gia vào một cộng đồng học tập và nghiên cứu đòi hỏi học sinh phải quen thuộc với những đức tính của tranh luận cởi mở, sự đồng cảm về mặt trí tuệ và cuộc trò chuyện trí tuệ có trách nhiệm rằng mối quan hệ của họ với các giáo sư không được xác định một cách cứng nhắc là phục tùng chuyên môn của các nhân vật có thẩm quyền và các nhà kỷ luật mà là sự trao đổi và đánh giá ý tưởng với những người cùng nghiên cứu và các nhà tư tưởng.
Các tổ chức giáo dục đại học đang ngày càng bị thúc đẩy bởi các mối quan tâm về nghề nghiệp và nghề nghiệp hơn là những lý tưởng như tìm kiếm sự thật thông qua giao tiếp, trong khi đó cũng là trường hợp mà sự giao tiếp ngày càng tăng nhanh chóng của xã hội với công nghệ có nguy cơ khiến các ngành nghề được trả lương cao trở nên lỗi thời.
Một phương pháp hiệu quả để hỗ trợ các nguyên tắc nền tảng đang bị đe dọa của trường đại học lý tưởng của Jaspers, cụ thể là khuyến khích việc tìm kiếm sự thật một cách cởi mở và thực hành giao tiếp như một phương pháp cho việc tìm hiểu đó, là giới thiệu tư duy triết học cho sinh viên ngay từ khi còn nhỏ.
Jaspers cho rằng một trường đại học nên nêu gương và tạo ra sự tìm tòi và tư duy tự do kiểu Socrat, và tôi muốn nói thêm rằng sự quan tâm và năng lực tìm tòi như vậy hiếm khi có thể đạt được ở các trường đại học bởi những sinh viên trưởng thành, tức là bởi người lớn, nếu năng lực tư duy trừu tượng và phê phán đã được rèn luyện ở họ hoặc chưa được trau dồi đầy đủ vào thời điểm họ còn nhỏ.
Martha Nussbaum, người lặp lại những lý tưởng của Jaspers về các trường đại học, chẳng hạn như nghiên cứu Socrates và giao tiếp hợp tác mở, nêu lên mối lo ngại này trong công việc của mình về giáo dục đại học, nơi bà lưu ý rằng “khả năng của công dân đang có tác động rất lớn”.
Khi xem xét thời điểm hiện tại khi tình hình kinh tế cấp bách và nợ nần của sinh viên ngày càng gia tăng, việc học sinh nhận ra giá trị của kiến thức phi công cụ và làm thế nào họ có thể bị thuyết phục về giá trị của giao tiếp hợp tác và cởi mở thay vì việc học tập kiến thức chuyên môn hiện nay từ một cơ quan có thẩm quyền-giáo viên?
Mà “cố gắng đi theo cuộc điều tra nơi nó dẫn đến thay vì bị giới hạn bởi các ranh giới của các ngành hiện có” chuẩn bị cho họ trở thành những người trưởng thành có tư duy tự do và có trách nhiệm.
Do đó, với tư cách là những sinh viên đại học tương lai, họ có thể tham gia đầy đủ vào cuộc điều tra Socrates mà Jaspers đã hình dung như là nhiệm vụ của giáo dục đại học vì ngay từ khi còn nhỏ họ đã được học cách nuôi dưỡng một phương thức liên hệ đích thực với người khác.
Triết học giáo dục của Karl Jaspers
Trong tư tưởng giáo dục của Karl Jaspers đã đề cập đến những vấn đề về cải cách giáo dục trong đó ông chú trọng đến vai trò của người học, theo ông trong quá trình giảng dạy cần phải đặt người học ở vị trí trung tâm, cần xây dựng một môi trường giáo dục thân thiện.
Bên cạnh là những quan điểm của ông về mục tiêu giáo dục, chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục nhằm tạo ra một nền giáo dục toàn diện. Những triết lý giáo dục cốt lõi được Karl Jaspers thể hiện trong “Ý niệm đại học” chứa đựng những giá trị tham khảo bổ ích cho công tác giáo dục.
Mục đích giáo dục
Trong lịch sử với những yêu cầu khác nhau của xã hội mỗi tư tưởng giáo dục hình thành cho mình mục đích giáo dục khác nhau. Bất cứ tư tưởng giáo dục nào cũng mang tính nhân văn, hướng đến con người, vì con người. Triết lý giáo dục của Karl Jaspers cũng không nằm ngoài tư tưởng này, theo ông con người phải có tự do để quyết định, lựa chọn và chịu trách nhiệm về số phận cuộc đời mình.
Với ý nghĩa này nội dung triết lý giáo dục của Karl Jaspers luôn hướng mục đích giáo dục đến đào tạo con người tự do, nhận thức được sự tồn tại của mình “Con người để có thể trải nghiệm về tồn tại thì họ phải dám đi tìm chân lý bằng bất cứ giá nào”.
Để đạt được mục tiêu trên giáo dục phải ủng hộ con người tự do cá nhân, chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Con người tự do cá nhân theo Karl Jaspers cần được sự tác động của các hiện sinh và tha nhân với nhau, nếu không tự do này chỉ là ảo huyền, hư vô trong cuộc sống.
Karl Jaspers nhận định chính nền giáo dục đương thời đã áp đặt các định chế giá trị cuộc sống của con người, không xem xét đến sự tồn tại của họ với tư cách là một hiện sinh độc đáo vốn có, vì thế ông luôn nhấn mạnh đến mục đích giáo dục phải đào tạo con người tự do, chân thành, dám dấn thân và có trách nhiệm về cuộc đời mình “ý nghĩa cuộc đời con người họ phải nhìn thẳng và thông hiểu được nguồn gốc và yếu tính thực tại với tư cách một con người biết suy tư và hành động một cách “tự do” không để mình nô lệ vào một cái gì”.
Trong tính tự do này con người mới có quyền gặp gỡ lại chính mình qua hiện hữu và suy tư đích thực của mình, để thực hiện thành công mục đích của giáo dục thì bản thân nền giáo dục phải từ bỏ mọi cách suy tư quen thuộc, ước lệ xã hội, mọi tham vọng nửa vời và phiến diện. Giáo dục phải hình thành nên những con người “hãy là chính mình” trở về với tự do, với trách nhiệm và sự quyết định của mình.
Để hình thành nên một con người, một nhà giáo dục chân chính đòi hỏi họ phải có được sự tự do. Để tìm được bản chất đích thực của con người, Karl Jaspres cho rằng giáo dục cần đào tạo con người tự do, có trách nhiệm hiện thực hóa những hiểu biết cơ bản, trải nghiệm những gì ta có thể biết và những gì ta sẽ trở thành thông qua tri thức.
Trong quá trình đào tạo con người đi đến tri thức đích thực, giáo dục cần giúp con người chống lại tư duy thực chứng và tư duy vị lợi trong quá trình thực hiện hóa tri thức, chính các kiến thức cơ bản này mới làm cơ sở khoa học cho giáo dục tiến lên phía trước một cách không ngừng nghỉ, mở rộng tri thức thành cái toàn bộ.
Giáo dục đưa con người tìm đến tri thức đích thực, hình thành cho con người tính chân thành, đấu tranh chống lại mọi chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa hư vô, tính tầm thường và sự lẫn lộn giữa tri thức đích thực và việc học thuần túy chỉ chú trọng đến kết quả. Theo Karl Jaspers nếu giáo dục không hình thành cho người học được tính chân thành, sẽ đẩy họ vào sự bần cùng, với lối sống lệch lạc, trốn tránh trách nhiệm và mãi mãi đánh mất chính mình. Vì thế giáo dục phải đào tạo con người tìm ra tri thức với niềm đam mê theo đuổi khoa học.
Chương trình giáo dục
Với mục đích đào tạo những cá nhân người tự do, dám quyết định có trách nhiệm. Karl Jaspers đã hướng đến việc hình thành nên một chương trình giáo dục dựa trên nhu cầu hiện thực của người học. Đối với Karl Jaspers một chương trình giáo dục cố định, bất biến với những môn học bắt buộc, nội dung được xây dựng chung cho tất cả mọi người là không phù hợp vì nó không xét đến cảm giác, thái độ của người học.
Chương trình giáo dục không phải là hệ thống tri thức khách quan mang đi áp đặt cho người khác, mà làm sao cho chúng giúp người học phát huy tiềm năng, đáp ứng nhu cầu hiện thực của người học. Nếu chương trình giáo dục mang quá nhiều tính cụ thể sẽ làm người học lệ thuộc vào giáo trình và bị chi phối bởi tài liệu, làm suy yếu năng lực tư duy độc lập và khả năng tự đánh giá.
Muốn tồn tại, phát triển con người cần thích nghi với sự vận động không ngừng của xã hội thông qua khả năng tự học hỏi của con người. Do đó một chương trình học cứng nhắc sẽ kìm chế khả năng học hỏi và phát triển của họ. Từ đây cho thấy giáo dục cần phải mở rộng quy mô chương trình đào tạo bằng nhiều hình thức, thông qua thực tiễn và đào tạo đúng với bản chất thực sự khoa học của tri thức.
Theo Karl Jaspers chương trình giáo dục cần có sự thống nhất giữa đào tạo chuyên ngành, giáo dục con người toàn diện và nghiên cứu, giữa chúng không thể tách biệt nếu một trong các yếu tố trên bị chia cắt thì bản chất trí tuệ của giáo dục sẽ bị phá hủy.
Karl Jaspers quan niệm chương trình giáo dục đặt ra phải dựa trên năng lực của những người học khá, giỏi. Người học trung bình sẽ tìm cách để vươn lên “ở đâu việc đào tạo được điều chỉnh theo nhịp độ của những kẻ thông minh nhất giữa đám thiểu số hứa hẹn đã nêu trên thì ở đó đa số sinh viên tầm thường sẽ phải hết sức nỗ lực”. Một người học chân chính họ không bị bối rối trước khối lượng lớn của tri thức, các hướng dẫn như đề cương môn học, sẽ làm mất đi sự tự do sáng tạo của người học.
Karl Jaspers cho rằng một nền đại học sẽ không còn là nó nữa nếu những sinh viên có đủ năng lực, khả năng lại bị dẫn dắt theo một giáo trình cố định, chịu sự kiểm soát định kỳ bằng những kỳ thi, vì vậy ông cho rằng chỉ cần một kỳ thi duy nhất là đủ, không cần chuỗi dài các kỳ thi “những kỳ thi và điểm số, thứ hạng phải được đưa ra càng hiếm hoi càng tốt. Nếu chúng càng nhiều thì càng khó quản lí chúng một cách có trách nhiệm. Nếu chúng càng ít đi, thì chúng có thể được quản lí một cách nghiêm túc và chu đáo”.
Các nhà giáo dục cần cải thiện việc thi cử làm cho chúng mang một bầu không khí tri thức, tính sáng tạo, thể hiện khả năng của người học, “các kỳ thi được tiến hành từ sự thẩm định về cách trình bày và thành quả của người học trong các xê-mi-na và những dạng thức làm việc nhóm”. Trong quá trình tổ chức kỳ thi các nhà giáo dục không chỉ chú ý đến tri thức về thực kiện mà còn phải chú ý cách tiến hành của thí sinh, loại phương pháp mà người học sử dụng, khả năng nhìn nhận, viết, nói về một chủ đề được nêu ra. Đồng thời nội dung của kỳ thi, nhà giáo dục cần tôn trọng sự tự do lựa chọn của thí sinh.
Với chương trình giáo dục hướng đến việc đáp ứng nhu cầu hiện thực của ngườ học, do đó theo Karl Jaspers nội dung giáo dục cần dạy cho người học hai loại kiến thức cơ bản. Thứ nhất: những kiến thức về khoa học đời sống, về thế giới tự nhiên (dạy con người hiểu biết sự vật). Thứ hai: những kiến thức về chính con người, với hiện diện là nhân vị sống trong thế giới tự do chính ta quyết định lựa chọn (dạy con người biết cuộc đời họ có ý nghĩa gì). Với loại kiến thức thứ nhất, Karl Jaspers cho rằng con người chỉ biết chấp nhận và gắn liền chúng với cuộc sống của mình, chứ không thể thay đổi chúng.
Với loại kiến thức thứ hai, Karl Jaspers xem chúng quan trọng hơn và chúng mang tính cá nhân của con người. Tồn tại trong thế giới vô tận và hiện hữu trong đời sống xã hội, con người phải đi tìm bản chất đích thực của họ, sự ưu tiên cho kiến thức khoa học về đời sống của con người không có nghĩa là xem nhẹ kiến thức khoa học.
Ở đây cần phải giáo dục cho người học cả hai loại kiến thức này, hình thành cho người học sự hiểu biết toàn diện, giúp họ đưa ra lựa chọn và quyết định chính xác, dựa trên sự hiểu biết được kiến tạo trước đó, và do đó, như ông viết: “giáo dục tác động có ý nghĩa nhất lên những người chưa quyết định về bản thân mình”.
Phương pháp giáo dục
Để đạt được mục đích giáo dục, giúp con người cá nhân nhận thức được ý nghĩa tồn tại, hình thành nên cách sống riêng của mình, theo Karl Jaspers cần phải làm thay đổi phương pháp dạy học truyền thống. Với phương pháp truyền thống người học mang kiến thức do sự áp đặt của người thầy, người học không được phát huy khả năng sáng tạo, mà ngược lại phải tuân theo lối độc thoại, truyền thụ kiến thức một chiều, làm người học đánh mất sự tồn tại, sự hiện hữu, sự tự do của họ trong bài học, trong cuộc sống. Người học cảm thấy sự hiện diện của mình trong lớp học là sự thừa thải, vô nghĩa, không có giá trị.
Do đó theo Karl Jaspers cần phải thay đổi phương pháp dạy mới, giúp người học nhập cuộc vào bài giảng của thầy, phát huy khả năng sáng tạo của bản thân và tự do quyết định trong giới hạn lớn nhất. Từ những kiến giải này, Jaspers đề cập các phương pháp giáo dục sau:
Phương pháp giáo dục Socrates
Cả thầy và trò cùng đứng trên một bình diện, họ được thảo luận, đối thoại cùng nhau. Phương pháp này không tạo sự ép buộc cho người học mà khuyến khích sự tự nguyện, tính chủ động và tự giác của người học, ở đây không tồn tại một hệ thống giáo dục cứng nhắc, bất biến “chỉ có sự chất vấn và sự vô tri tối hậu đối diện với cái tuyệt đối”. Với phương pháp này trách nhiệm cá nhân được thể hiện và giáo dục được xem là sự “hộ sinh” đỡ đẻ của người học. Người học được giúp đỡ để hình thành những khả năng và sự sáng tạo của mình “người học được đánh thức để nhận rõ những năng lực của chính mình, không bị thúc ép từ bên ngoài”.
Dạy học không phải là một quá trình truyền thụ cho người học các tri thức có sẵn, mà phải dẫn dắt khơi gợi “ham muốn” cho họ đi tìm tri thức, bồi dưỡng tinh thần kiến tạo tri thức, tự quyết định và lựa chọn tri thức riêng cho mình. Chính phương pháp giáo dục Socrates đã thôi thúc sự hiểu biết của người học. Ở phương pháp này người thầy đẩy những môn sinh ra khỏi mình để họ quay lại với chính bản thân họ, tìm về bản chất đích thực mà con người đang tìm kiếm, người thầy sẽ ẩn giấu mình để người học tự do thể hiện khả năng của họ.
Đồng thời mối quan hệ giữa thầy và trò ở đây không phải là lệ thuộc, phục tùng mà là mối quan hệ bình đẳng kiểu Socrastes “quan hệ tranh đua vì chân lý”, hai bên coi trọng tiêu chuẩn chứ không coi trọng quyền uy. Với lối đào tạo truyền thống được đồng hóa với các dòng tu và học viện quân sự, tạo nên sự cứng nhắc trong quá trình đào tạo “khiến cá nhân người học không thể có ý chí hiếu tri chân chính. Nó chặn đứng sự phát triển độc lập của con người vốn không thừa nhận một nguồn mạch hoặc kết nối nào khác hơn là bản thân thượng đế”.
Để loại bỏ tính cứng nhắc khuôn mẫu đó, giáo dục phải mang hình thức của thảo luận và sự đối thoại cùng nhau, nghĩa là mang tinh thần dân chủ sâu sắc. Buổi trao đổi thảo luận giữa thầy và trò được diễn ra nghiêm túc và sinh động, “họ sẽ cùng nhau cố gắng nêu vấn đề thật minh bạch và chuẩn xác sao cho những xung động trong mỗi người được đánh thức để có những đóng góp cá nhân, vững chãi về sau này”. Với phương pháp giáo dục Socrates thầy và trò gặp nhau trên cùng bình diện, tìm thấy lợi ích nhờ sự trao đổi cùng nhau, giúp người học tìm tòi khắc sâu tri thức, góp phần phát triển trí tuệ của người học.
Phương pháp Socrates theo Karl Jaspers nó khắc phục được lối truyền thụ một chiều, tránh mối quan hệ máy móc giữa thầy và trò, thông qua đối thoại người học luôn phải chú ý, phải lựa chọn, quyết định trong mọi tình huống của giờ học, qua đây giúp người học hiểu được trong thế giới này có rất nhiều khó khăn, cạm bẫy ngoài đời sống, đòi hỏi họ phải biết lựa chọn, quyết định và có trách nhiệm với sự lựa chọn, quyết định đó.
Phương pháp thuyết giảng
Theo Karl Jaspers phương pháp thuyết giảng làm người học dễ hiểu, dễ tiếp thu “trình ra những tư liệu phải được học làm sao để người nghe có thể hình dung ra chúng được thu thập như thế nào và vì những lý do gì”. Ngoài ra chúng còn “đánh thức cái xung năng muốn hình dung cái toàn thể” của thế giới tri thức mà người học muốn đạt đến.
Mỗi một bài thuyết giảng chúng có những đặc điểm, giá trị ý nghĩa khác nhau đối với người học, có những bài thuyết giảng chúng lôi cuốn người nghe một cách trí tuệ, có những bài chúng chuyển tải một sự nghiên cứu đích thực cho người học. Qua thuyết giảng người học cảm nhận được sự tự do của mình vì không có một luật lệ nào cho một bài thuyết giảng hay.
Phương pháp thuyết giảng chúng truyền tải tính trách nhiệm, sự nghiêm túc chân thành của thầy cho người học. Phương pháp này giúp người học cảm nhận không có gì là nhân tạo về tư duy và người học được hòa nhập vào cuộc nghiên cứu, sự giảng dạy đích thực của người thầy “người thầy cho chúng ta tham gia vào trong con người trí tuệ sâu thẳm nhất của ông”. Qua đây người học được người thầy dẫn dắt tiếp cận các vấn đề một cách nghiêm túc, trách nhiệm và từ bỏ mọi thứ giả tạo nhằm đạt tới những giá trị chân thật trong đời sống xã hội.
Phương pháp cá biệt hóa
Theo Karl Jaspers mỗi con người được sinh ra ở hoàn cảnh khác nhau, đời sống tinh thần cũng không giống nhau, họ cũng đứng ở một địa vị xã hội, hoàn cảnh gia đình khác nhau.Vì thế Karl Jaspers cho rằng phương pháp giáo dục họ cũng không giống nhau được, mà cần có sự linh động, đa dạng để phù hợp với mục đích của người học.
Karl Jaspres phê phán giáo dục truyền thống với lối dạy của trường trung học, làm người học mất đi tính cá nhân, không phát huy được tiềm năng sáng tạo.Với lối dạy truyền thống một chiều, khuôn mẫu người học được cho vào những nhà máy để chế biến, nhào nặn theo một mô thức giống nhau và sản xuất ra một loạt sản phẩm phù hợp với ý tưởng của người sản xuất chứ không theo ý muốn của người học. Ở đây thầy là người đưa ra mệnh lệnh, trò là người tuân theo, giữa thầy và trò không có sự hòa nhập.
Vì thế Karl Jaspres đã kêu gọi người học thoát ra khỏi sự ràng buộc, những chuẩn mực định sẵn, giáo điều để đến với phương pháp giáo dục đích thực và tính sáng tạo, tính cá nhân con người sẽ được tôn trọng, triết học giáo dục của Karl Jaspers hướng đến sự tồn tại đích thực, hình thành nên giá trị tự thân của con người. Điều này khẳng định lại một thuộc tính nội tại của giáo dục, rằng giáo dục từ trong sâu thẳm đã bao hàm trong nó việc chống lại các giáo điều, vô minh, tức nó là một quá trình khai phóng.
Quan hệ thầy trò
Trong nội dung triết lý giáo dục của mình Karl Jaspers luôn xem trọng, phát huy tối đa vai trò, sự sáng tạo của người học. Để đạt được mục tiêu này theo Karl Jaspers người thầy có vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục. Karl Jaspers quan niệm nếu một nền giáo dục chỉ là để truyền thụ kiến thức thì người thầy chỉ cần có kiến thức chuyên môn là đủ nhưng ở đây giáo dục là quá trình thống nhất.
Giáo dục toàn diện từ tri thức, phẩm chất cho người học, khi đó đòi hỏi bản thân người thầy phải chu toàn về nhân cách, trách nhiệm khi giáo dục trò. Người thầy phải có trách nhiệm trước trò và phải có lương tâm nghề nghiệp. Đồng thời người thầy phải chịu trách nhiệm về nội dung chương trình và phương pháp dạy cho trò, họ phải biết học hỏi, suy tính làm thế nào đổi mới tạo nên những tiết học sinh động, sáng tạo đầy trách nhiệm đối với trò.
Theo Karl Jaspers người thầy cần phải khơi gợi sự độc lập suy nghĩ, rèn luyện óc sáng tạo cho trò, thể hiện mục đích lựa chọn và quyết định của họ. Ngoài ra nhà giáo dục phải hình thành khả năng tự học, trong đời sống hằng ngày cho trò, coi đó là quá trình tự do lựa chọn, rèn luyện nhận thức sâu sắc về con đường học tập.
Xuất phát từ quan điểm học ở đây không chỉ là học các tri thức, chuẩn mực xã hội, mà trò phải nhận thức được ý nghĩa sự tồn tại chính mình, đưa ra lựa chọn, quyết định và chịu trách nhiệm xây dựng cuộc sống cho riêng mình. Với tư cách là chủ thể giáo dục, trò phải biết lựa chọn, quyết định bản thân cần học những gì, học như thế nào và học bao nhiêu là đủ.
Mục đích của trò là làm sự tồn tại của bản thân trở nên phong phú hơn, giúp họ tìm thấy giá trị tồn tại của bản thân, cùng với cách thức thực hiện hữu, quyết định con đường đi và trách nhiệm đối với sự lựa chọn đó. Trong quá trình giáo dục Karl Jaspers xem cả thầy lẫn trò đều là những cá nhân có tính chủ thể của giáo dục, giữa họ phải thật sự “dân chủ” tôn trọng hợp tác lẫn nhau phát huy tối đa khả năng sáng tạo của người học. Đây được xem là sự “truyền thông” giữa thầy và trò trong giáo dục.
Trong mối quan hệ truyền thông giữa thầy và trò không có một sự vật gì ngăn cản “người nói luôn có một vị trí trong mối tương quan trọn vẹn với người nói”. Ở đây quá trình học được diễn ra tự nhiên, thoải mái, tự do không hề có sự áp đặt hay gò bó nào. Chỉ có đứng trên bình diện dân chủ, tự do thì thầy và trò mới thông hiểu, cảm nhận được chân lý thật sự của tri thức.
Nếu mối quan hệ giữa thầy và trò không được xây dựng trên sự dân chủ, tự do thì vai trò chủ thể của người học sẽ mất đi. Sự tồn tại của người học khi đó chỉ như sự tồn tại của sự vật trong thế giới, không có bản chất, chủ thể và cá tính, từ đây quá trình giáo dục sẽ rơi vào trạng thái truyền thụ một chiều, làm mất đi bản chất đích thực của sự giáo dục.
Kết Luận
Tư tưởng triết lý giáo dục của Karl Jaspers hướng đến sự tự do của con người, luôn xem con người là trung tâm của quá trình giáo dục. Do đó trong triết học của ông luôn có sự thống nhất giữa mục đích, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục. Những quan điểm trong triết lý giáo dục của Karl Jaspers có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, nó chứa đựng những giá trị mới cho sự tiếp cận, là cơ sở cho những giải pháp cho quá trình cải cách giáo dục ở các quốc gia hiện nay.
Nguồn tham khảo
Karl Jaspers (1941), On My Philosophy, https://www.marxists.org/reference/subject/philosophy/works/ge/jaspers.htm.
Karl Jaspers (1953). The Origin and Goal of History, dịch bởi Michael Bullock, Nhà xuất bản Đại học Yale.
Karl Jaspers (1958). The Future of Mankind, dịch bởi EBAshton, Nhà xuất bản Đại học Chicago. Thomas Wartenberg, Big Ideas for Little Kids: Teaching Philosophy Through Children’s Literature, Lanham, MD: Rowman & Littlefield Education 2009, tr. 17.
Michael D. Burroughs, “Practicing Philosophy: Philosophy with Children and Experiential Learning,” trong Experiential Learning in Philosophy, biên tập bởi Julinna C. Oxley và Ramona Ilea, New York, NY: Routledge 2014, trang 21-36, tại đây trang 30.
Karl Jaspers, The Idea of the University, dịch bởi Harold AT Reiche và HF Vanderschmidt, Boston, MA: Beacon Press, 1959.
Karl Jaspers, Con đường đến trí tuệ: Giới thiệu về triết học, dịch bởi Ralph Mannheim, New Haven, CT: Nhà xuất bản Đại học Yale, 1954.