Tâm lý học nhận thức Aaron Beck được xem là lý thuyết ảnh hưởng và góp phần định hình tâm lý học hiện đại. Aaron Beck, cha đẻ của tâm lý học nhận thức, đã có đóng góp to lớn trong việc hiểu và điều trị các rối loạn tâm lý. Ban đầu theo đuổi phân tâm học, Aaron Beck nhanh chóng nhận ra những hạn chế của phương pháp này và chuyển sang nghiên cứu về nhận thức và suy nghĩ tiêu cực trong trầm cảm.

Từ những phát hiện của mình, Aaron Beck phát triển Liệu pháp Nhận thức – Hành vi (CBT), giúp bệnh nhân nhận diện và thay đổi các suy nghĩ méo mó, từ đó cải thiện sức khỏe tinh thần. Nhờ nền tảng khoa học vững chắc, CBT không chỉ trở thành một phương pháp trị liệu hiệu quả mà còn góp phần định hình tâm lý học hiện đại.

Tiểu sử về Aaron Beck

Aaron Beck tên thật là Aaron Temkin Beck, MD, sinh ngày 18 tháng 7 năm 1921 tại Providence, Rhode Island, Hoa Kỳ, là con út trong số ba người con còn sống. Aaron được bạn bè và gia đình trìu mến gọi là Tim. Cha mẹ anh, Harry Beck, một thợ in, và Elizabeth Temkin, một thợ may và nhân viên cửa hàng, là những người Do Thái Ashkenazi nhập cư từ Ukraine.

Tuổi thơ của Aaron Beck gắn liền với những mất mát. Hai anh chị của ông qua đời trước khi ông chào đời, một người anh trai mất khi còn nhỏ và một chị gái qua đời trong đại dịch cúm. Chuỗi bi kịch này đã khiến mẹ của Beck rơi vào trạng thái trầm cảm kéo dài, điều này có thể đã ảnh hưởng sâu sắc đến lựa chọn nghề nghiệp của ông sau này.

Là một cậu bé, Aaron Beck tham gia Hướng đạo sinh và chơi bóng rổ, bóng bầu dục. Năm 8 tuổi, ông bị gãy tay và phải phẫu thuật, nhưng sau đó mắc nhiễm trùng nghiêm trọng và phải nằm viện suốt một tháng. Thời gian trong bệnh viện đã giúp ông phát triển niềm đam mê suốt đời với đọc và viết. Ông cũng bắt đầu sợ hãi chấn thương và máu, nhưng dần học cách kiểm soát nỗi sợ này bằng cách chuyển hướng tập trung của tâm trí.

Sau khi tốt nghiệp trung học, Beck theo học tại Đại học Brown, chuyên ngành tiếng Anh và khoa học chính trị, và tốt nghiệp loại xuất sắc vào năm 1942.

Năm 1946, ông lấy bằng y khoa tại Trường Y Đại học Yale, sau đó bắt đầu chương trình nội trú về thần kinh học tại Bệnh viện Cựu chiến binh Cushing ở Framingham, Massachusetts. Tuy nhiên, khi thực hiện một đợt luân phiên kéo dài sáu tháng tại khoa tâm thần, Beck bị thu hút bởi phân tâm học, điều này đã làm thay đổi hoàn toàn con đường sự nghiệp của ông.

Ông hoàn thành các chương trình thực tập và nội trú y khoa vào năm 1950, sau đó trở thành nghiên cứu sinh tâm thần học tại Trung tâm Austen Riggs cho đến năm 1952. Aaron Beck cũng phục vụ trong quân đội với vai trò phó trưởng khoa thần kinh – tâm thần tại Bệnh viện Quân đội Valley Forge.

Năm 1954, Aaron Beck gia nhập khoa Tâm thần học tại Đại học Pennsylvania, nơi ông vừa nghiên cứu vừa thực hành lâm sàng. Đồng thời, ông bắt đầu chương trình đào tạo phân tâm học tại Viện Phân tâm học Philadelphia.

Sự nghiệp của Aaron Beck

Beck vào Yale với ý định học ngành tâm thần học, nhưng đã nản lòng sau khi học khóa đầu tiên về phân tâm học , mà ban đầu ông coi là “vô nghĩa”. Cuối cùng, sau khi hoàn thành một đợt luân phiên về tâm thần học, ông đã trở nên say mê với phương pháp phân tâm học và cách tiếp cận này giúp trả lời các câu hỏi về rối loạn tâm lý dễ dàng như thế nào.

“Tôi đã đi đến kết luận”, Beck viết trong một lá thư gửi cho một đồng nghiệp năm 1958, “rằng có một hệ thống khái niệm đặc biệt phù hợp với nhu cầu của sinh viên y khoa và bác sĩ tương lai: Phân tâm học”.

Aaron Beck đã dành phần lớn thời gian đầu sự nghiệp của mình để nghiên cứu và học tập về phân tâm học, đặc biệt là để điều trị chứng trầm cảm (Beck, 2019). Sau một vài năm hành nghề trị liệu phân tâm học, Beck bắt đầu nhận thấy rằng phương pháp này thiếu sự nghiêm ngặt về mặt khoa học, cấu trúc và bằng chứng thực nghiệm mà ông mong muốn.

Ông chuyển sự quan tâm sang phương pháp tiếp cận nhận thức và nghiên cứu của ông trong lĩnh vực này đã được tăng cường sau khi nhận việc tại khoa tâm thần học của Đại học Pennsylvania, nơi ông thành lập một phòng khám nghiên cứu về chứng trầm cảm.

Aaron Beck phát hiện ra rằng những bệnh nhân trầm cảm của ông thường có những suy nghĩ tiêu cực tự phát về bản thân, thế giới và người khác. Những bệnh nhân suy nghĩ về những suy nghĩ này sau đó bắt đầu coi chúng là hợp lệ và chính xác.

Trọng tâm của ông sớm chuyển sang giúp bệnh nhân xác định những suy nghĩ tự động tiêu cực này và thay thế chúng bằng những suy nghĩ thực tế và chính xác hơn để giảm thiểu các kiểu suy nghĩ méo mó góp phần gây ra chứng trầm cảm.

Aaron Beck phát hiện ra rằng điều trị thành công bất kỳ rối loạn nào cũng liên quan đến việc khiến bệnh nhân nhận thức được những kiểu suy nghĩ tiêu cực này. Phương pháp điều trị này cuối cùng được gọi là liệu pháp nhận thức hành vi (CBT).

Sự phát triển của tâm lý học nhận thức Aaron Beck

Là một bác sĩ tâm thần trẻ tuổi vào những năm 1950, Tiến sĩ Aaron Beck hoàn toàn ủng hộ phương thức trị liệu tâm lý thống trị vào thời điểm đó: phân tâm học. Nghiên cứu đầu tiên của ông tìm cách xác nhận các cấu trúc phân tâm học.

Ông đã rất ngạc nhiên khi nghiên cứu của mình dường như bác bỏ các nguyên lý cơ bản của lý thuyết phân tâm học. Thay vì xác nhận lý thuyết phân tâm học rằng những khách hàng bị trầm cảm cảm thấy nhu cầu bẩm sinh phải chịu đựng, các nghiên cứu ban đầu của Tiến sĩ Aaron Beck với những bệnh nhân bị trầm cảm dường như chỉ ra những niềm tin tiêu cực tiềm ẩn liên quan đến mất mát và thất bại.

Aaron Beck sớm bắt đầu hiểu rằng những niềm tin tiềm ẩn này phù hợp với những suy nghĩ tự động của bệnh nhân, có thể được tiếp cận và đánh giá hợp tác trong buổi trị liệu. Tiến sĩ Aaron Beck chuyển bệnh nhân của mình từ ghế dài sang ghế, nơi ông làm việc với họ để kiểm tra những suy nghĩ tự động của họ và xác định những biến dạng nhận thức.

Bằng cách giúp bệnh nhân sửa chữa những thành kiến ​​xử lý thông tin tiêu cực, ông có thể giúp họ cảm thấy tốt hơn và tham gia vào các hành vi thích ứng hơn. Aaron Beck gọi liệu pháp mới của mình là “Liệu pháp nhận thức”.

Năm 1977, kết quả của thử nghiệm lâm sàng lớn đầu tiên so sánh Liệu pháp nhận thức với thuốc chống trầm cảm đã được công bố ( Rush et al., 1977 ). Liệu pháp nhận thức đã trở thành liệu pháp trò chuyện đầu tiên được chứng minh là hiệu quả hơn thuốc trong điều trị trầm cảm.

Khi một nghiên cứu thứ hai, được tiến hành tại Vương quốc Anh và công bố vào năm 1981, dường như lặp lại kết quả ( Blackburn et al., 1981 ), sự quan tâm đến phương pháp tiếp cận này đã tăng lên trên toàn quốc và quốc tế.

Tiến sĩ Aaron Beck (và các đồng nghiệp) bắt đầu áp dụng Liệu pháp nhận thức cho các rối loạn khác, chẳng hạn như lo âu, rối loạn nhân cách, sử dụng chất gây nghiện và ý định tự tử.

Liệu pháp sẽ được xác nhận bằng một thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên, sau đó phổ biến trong các tài liệu để những người khác có thể nghiên cứu, thực hành và tinh chỉnh phương pháp điều trị ( Beck, 2019 ).

Các nhà nghiên cứu khác đã làm theo. Ví dụ, tại Vương quốc Anh, một nhóm tại Oxford đã sử dụng một phương pháp tương tự để thiết kế và thử nghiệm các giao thức điều trị Liệu pháp nhận thức cho chứng rối loạn hoảng sợ, rối loạn lo âu xã hội, rối loạn ám ảnh cưỡng chế và rối loạn căng thẳng sau chấn thương ( Clark, 1986 ; Clark & ​​Wells, 1995 ; Salkovskis, 1999 ; Ehlers và cộng sự, 2005 ).

Liệu pháp nhận thức cũng đã được áp dụng thành công cho các chứng rối loạn ăn uống, các vấn đề của các cặp đôi, sự tức giận và thù địch, chứng loạn thần và các vấn đề sức khỏe tâm thần khác.

Được áp dụng thành công cho trẻ em, thanh thiếu niên, người lớn và người lớn tuổi trong nhiều bối cảnh khác nhau, bao gồm bệnh viện, phòng khám ngoại trú, nơi ở, trường học và nhà tù.

Ngoài ra, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những bệnh nhân mắc các bệnh lý có thể được hưởng lợi từ Liệu pháp nhận thức, hay còn gọi là Liệu pháp hành vi nhận thức (CBT), như ngày nay.

Trong nhiều trường hợp, CBT có thể giúp giảm các triệu chứng. Trong những trường hợp khác, CBT có thể giúp bệnh nhân đối phó tốt hơn với các bệnh lý của họ. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng những bệnh nhân mắc nhiều vấn đề y khoa từ chứng mất trí nhớ và mất ngủ đến hội chứng ruột kích thích, đau nửa đầu, béo phì và đau mãn tính đã được hưởng lợi từ CBT.

Aaron Beck và Cuộc Cách Mạng trong Trị Liệu Trầm Cảm

Aaron Beck, cha đẻ của Liệu pháp Nhận thức – Hành vi (CBT), đã có những phát hiện mang tính đột phá về mối liên hệ giữa suy nghĩ và cảm xúc trong trầm cảm.

Trong quá trình điều trị bệnh nhân, ông nhận thấy rằng những người mắc trầm cảm thường có những suy nghĩ tiêu cực tự phát về bản thân, môi trường xung quanh và tương lai. Khi những suy nghĩ này xuất hiện, bệnh nhân có xu hướng chấp nhận chúng như một thực tế hiển nhiên mà không đặt ra nghi vấn. Điều này khiến họ khó thoát khỏi vòng lặp của những cảm xúc tiêu cực.

Aaron Beck tập trung vào việc giúp bệnh nhân xác định những suy nghĩ tự động tiêu cực và thay thế chúng bằng những suy nghĩ khách quan và thực tế hơn.

Ông nhận ra rằng để điều trị thành công bất kỳ vấn đề tâm lý nào, điều quan trọng nhất là làm cho bệnh nhân nhận thức được những khuôn mẫu suy nghĩ tiêu cực của họ. Chính phương pháp tiếp cận này đã dẫn đến sự ra đời của Liệu pháp Nhận thức – Hành vi (CBT), một trong những phương pháp trị liệu hiệu quả và phổ biến nhất trong tâm lý học lâm sàng hiện nay.

Mô Hình Nhận Thức Đầu Tiên về Trầm Cảm

Trong những nghiên cứu ban đầu về trầm cảm, Beck phát triển mô hình nhận thức đầu tiên, trong đó ông xác định ba khái niệm chính làm nền tảng cho rối loạn trầm cảm. Đây được gọi là Tam giác nhận thức (Cognitive Triad), bao gồm ba khía cạnh tiêu cực:

Tam giác nhận thức (Cognitive Triad), bao gồm ba khía cạnh tiêu cực:
  • Quan điểm tiêu cực về bản thân – Bệnh nhân cảm thấy mình vô dụng, không có giá trị và không xứng đáng với tình yêu thương hay sự thành công.
  • Quan điểm tiêu cực về thế giới – Họ nhìn nhận cuộc sống và môi trường xung quanh một cách bi quan, cảm thấy rằng xã hội đầy rẫy những khó khăn và bất công.
  • Quan điểm tiêu cực về tương lai – Họ tin rằng tương lai chỉ toàn thất bại, thất vọng và đau khổ, khiến họ mất động lực và hy vọng.

Theo Beck, tam giác nhận thức này là cốt lõi gây ra các rối loạn cảm xúc, làm suy giảm năng lượng và động lực sống của bệnh nhân. Trên cơ sở này, ông phát triển một loại hình trị liệu nhằm xác định và điều chỉnh những méo mó trong tư duy của bệnh nhân, giúp họ có cái nhìn tích cực hơn về bản thân, thế giới và tương lai.

Các Công Cụ Đánh Giá và Kiểm Chứng Hiệu Quả Trị Liệu

Để đo lường mức độ hiệu quả của liệu pháp nhận thức, Beck đã thiết kế các bài kiểm tra tâm lý giúp đánh giá mức độ trầm cảm và lo âu của bệnh nhân một cách khoa học và khách quan. Hai trong số các công cụ phổ biến nhất do ông phát triển là:

  • Beck Depression Inventory (BDI) – Thang đo trầm cảm Beck, giúp đánh giá mức độ trầm cảm của một cá nhân dựa trên các câu hỏi liên quan đến cảm xúc, suy nghĩ và hành vi.
  • Beck Anxiety Inventory (BAI) – Thang đo lo âu Beck, đo lường mức độ lo âu và căng thẳng tâm lý của bệnh nhân.

Các bài kiểm tra này không chỉ giúp chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh lý mà còn là công cụ quan trọng để Beck chứng minh tính hiệu quả của liệu pháp nhận thức – hành vi. Những công cụ này ngày nay vẫn được sử dụng rộng rãi trong tâm lý học lâm sàng trên toàn thế giới.

Đóng góp của Aaron Beck cho Tâm Lý Học

CBT đã trở thành liệu pháp tâm lý được thực hành rộng rãi nhất ( Knapp và cộng sự, 2015 ) và được nghiên cứu sâu rộng nhất ( David và cộng sự, 2018 ) trên thế giới. Phần lớn thành công của nó có thể là nhờ sự chú ý cẩn thận dành cho việc phổ biến và triển khai cũng như đào tạo và cấp chứng chỉ cho các nhà trị liệu CBT trên toàn thế giới.

Vì mục đích này, Tiến sĩ Aaron Beck và con gái của ông, Tiến sĩ Judith Beck, đã thành lập Viện Beck về Liệu pháp hành vi nhận thức (BI) phi lợi nhuận vào năm 1994. Sứ mệnh của BI là cải thiện cuộc sống trên toàn thế giới thông qua sự xuất sắc và đổi mới trong đào tạo, thực hành và nghiên cứu CBT.

Tổ chức đã đào tạo hơn 28.000 chuyên gia y tế và sức khỏe tâm thần từ 130 quốc gia thông qua nhiều chương trình trực tiếp và trực tuyến cũng như giám sát từ xa, bao gồm một số nhà nghiên cứu hàng đầu về CBT hiện nay. Tất cả các chương trình của tổ chức đều hoạt động để phục vụ cho sứ mệnh của mình.

Một trong những triển khai CBT lớn nhất và thành công nhất là chương trình Cải thiện khả năng tiếp cận các liệu pháp tâm lý (IAPT).

Tiến sĩ David M. Clark, một nhà nghiên cứu CBT nổi tiếng, người đã duy trì mối quan hệ làm việc chặt chẽ với Tiến sĩ Aaron Beck kể từ khi ông còn là nghiên cứu sinh tiến sĩ, đã hợp tác với nhà kinh tế học Lord Richard Layard để mở rộng đáng kể khả năng tiếp cận các liệu pháp tâm lý dựa trên bằng chứng trên khắp nước Anh thông qua một cuộc đại tu lớn đối với Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh (NHS).

Thông qua IAPT, Tiến sĩ Clark và các đồng nghiệp của ông đã đào tạo hơn 10.500 bác sĩ lâm sàng về CBT và các liệu pháp dựa trên bằng chứng khác.

Tính đến năm 2019, một triệu người tham gia chương trình mỗi năm, với hơn nửa triệu người nhận được một liệu trình điều trị. Chương trình đã thu thập dữ liệu về kết quả của 99% những người được điều trị. Khoảng bảy trong số mười cá nhân được điều trị (67%) cho thấy sự giảm đáng kể về lo lắng hoặc trầm cảm của họ. Đối với năm trong số mười người (51%), mức giảm đủ lớn để người đó được phân loại là đã phục hồi (Clark, 2019).

Đến năm 2024, chương trình IAPT có kế hoạch tăng phạm vi tiếp cận từ một triệu lên 1,9 triệu cá nhân mỗi năm. Chương trình IAPT đã chứng minh rằng việc cải thiện sức khỏe tâm thần cộng đồng không chỉ khả thi mà còn tiết kiệm chi phí. Chương trình này sẽ đóng vai trò là bản thiết kế cho các quốc gia trên khắp thế giới muốn giải quyết cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần toàn cầu đang gia tăng.

Tiến sĩ Aaron Beck vẫn tiếp tục nghiên cứu về phương pháp điều trị bệnh lý tâm thần, họ đã phát triển Liệu pháp nhận thức hướng đến phục hồi (CT-R), cung cấp các bước cụ thể, có thể thực hiện được để thúc đẩy quá trình phục hồi và khả năng phục hồi ở những cá nhân mắc các tình trạng sức khỏe tâm thần nghiêm trọng.

CT-R đang bắt đầu thay đổi cách thức khái niệm hóa và điều trị bệnh tâm thần nghiêm trọng. Nghiên cứu ban đầu đã hỗ trợ cách tiếp cận này ( Grant và cộng sự, 2012 ; Grant và cộng sự, 2017 ).

Ban đầu được phát triển để điều trị bệnh tâm thần phân liệt, các nguyên tắc của CT-R có thể được kết hợp vào CBT ( J. Beck, 2020 ) và có thể đặc biệt hữu ích đối với những cá nhân đang gặp phải những thách thức lớn về sức khỏe thể chất, xã hội và hành vi.

CT-R có tính cộng tác cao, lấy con người làm trung tâm và dựa trên điểm mạnh, tập trung vào việc phát triển và củng cố niềm tin tích cực về mục đích, hy vọng, hiệu quả, trao quyền và sự gắn bó (và giảm bớt sự tập trung vào các triệu chứng và niềm tin tiêu cực).

Cách tiếp cận này đã được triển khai trong nhiều cơ sở nội trú, nhà ở và cộng đồng, dẫn đến việc giảm hoặc loại bỏ các biện pháp can thiệp kiểm soát như cách ly, hạn chế và dùng thuốc khi cần thiết, cũng như rút ngắn thời gian nằm viện cho các cá nhân ( Beck và cộng sự, 2020 ).

Nguồn tham khảo

Beck AT. A 60-year evolution of cognitive theory and therapy. Perspect Psychol Sci. 2019;14(1):16-20. doi:10.1177/1745691618804187

Blackburn, I. M., Bishop, S., Glen, A. I. M., Whalley, L. J., & Christie, J. E. (1981). The efficacy of cognitive therapy in depression: A treatment trial using cognitive therapy and pharmacotherapy, each alone and in combination. The British Journal of Psychiatry, 139(3), 181–189. 10.1192/bjp.139.3.181

Rush, A. J., Beck, A. T., Kovacs, M., & Hollon, S. (1977). Comparative efficacy of cognitive therapy and pharmacotherapy in the treatment of depressed outpatients. Cognitive Therapy and Research, 1, 17–37. 10.1007/BF01173502

Beck, A. T. (2019). A 60-year evolution of cognitive theory and therapy. Perspectives on Psychological Science, 14(1), 16–20. 10.1177/1745691618804187

Clark, D. M. (1986). A cognitive approach to panic. Behaviour Research and Therapy, 24(4), 461–470. 10.1016/0005-7967(86)90011-2

Clark, D. M., & Wells, A. (1995). A cognitive model of social phobia. In R. G. Heimberg, M. Liebowitz, D. Hope, & F. Scheier (Eds.), Social phobia: Diagnosis, assessment and treatment (pp. 69–93). New York, NY, USA: Guilford Press.

Salkovskis, P. M. (1999). Understanding and treating obsessive—compulsive disorder. Behaviour Research and Therapy, 37, S29–S52. 10.1016/S0005-7967(99)00049-2

Ehlers, A., Clark, D. M., Hackmann, A., McManus, F., & Fennell, M. (2005). Cognitive therapy for post-traumatic stress disorder: Development and evaluation. Behaviour Research and Therapy, 43(4), 413–431. 10.1016/j.brat.2004.03.006

Knapp, P., Kieling, C., & Beck, A. T. (2015). What do psychotherapists do? A systematic review and meta-regression of surveys. Psychotherapy and Psychosomatics, 84(6), 377–378. 10.1159/000433555 

David, D., Cristea, I., & Hofmann, S. G. (2018). Why cognitive behavioral therapy is the current gold standard of psychotherapy. Frontiers in Psychiatry, 9, 4. 10.3389/fpsyt.2018.00004

Beck, J. S. (2020). Cognitive Behavior Therapy, Third Edition: Basics and Beyond. New York, NY, USA: Guilford Press.

Clark, D. M. (2019). IAPT at 10: Achievements and challenges.

Grant, P. M., Huh, G. A., Perivoliotis, D., Stolar, N. M., & Beck, A. T. (2012). Randomized trial to evaluate the efficacy of cognitive therapy for low-functioning patients with schizophrenia. Archives of General Psychiatry, 69, 121–127. 10.1001/archgenpsychiatry.2011.129

Grant, P. M., Bredemeier, K., & Beck, A. T. (2017). Six-month follow-up of recovery-oriented cognitive therapy for low-functioning individuals with schizophrenia. Psychiatric Services, 68, 997–1002. 10.1176/appi.ps.201600413

Bài viết liên quan

BẢN TIN TÂM LÝ LIỆU PHÁP MỐI QUAN HỆ SỨC KHOẺ TINH THẦN

BẢN TIN TÂM LÝ LIỆU PHÁP NGHỆ THUẬT

2 nội dung được đề xuất bởi “Tâm lý học nhận thức Aaron Beck

  1. Pingback: Phân biệt cảm giác và tri giác trong tâm lý học

  2. Pingback: Mô hình tiềm lực nhận thức trong tâm lý học - PSYEZ MEDIA

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *