Thí nghiệm đường đồng dạng (hay còn gọi là Thí nghiệm Asch) là một nghiên cứu kinh điển trong tâm lý học xã hội. Nó được thực hiện bởi nhà tâm lý học Solomon Asch vào những năm 1950.

Solomon Asch đã thử nghiệm bằng cách điều tra mức độ mà áp lực xã hội từ nhóm đa số có thể ảnh hưởng đến việc một người tuân thủ.

Ông tin rằng vấn đề chính với thí nghiệm tuân thủ của Sherif (1935) là không có câu trả lời đúng cho thí nghiệm tự động học mơ hồ. Làm sao chúng ta có thể chắc chắn rằng một người tuân thủ khi không có câu trả lời đúng?

Asch (1951) đã đưa ra cái mà hiện được coi là một thí nghiệm kinh điển trong tâm lý học xã hội, trong đó có một câu trả lời rõ ràng cho nhiệm vụ đánh giá ranh giới.

Nếu người tham gia đưa ra câu trả lời không chính xác, thì rõ ràng là do áp lực của nhóm.

Các thí nghiệm đường đồng dạng Solomon Asch tiến hành vào những năm 1950 để nghiên cứu cách áp lực xã hội từ nhóm đa số có thể ảnh hưởng đến một cá nhân để tuân thủ. Trong các thí nghiệm này, các nhóm người tham gia được yêu cầu ghép độ dài của các dòng trên thẻ, một nhiệm vụ có câu trả lời rõ ràng.

Quy trình thực nghiệm

Asch đã sử dụng một thí nghiệm trong phòng thí nghiệm để nghiên cứu tính tuân thủ, trong đó 50 nam sinh viên từ trường Cao đẳng Swarthmore ở Hoa Kỳ đã tham gia vào một ‘bài kiểm tra thị lực’.

Sử dụng nhiệm vụ phán đoán đường thẳng, Asch đưa một người tham gia ngây thơ vào một căn phòng với bảy người đồng lõa/kẻ ngốc. Những người đồng lõa đã thỏa thuận trước về phản ứng của họ khi được giao nhiệm vụ đường thẳng.

Người tham gia thực sự không biết điều này và tin rằng bảy người đồng phạm/bù nhìn kia cũng là những người tham gia thực sự giống như họ.

Mỗi người trong phòng phải nói to dòng so sánh nào (A, B hoặc C) giống với dòng mục tiêu nhất. Câu trả lời luôn rõ ràng. Người tham gia thực sự ngồi ở cuối hàng và đưa ra câu trả lời cuối cùng.

Lúc đầu, tất cả những người tham gia (kể cả những người đồng minh) đều đưa ra câu trả lời đúng. Tuy nhiên, sau một vài vòng, những người đồng minh bắt đầu đưa ra câu trả lời sai một cách nhất trí.

Tổng cộng có 18 lần thử nghiệm và những người đồng minh đã đưa ra câu trả lời sai trong 12 lần thử nghiệm (gọi là các lần thử nghiệm quan trọng). Asch muốn xem liệu người tham gia thực sự có tuân theo quan điểm của đa số hay không.

Thí nghiệm của Asch cũng có điều kiện kiểm soát, trong đó không có người đồng phạm, chỉ có một “người tham gia thực sự”.

Phát hiện

Asch đã đo số lần mỗi người tham gia tuân thủ quan điểm của đa số. Trung bình, khoảng một phần ba (32%) số người tham gia được đặt vào tình huống này đã tuân thủ và tuân thủ quan điểm của đa số rõ ràng là không chính xác trong các thử nghiệm quan trọng.

Trong 12 thử nghiệm quan trọng, khoảng 75% người tham gia đã tuân thủ ít nhất một lần và 25% người tham gia không bao giờ tuân thủ.

Trong nhóm đối chứng, không có áp lực phải tuân theo những người đồng minh, ít hơn 1% người tham gia đưa ra câu trả lời sai.

Phần kết luận

Tại sao những người tham gia lại dễ dàng tuân thủ như vậy? Khi được phỏng vấn sau thí nghiệm, hầu hết họ đều nói rằng họ không thực sự tin vào câu trả lời tuân thủ của mình, nhưng đã đi theo nhóm vì sợ bị chế giễu hoặc bị coi là “lạ”.

Một số người cho biết họ tin rằng câu trả lời của nhóm là đúng.

Rõ ràng, mọi người tuân thủ vì hai lý do chính: vì họ muốn hòa nhập với nhóm (ảnh hưởng chuẩn mực) và vì họ tin rằng nhóm có thông tin tốt hơn họ (ảnh hưởng thông tin).

Đánh giá thí nghiệm đường đồng dạng

Một hạn chế của nghiên cứu này là sử dụng mẫu có thiên vị. Tất cả những người tham gia đều là sinh viên nam, tất cả đều thuộc cùng một nhóm tuổi. Điều này có nghĩa là nghiên cứu này thiếu tính hợp lệ của quần thể và kết quả không thể khái quát hóa cho nhóm phụ nữ hoặc nhóm người lớn tuổi.

Một vấn đề khác là thí nghiệm sử dụng một nhiệm vụ nhân tạo để đo lường sự phù hợp – đánh giá độ dài của các đường thẳng. Chúng ta thường xuyên phải đối mặt với việc đưa ra phán đoán như Asch đã sử dụng, trong đó câu trả lời rất dễ thấy?

Điều này có nghĩa là nghiên cứu có giá trị sinh thái thấp và kết quả không thể khái quát hóa cho các tình huống tuân thủ thực tế khác. Asch trả lời rằng ông muốn điều tra một tình huống mà những người tham gia có thể không nghi ngờ gì về câu trả lời đúng. Khi làm như vậy, ông có thể khám phá ra những giới hạn thực sự của ảnh hưởng xã hội.

Một số nhà phê bình cho rằng mức độ tuân thủ cao mà Asch phát hiện phản ánh nền văn hóa Mỹ những năm 1950 và cho chúng ta biết nhiều hơn về bối cảnh lịch sử và văn hóa của Hoa Kỳ trong những năm 1950 so với hiện tượng tuân thủ.

Vào những năm 1950, nước Mỹ rất bảo thủ, tham gia vào cuộc săn lùng phù thủy chống cộng sản (được gọi là chủ nghĩa McCarthy) chống lại bất kỳ ai được cho là có quan điểm cánh tả đồng cảm.

Thí nghiệm Perrin và Spencer

Sự tuân thủ các giá trị của người Mỹ được mong đợi. Sự hỗ trợ cho điều này đến từ các nghiên cứu trong những năm 1970 và 1980 cho thấy tỷ lệ tuân thủ thấp hơn (ví dụ: Perrin & Spencer, 1980).

Perrin và Spencer (1980) cho rằng hiệu ứng Asch là “đứa con của thời đại”. Họ đã thực hiện một bản sao chính xác của thí nghiệm Asch ban đầu bằng cách sử dụng sinh viên kỹ thuật, toán học và hóa học làm đối tượng. Họ phát hiện ra rằng chỉ có một trong 396 lần thử nghiệm có người quan sát tham gia vào nhóm đa số sai lầm.

Perrin và Spencer cho rằng đã có sự thay đổi về mặt văn hóa trong việc coi trọng sự tuân thủ và vâng lời cũng như trong vị trí của học sinh.

Ở Mỹ vào những năm 1950, học sinh là những thành viên không quan trọng của xã hội, nhưng hiện nay, họ được tự do đặt câu hỏi.

Tuy nhiên, một vấn đề khi so sánh nghiên cứu này với Asch là các loại người tham gia rất khác nhau được sử dụng. Perrin và Spencer đã sử dụng sinh viên khoa học và kỹ thuật, những người có thể được kỳ vọng là độc lập hơn nhờ được đào tạo khi đưa ra phán đoán nhận thức.

Cuối cùng, còn có những vấn đề về đạo đức: những người tham gia không được bảo vệ khỏi căng thẳng tâm lý có thể xảy ra nếu họ không đồng tình với đa số.

Bằng chứng cho thấy những người tham gia vào các tình huống kiểu Asch có mức độ cảm xúc cao đã được Back và cộng sự (1963) thu thập, họ phát hiện ra rằng những người tham gia vào tình huống Asch có mức độ kích thích tự chủ tăng cao đáng kể.

Phát hiện này cũng cho thấy rằng họ đang ở trong tình huống xung đột, gặp khó khăn trong việc quyết định có nên báo cáo những gì họ nhìn thấy hay tuân theo ý kiến ​​của người khác.

Asch cũng lừa dối các sinh viên tình nguyện bằng cách tuyên bố họ đang tham gia một bài kiểm tra “tầm nhìn”; mục đích thực sự là để xem người tham gia “ngây thơ” sẽ phản ứng thế nào với hành vi của những người đồng lõa. Tuy nhiên, sự lừa dối là cần thiết để tạo ra kết quả hợp lệ.

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thí nghiệm đường đồng dạng

Trong các thử nghiệm tiếp theo, Asch (1952, 1956) đã thay đổi quy trình (tức là các biến độc lập) để điều tra các yếu tố tình huống nào ảnh hưởng đến mức độ tuân thủ (biến phụ thuộc).

Kích thước nhóm

Asch (1956) phát hiện ra rằng quy mô nhóm ảnh hưởng đến việc các đối tượng có tuân thủ hay không. Nhóm đa số càng lớn (số lượng người đồng tình), thì càng có nhiều người tuân thủ, nhưng chỉ đến một mức độ nhất định.

Với một người khác (tức là người đồng lõa) trong nhóm, mức độ phù hợp là 3%, với hai người khác, mức độ này tăng lên 13% và với ba người trở lên, mức độ này là 32% (hoặc 1/3).

Hiệu ứng tuân thủ tối ưu (32%) được tìm thấy với đa số là 3. Việc tăng quy mô của đa số vượt quá ba không làm tăng mức độ tuân thủ được tìm thấy. Brown và Byrne (1997) cho rằng mọi người có thể nghi ngờ thông đồng nếu đa số vượt quá ba hoặc bốn.

Theo Hogg & Vaughan (1995), phát hiện đáng tin cậy nhất là sự tuân thủ đạt đến mức độ cao nhất khi có 3-5 người tham gia, các thành viên bổ sung có ít tác động.

Thiếu sự nhất trí của nhóm/Sự hiện diện của một đồng minh

Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng khi bất kỳ cá nhân nào khác biệt với số đông, sức mạnh của sự tuân thủ sẽ giảm đáng kể.

Điều này cho thấy ngay cả một sự bất đồng nhỏ cũng có thể làm giảm sức mạnh của một nhóm lớn hơn, cung cấp cái nhìn sâu sắc quan trọng về cách cá nhân có thể chống lại áp lực xã hội.

Khi mức độ tuân thủ giảm xuống khi có năm thành viên trở lên, có thể sự nhất trí của nhóm (tất cả những người đồng mưu đều đồng ý với nhau) quan trọng hơn quy mô của nhóm.

Trong một biến thể khác của thí nghiệm gốc, Asch đã phá vỡ sự nhất trí (hoàn toàn đồng ý) của nhóm bằng cách đưa vào một đồng minh bất đồng quan điểm.

Asch (1956) phát hiện rằng ngay cả sự hiện diện của chỉ một người đồng minh đi ngược lại sự lựa chọn của đa số cũng có thể làm giảm sự tuân thủ tới 80%.

Ví dụ, trong thí nghiệm ban đầu, 32% người tham gia tuân thủ các thử nghiệm quan trọng, trong khi khi một người đồng phạm đưa ra câu trả lời đúng trong tất cả các thử nghiệm quan trọng, tỷ lệ tuân thủ giảm xuống còn 5%.

Điều này được hỗ trợ trong một nghiên cứu của Allen và Levine (1968). Trong phiên bản thí nghiệm của họ, họ giới thiệu một người đồng minh bất đồng quan điểm (không đồng tình) đeo kính gọng dày – do đó cho thấy anh ta bị khiếm thị nhẹ.

Ngay cả với người bất đồng chính kiến ​​có vẻ kém cỏi này, sự tuân thủ đã giảm từ 97% xuống 64%. Rõ ràng, sự hiện diện của một đồng minh làm giảm sự tuân thủ.

Việc không có sự nhất trí của nhóm làm giảm sự tuân thủ chung vì những người tham gia cảm thấy ít cần sự chấp thuận của xã hội đối với nhóm (tức là sự tuân thủ chuẩn mực).

Độ khó của nhiệm vụ

Khi các đường so sánh (ví dụ: A, B, C) có độ dài tương tự nhau thì việc đánh giá câu trả lời đúng trở nên khó khăn hơn và tính phù hợp tăng lên.

Khi chúng ta không chắc chắn, có vẻ như chúng ta tìm kiếm sự xác nhận từ người khác. Nhiệm vụ càng khó khăn, sự tuân thủ càng lớn.

Trả lời riêng tư

Khi những người tham gia được phép trả lời riêng tư (do đó những người còn lại trong nhóm không biết câu trả lời của họ), mức độ tuân thủ giảm xuống.

Điều này là do áp lực từ nhóm ít hơn và ảnh hưởng chuẩn mực không mạnh bằng, vì không có nỗi sợ bị nhóm từ chối.

Những câu hỏi thường gặp

Thí nghiệm về đường tuân thủ Asch đã ảnh hưởng như thế nào đến sự hiểu biết của chúng ta về sự tuân thủ?

Thí nghiệm về đường tuân thủ Asch đã chỉ ra rằng mọi người dễ tuân thủ các chuẩn mực của nhóm ngay cả khi các chuẩn mực đó rõ ràng là không đúng. Thí nghiệm này đã tác động đáng kể đến sự hiểu biết của chúng ta về ảnh hưởng xã hội và sự tuân thủ, làm nổi bật ảnh hưởng mạnh mẽ của áp lực nhóm đối với hành vi cá nhân.

Nó đã giúp các nhà nghiên cứu hiểu được tầm quan trọng của các chuẩn mực xã hội và động lực nhóm trong việc hình thành niềm tin và hành vi của chúng ta và có tác động đáng kể đến việc nghiên cứu tâm lý xã hội.

Một số ví dụ thực tế về sự tuân thủ là gì?

Ví dụ về sự tuân thủ trong cuộc sống hàng ngày bao gồm việc tuân theo xu hướng thời trang, tuân thủ các chuẩn mực nơi làm việc và áp dụng các niềm tin và giá trị của một nhóm xã hội cụ thể. Các ví dụ khác bao gồm việc tuân thủ áp lực từ bạn bè, tuân theo các truyền thống và phong tục văn hóa và tuân thủ các kỳ vọng của xã hội về vai trò và hành vi giới tính.

Sự tuân thủ có thể có cả tác động tích cực và tiêu cực đến cá nhân và xã hội, tùy thuộc vào bối cảnh và hậu quả của hành vi.

Một số tác động tiêu cực của sự tuân thủ là gì?

Sự tuân thủ có thể có tác động tiêu cực đến cá nhân và xã hội. Nó có thể hạn chế sự sáng tạo và tư duy độc lập, thúc đẩy các chuẩn mực và thực hành xã hội có hại, và ngăn cản sự phát triển cá nhân và thể hiện bản thân.

Việc tuân thủ theo một nhóm cũng có thể dẫn đến “tư duy nhóm”, khi nhóm ưu tiên sự tuân thủ hơn là tư duy phản biện và ra quyết định, điều này có thể dẫn đến những lựa chọn kém.

Hơn nữa, sự tuân thủ có thể lan truyền thông tin sai lệch và hành vi có hại trong nhóm, vì cá nhân có thể sợ thách thức niềm tin hoặc hành động của nhóm.

Sự tuân thủ khác với sự vâng lời như thế nào?

Sự tuân thủ bao gồm việc điều chỉnh hành vi hoặc niềm tin của một người để phù hợp với các chuẩn mực của một nhóm, ngay cả khi những niềm tin hoặc hành vi đó không phù hợp với quan điểm cá nhân của một người. Ngược lại, sự tuân thủ bao gồm việc tuân theo các mệnh lệnh hoặc chỉ thị của một người có thẩm quyền, thường là không có câu hỏi hoặc suy nghĩ phản biện.

Trong khi sự tuân thủ và vâng lời liên quan đến ảnh hưởng xã hội, thì sự tuân thủ thường là phản ứng trước yêu cầu hoặc đòi hỏi rõ ràng từ người có thẩm quyền, trong khi sự tuân thủ là phản ứng trước áp lực xã hội ngầm từ một nhóm.

Hiệu ứng Asch là gì?

Hiệu ứng Asch là thuật ngữ được đặt ra từ Thí nghiệm về sự phù hợp của Asch do Solomon Asch thực hiện. Thuật ngữ này ám chỉ ảnh hưởng của đa số nhóm lên phán đoán hoặc hành vi của một cá nhân, theo đó cá nhân đó có thể tuân theo các chuẩn mực nhóm được nhận thức ngay cả khi các chuẩn mực đó rõ ràng là không chính xác hoặc trái ngược với phán đoán ban đầu của cá nhân đó.

Hiệu ứng này nhấn mạnh sức mạnh của áp lực xã hội và xu hướng tuân thủ mạnh mẽ của con người trong môi trường nhóm.

Đóng góp của Solomon Asch cho ngành tâm lý học là gì?

Solomon Asch có những đóng góp đáng kể cho ngành tâm lý học thông qua các nghiên cứu của ông về áp lực xã hội và sự tuân thủ.

Những thí nghiệm đường đồng dạng về sự tuân thủ nổi tiếng của ông vào những năm 1950 đã chứng minh rằng cá nhân thường tuân thủ theo quan điểm của số đông, ngay cả khi quan điểm đó rõ ràng là không chính xác.

Công trình của ông có vai trò cơ bản trong việc hiểu được ảnh hưởng xã hội và sức mạnh của động lực nhóm trong việc hình thành hành vi và nhận thức của cá nhân.

Nguồn tham khảo

Allen, V. L., & Levine, J. M. (1968). Social support, dissent and conformity. Sociometry, 138-149.

Asch, S. E. (1951). Effects of group pressure upon the modification and distortion of judgment. In H. Guetzkow (ed.) Groups, leadership and men. Pittsburgh, PA: Carnegie Press.

Asch, S. E. (1952). Group forces in the modification and distortion of judgments.

Asch, S. E. (1956). Studies of independence and conformity: I. A minority of one against a unanimous majority. Psychological monographs: General and applied, 70(9), 1-70.

Back, K. W., Bogdonoff, M. D., Shaw, D. M., & Klein, R. F. (1963). An interpretation of experimental conformity through physiological measures. Behavioral Science, 8(1), 34.

Bond, R., & Smith, P. B. (1996). Culture and conformity: A meta-analysis of studies using Asch’s (1952b, 1956) line judgment task. Psychological bulletin, 119(1), 111.

Longman, W., Vaughan, G., & Hogg, M. (1995). Introduction to social psychology.

Perrin, S., & Spencer, C. (1980). The Asch effect: a child of its time? Bulletin of the British Psychological Society, 32, 405-406.

Sherif, M., & Sherif, C. W. (1953). Groups in harmony and tension. New York: Harper & Row.

Related Posts

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *