Lý thuyết nhân cách của Erich Fromm dựa trên khái niệm của Freud rằng các đặc điểm tính cách là động lực. Ông tin rằng cấu trúc tính cách giải thích hành động, suy nghĩ và ý tưởng: điều gì thúc đẩy mọi người và điều gì khiến họ thấy thỏa mãn hoặc thất vọng.

Erich Fromm là một nhà phân tâm học theo trường phái tân Freud, người đã đề xuất một lý thuyết về tính cách dựa trên hai nhu cầu chính: nhu cầu tự do và nhu cầu được thuộc về. Ông đề xuất rằng mọi người nên phát triển một số phong cách hoặc chiến lược tính cách nhất định  để đối phó với sự lo lắng do cảm giác bị cô lập tạo ra.

Ông cho rằng bốn trong số những kiểu tính cách này là những kiểu tính cách không hiệu quả, trong khi kiểu tính cách còn lại là những kiểu tính cách hiệu quả.

Erich Fromm đề xuất một lý thuyết về tính cách nhấn mạnh đến những nhu cầu cơ bản của con người cũng như vai trò quan trọng của các yếu tố xã hội và văn hóa trong việc hình thành tính cách. Những ý tưởng của ông về việc tìm kiếm ý nghĩa và nhu cầu được thuộc về vẫn tiếp tục định hình các cuộc trò chuyện đương đại về những chủ đề này.

Erich Fromm (1900-1980) là một nhà phân tâm học người Mỹ gốc Đức có liên hệ với Trường phái Frankfurt, người nhấn mạnh vai trò của văn hóa trong việc phát triển nhân cách. Ông ủng hộ phân tâm học như một công cụ để chữa trị các vấn đề văn hóa và do đó làm giảm bệnh tâm thần.

Fromm tin rằng tính cách ở con người tiến hóa như một cách để con người đáp ứng nhu cầu của mình. Không giống như Freud, ông không tin rằng tính cách là cố định.

Fromm đã phác thảo năm nhu cầu thiết yếu của con người: sự liên quan, sự bám rễ, sự siêu việt, ý thức về bản sắc và khuôn khổ định hướng. Theo Fromm, sự thiếu hụt những điều này sẽ gây ra các vấn đề về tinh thần và xã hội như sự xa lánh.

Fromm hình dung ra những phiên bản lý tưởng của xã hội và tôn giáo nhấn mạnh đến tự do và đáp ứng nhu cầu của con người. Khi làm như vậy, ông đã trở thành một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội nhân văn.

Sơ cấu tạo nên lý thuyết nhân cách của Erich Fromm

Erich Fromm là nhà phân tâm học và triết gia xã hội người Mỹ gốc Đức, người nhấn mạnh vào các yếu tố văn hóa quyết định tính cách.

Các tác phẩm của ông nghiên cứu các vấn đề cảm xúc trong xã hội tự do và ủng hộ phân tâm học như một phương pháp chữa trị các căn bệnh văn hóa và là công cụ hỗ trợ phát triển một xã hội không loạn thần kinh.

Fromm, sinh ra tại Frankfurt, được đào tạo tại Heidelberg và Munich trước khi thành lập một phòng khám tâm lý trị liệu tư nhân vào năm 1925. Fromm bắt đầu là học trò của Sigmund Freud, kết hợp các lý thuyết tâm lý của ông với các nguyên tắc xã hội của Karl Marx.

Ông đã sử dụng một phương pháp phân tâm học độc đáo liên quan đến việc đối mặt với bệnh nhân với tư cách vừa là nhà trị liệu vừa là một người đồng cảm khác, nhấn mạnh rằng không có đặc điểm hay yếu tố nào hiện diện ở bệnh nhân mà không có ở những người khác (Maccoby, 1980).

Trốn khỏi Đức Quốc xã, Fromm chuyển đến Chicago vào năm 1933 để giảng dạy tại Viện Phân tâm học. Ông giảng dạy tại một số trường đại học Hoa Kỳ và mở rộng quan điểm của mình để kết hợp các nguyên tắc của Phật giáo Thiền tông.

Năm 1957, ông đồng sáng lập Ủy ban Quốc gia về Chính sách Hạt nhân Lành mạnh. Fromm cũng viết một số sách và bài viết cho các học giả và công chúng nói chung (Maccoby, 1980).

Fromm lần đầu tiên nổi tiếng với công chúng qua cuốn sách Escape From Freedom (trốn thoát tự do), tác phẩm giải thích nỗi sợ tự do vô thức của con người và sự hấp dẫn của các hệ thống chính trị độc tài.

Cuốn sách này phần lớn định hình tư tưởng trí thức ở Mỹ vào thời điểm đó và khiến Fromm được xếp vào nhóm người theo chủ nghĩa tân Freud, cùng với Karen Horney và Harry Stack Sullivan.

Mặc dù ba nhân vật này khác nhau, theo Fromm, mỗi người đều nhấn mạnh vào các yếu tố xã hội và văn hóa và có thái độ phê phán đối với lý thuyết về tính ưu việt của bản năng tình dục của Freud.

Năm 1951, Fromm trở thành giáo sư tại Đại học Quốc gia Mexico, nơi ông thành lập Viện Phân tâm học Mexico và thường xuyên đi Hoa Kỳ trước khi định cư tại Thụy Sĩ vào năm 1971 (Maccoby, 1980).

3 chủ đề lớn của lý thuyết nhân cách của Erich Fromm

Fromm đã phát triển một số chủ đề chính, xây dựng và tinh chỉnh các ý tưởng của mình theo từng bước. Một chủ đề là tính cách xã hội, liên quan đến lý thuyết phân tâm học về động lực năng động với các yếu tố kinh tế xã hội.

Chủ đề thứ hai là việc Fromm sửa đổi phân tâm học của Freud, đặc biệt là sự nhấn mạnh của ông vào tính hung hăng và tính hủy diệt.

Chủ đề thứ ba liên quan đến sự phê phán của ông đối với xã hội công nghiệp, và chủ đề thứ tư là phân tích của ông về tôn giáo và mối quan hệ của nó với sự phát triển của con người (Maccoby, 1980).

Tính cách xã hội

Fromm xây dựng lý thuyết về tính cách xã hội của mình dựa trên khái niệm của Freud rằng các đặc điểm tính cách là động lực  Ông tin rằng cấu trúc tính cách giải thích hành động, suy nghĩ và ý tưởng: điều gì thúc đẩy mọi người và điều gì khiến họ thấy thỏa mãn hoặc thất vọng.

Fromm chấp nhận mô tả lâm sàng của Freud về khuynh hướng tính cách trong lý thuyết tâm lý tình dục về sự phát triển tính cách của ông. Hai trong số đó là tính cách hậu môn và tính cách tiếp nhận bằng miệng.

Tính cách hậu môn, hay tính cách giữ hậu môn là tính keo kiệt, bắt buộc phải tìm kiếm sự ngăn nắp và gọn gàng. Những người có tính cách giữ hậu môn được cho là bị ám ảnh bởi giai đoạn phát triển hậu môn, diễn ra trong độ tuổi từ 18 tháng đến ba tuổi.

Trong khi đó, tính cách giữ lại lời nói mô tả những người mắc kẹt trong giai đoạn phát triển tâm lý tình dục đầu tiên, xảy ra từ khi mới sinh đến mười tám tháng tuổi.

Freud tin rằng những người bị ám ảnh ở giai đoạn phát triển miệng có tính cách mỉa mai, tàn ác và dễ mắc các bệnh về miệng như hút thuốc, ăn quá nhiều và nghiện rượu.

Mặc dù Fromm chấp nhận cả hai khái niệm này, ông bác bỏ lý thuyết ham muốn tình dục vì cho rằng nó giải thích sự phát triển tính cách (Maccoby, 1980).

Fromm cho rằng, mặc dù nhu cầu sinh lý cần được thỏa mãn, nhưng chúng không phải là động lực bên trong cơ bản quyết định hành động, cảm xúc và suy nghĩ của một người.

Fromm tin rằng Tính cách tương đương với bản năng quyết định của động vật, thứ mà con người đã đánh mất. Đó là cách con người có thể truyền năng lượng và tạo ra cấu trúc thông qua quá trình đồng hóa và xã hội hóa.

Theo Fromm, sự phát triển của Nhân cách cho phép con người thỏa mãn nhu cầu sinh tồn về mặt thể chất, nhu cầu liên hệ tình cảm với người khác để phòng thủ, làm việc, sở hữu vật chất, thỏa mãn tình dục, vui chơi, nuôi dạy con cái và truyền đạt kiến ​​thức (Maccoby, 1980).

Fromm tin rằng tính cách xã hội là nền tảng cho cấu trúc tính cách và được chia sẻ bởi hầu hết các thành viên của một nhóm văn hóa hoặc xã hội. Thay vì là một thước đo thống kê hoặc các đặc điểm được chia sẻ bởi đa số, tính cách xã hội có thể được hiểu theo nghĩa là một cấu trúc kinh tế xã hội – ai sở hữu phương tiện để sản xuất ra mọi thứ.

Fromm cho rằng bản chất xã hội có mục đích định hình năng lượng của các thành viên trong xã hội theo cách mà hành vi không phải là vấn đề quyết định có ý thức có tuân theo khuôn mẫu xã hội hay không mà là vấn đề muốn hành động như họ phải hành động và đồng thời tìm thấy sự thỏa mãn khi hành động theo yêu cầu của nền văn hóa.

Fromm tin rằng mục tiêu cuối cùng của việc này là cho phép xã hội hoạt động liên tục.

Một ví dụ về tính cách xã hội là bản sửa đổi của Fromm (1951) về khái niệm tính cách hậu môn của Freud, bao gồm các động lực bên trong hướng đến sự ngăn nắp, tiết kiệm, đúng giờ và tôn trọng thẩm quyền. Fromm tin rằng điều này đáp ứng được nhu cầu kinh tế của tầng lớp trung lưu vào thế kỷ XIX.

Tuy nhiên, trong các xã hội tư bản tiên tiến của thế kỷ XX, tính chất xã hội đang được thay thế bằng tính chất hướng tới tiêu dùng và phù hợp với các cấu trúc quan liêu thông qua việc thích nghi với các quy tắc và quy định của chúng (Maccoby, 1980).

Fromm sử dụng tính cách xã hội để mô tả xung đột xã hội cũng như sự thích nghi. Khi điều kiện thay đổi, tính cách xã hội có thể không còn phù hợp nữa. Sự oán giận và thất vọng nảy sinh biến chất kết dính xã hội thành một lực nổ.

Fromm cũng cho rằng nhu cầu xã hội có thể xung đột với nhu cầu bắt nguồn từ bản chất của con người và nhu cầu vốn có của họ về tình yêu, tình đoàn kết với người khác, cũng như sự phát triển của lý trí và tài năng sáng tạo.

Theo Fromm, các xã hội không đáp ứng được những nhu cầu này của con người sẽ phát triển một “khuyết tật có khuôn mẫu xã hội” (Maccoby, 1980).

Sửa đổi Phân tâm học và Bệnh lý học Freudian

Fromm có mối quan hệ được coi là phức tạp với Freud và công trình của ông (Maccoby, 1980). Fromm chỉ trích lý thuyết của Freud và khuynh hướng đòi hỏi sự trong sáng về mặt ý thức hệ trong phân tâm học (1959).

Tuy nhiên, Fromm cũng tìm cách phát triển và bảo tồn những gì ông coi là các yếu tố thiết yếu trong những khám phá của Freud: biến vô thức thành ý thức và khoa học về sự phi lý (Maccoby, 1980).

Fromm (1970) chỉ trích mô hình con người của Freud là bị chi phối quá mức bởi quan điểm xã hội của ông, chẳng hạn như niềm tin vào chế độ gia trưởng và niềm tin rằng con người về cơ bản là ích kỷ.

Fromm lập luận rằng khi giới hạn sự chỉ trích của mình về chuẩn mực xã hội trong phạm vi tình dục, Freud đã gặp bất lợi trong việc phát triển toàn bộ ý nghĩa ẩn dụ trong những khám phá của mình.

Ví dụ, Fromm lập luận rằng trong nghiên cứu trường hợp “Little Hans” của mình, mô hình con người của Freud đã khiến ông hiểu sai bằng chứng lâm sàng và đánh giá thấp tầm quan trọng của mối quan hệ giữa đứa trẻ với mẹ mình trước giai đoạn Oedipus.

Fromm cũng cho rằng tình yêu trưởng thành đòi hỏi sự bình đẳng giữa hai giới (Maccoby, 1980).

Fromm bác bỏ các lý thuyết bản năng của Freud, thay vào đó coi bệnh lý tâm thần bắt nguồn từ tính cách. Trong cuốn sách Escape from Freedom, Fromm mô tả chủ nghĩa bạo dâm và khổ dâm là kết quả của nhu cầu cơ bản về sự liên quan.

Fromm tin rằng việc con người không thể chịu đựng được cảm giác bất lực, bất trắc và tách biệt đã dẫn đến bệnh lý tâm thần (Maccoby, 1980).

Fromm mô tả ba lực bệnh lý chính của tâm lý (1964). Hai trong số đó, sự cố định loạn luân và chủ nghĩa tự ái, dựa trên các khái niệm của Freud, và lực thứ ba, ái tử thi, là khám phá của riêng Fromm (Maccoby, 1980).

Phê phán xã hội công nghiệp

Fromm đặc biệt xây dựng dựa trên các tác phẩm đầu tiên của Karl Marx trong cuốn sách The Sane Society của ông và sau đó xuất bản hai cuốn sách về chủ nghĩa Marx.

Sane Society được dự định là sự tiếp nối tác phẩm đầu tiên của ông, Escape from Freedom, được xuất bản 15 năm trước đó (Tillich, 1955), mở rộng giữa phân tích tâm lý và xã hội trước đó của ông để phát triển hình ảnh về một xã hội tương lai, nơi sức khỏe của toàn thể hỗ trợ sức khỏe của mỗi cá nhân.

Trong The Sane Society, Fromm mô tả “sự tha hóa” của con người trong nền Dân chủ giữa thế kỷ XX (Fromm, 1955). Fromm coi sự tha hóa này là một điều cần thiết của sự phát triển con người và do đó, là điều có thể khắc phục được trong quá trình phát triển của con người. Xã hội lành mạnh của Fromm chinh phục được sự tha hóa (Tillich, 1955).

Đồng thời, Fromm tìm cách nhấn mạnh lý tưởng tự do theo cách còn thiếu trong chủ nghĩa Marx của Liên Xô đương thời.

Cuối cùng, Fromm coi chủ nghĩa tư bản phương Tây và chủ nghĩa cộng sản Liên Xô là vô nhân đạo và là nguyên nhân gây ra sự xa lánh. Cuối cùng, The Sane Society đã xác định Fromm là người sáng lập ra chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa (Fromm, 2017).

Những Giả Định Cơ Bản Của Lý Thuyết Nhân Cách của Erich Fromm

Fromm tin rằng tính cách là thứ bắt nguồn từ cả di truyền và kinh nghiệm học tập của chúng ta. Một số khía cạnh của tính cách là di truyền. Những khía cạnh khác bắt nguồn từ những gì chúng ta học được ở nhà, ở trường và từ xã hội. Và tất nhiên, có sự tương tác giữa những ảnh hưởng này.

5 định hướng nhân vật của Fromm

Fromm tin rằng tính cách là thứ gì đó ăn sâu vào tiềm thức và khó thay đổi. Tuy nhiên, nhận thức được xu hướng của mình và cam kết thay đổi có thể giúp truyền cảm hứng cho sự thay đổi.

Những đặc điểm khác nhau xuất hiện từ mỗi loại tính cách trong năm loại tính cách đều có cả mặt tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, Fromm nhìn chung coi bốn định hướng đầu tiên là không hiệu quả.

Fromm cũng tin rằng con người có thể thể hiện những đặc điểm của nhiều loại tính cách khác nhau và rằng tính cách có thể được tạo nên từ sự kết hợp của nhiều khuynh hướng tính cách khác nhau.

Kiểu nhân vật tiếp thu

Kiểu người tiếp nhận được đặc trưng bởi nhu cầu được hỗ trợ liên tục. Họ có xu hướng thụ động, thiếu thốn và hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Mặc dù họ cần sự hỗ trợ liên tục từ gia đình, bạn bè và những người khác, nhưng họ không đáp lại.

Những kiểu người dễ tiếp thu cũng có xu hướng thiếu tự tin vào khả năng của mình và gặp khó khăn trong việc tự đưa ra quyết định. Fromm cho rằng kiểu tính cách này có nhiều khả năng xuất hiện khi mọi người lớn lên trong những gia đình áp đặt và kiểm soát.

Kiểu nhân vật bóc lột

Kiểu người khai thác sẵn sàng nói dối, lừa đảo và thao túng người khác để có được thứ họ cần. Để thỏa mãn nhu cầu được thuộc về, họ có thể tìm đến những người có lòng tự trọng thấp hoặc nói dối về việc yêu một người mà họ thực sự không quan tâm.

Theo Fromm, những người có kiểu tính cách này sẽ lấy những gì họ cần bằng vũ lực hoặc lừa dối và lợi dụng người khác để đáp ứng nhu cầu ích kỷ của riêng mình.

Kiểu nhân vật tích trữ

Kiểu người tích trữ đối phó với sự bất an bằng cách không bao giờ từ bỏ bất cứ thứ gì. Họ thường tích trữ một lượng lớn tài sản và thường có vẻ quan tâm đến tài sản vật chất của mình hơn là con người.

Họ có sự gắn bó không lành mạnh với các vật chất và cảm thấy an toàn hơn khi được bao quanh bởi nhiều tài sản của mình. Mặc dù tích lũy được nhiều của cải vật chất, họ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn và luôn có cảm giác thiếu thốn điều gì đó.

Kiểu nhân vật tiếp thị

Kiểu tiếp thị xem xét các mối quan hệ theo khía cạnh những gì họ có thể đạt được từ sự trao đổi. Họ có thể tập trung vào việc kết hôn với ai đó vì tiền hoặc địa vị xã hội và có xu hướng có tính cách nông cạn và lo lắng.

Fromm tin rằng những người có kiểu tính cách này có xu hướng cơ hội và thay đổi niềm tin cũng như giá trị của họ tùy thuộc vào những gì họ nghĩ sẽ giúp họ tiến lên.

Ông cũng cho rằng hành vi này gây hại đến quyền tự do của con người vì những người có kiểu tính cách này tìm cách đạt được quyền lực, sự giàu có và địa vị xã hội bằng cách lợi dụng người khác để đạt được những mục tiêu đó.

Kiểu nhân vật năng suất

Kiểu người năng suất là người lấy cảm xúc tiêu cực của mình và chuyển năng lượng vào công việc hiệu quả. Họ tập trung vào việc xây dựng các mối quan hệ yêu thương, nuôi dưỡng và có ý nghĩa với người khác. Điều này không chỉ áp dụng cho các mối quan hệ lãng mạn mà còn cho các mối quan hệ gia đình, tình bạn và các mối quan hệ xã hội khác.

Những người có tính cách năng suất thường được mô tả là những người bạn đời, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp và nhân viên tốt.

Trong số năm kiểu tính cách được Fromm mô tả, kiểu tính cách năng suất là cách tiếp cận lành mạnh duy nhất để giải quyết nỗi lo lắng phát sinh từ xung đột giữa nhu cầu tự do và cảm giác được thuộc về.

Nhu cầu cơ bản trong lý thuyết nhân cách của Erich Fromm

Fromm đưa ra giả thuyết rằng có năm nhu cầu cơ bản của con người: sự liên quan, sự gốc rễ, sự siêu việt, ý thức về bản sắc và khuôn khổ định hướng (Das, 1993).

Relatedness – Sự liên quan

Fromm đã thảo luận rất nhiều về vấn đề xa lánh trong xã hội đương đại. Ông tin rằng xa lánh là vấn đề phát sinh khi nhu cầu liên quan của con người không được đáp ứng.

Nhu cầu này quan trọng đến mức ông coi sự xa lánh là “vấn đề trung tâm của sức khỏe tâm thần” (Fromm, 2017).

Fromm mở rộng ý tưởng của Marx rằng sự xa lánh là điều không mong muốn để mọi người nói đến. Ông tin rằng sự xa lánh dẫn đến sự buồn chán, mà Fromm coi là một vấn đề tâm lý to lớn, và do đó là vấn đề xã hội.

Với Fromm, sự gắn kết là nguồn năng lượng tâm lý, niềm vui, hạnh phúc và bản sắc, và mất đi sự gắn kết sẽ làm tiêu tan nguồn năng lượng này.

Đối với Fromm, đó là sự thiếu liên hệ tích cực với thế giới và cảm xúc của chính mình do hoàn cảnh xã hội ngăn cản mọi người phát triển các mối quan hệ chân thành, yêu thương và hiệu quả.

Nhu cầu liên quan đầu tiên của con người là mong muốn có sự kết nối giữa con người và các mối quan hệ có ý nghĩa. Nó liên quan trực tiếp đến định hướng sản xuất, được đặc trưng bởi khả năng hình thành các mối quan hệ lành mạnh với người khác và khả năng cho đi và nhận lại sự đồng cảm. Thiếu sự liên quan, Fromm cho rằng, là một vấn đề trung tâm có tác động đáng kể đến sức khỏe tâm thần.

Rootedness and Unity – Sự bám rễ và sự thống nhất

Fromm coi nhu cầu về sự bám rễ và sự thống nhất là những biến thể của nhu cầu về sự liên quan. Ông tin rằng con người tìm kiếm sự thống nhất vì sự chia rẽ hiện sinh giữa thế giới con người và thế giới phi con người.

Fromm tin rằng tình trạng này sẽ không thể chịu đựng được” nếu con người không thiết lập được ý thức thống nhất bên trong bản thân và với thế giới tự nhiên và con người bên ngoài.

Tương tự như mối quan hệ thân thiết, Fromm tin rằng con người có thể phát triển mối quan hệ thân thiết thông qua việc phát triển mối quan hệ với người khác.

Điều này giúp mọi người vượt qua sự tách biệt với mọi người trong xã hội và cảm thấy bớt cô đơn.

Mọi người có nhu cầu cảm thấy mình được thuộc về. Tìm kiếm sự bám rễ có thể giúp mọi người hình thành các mối liên hệ và tạo ra cảm giác an toàn và bảo mật. Nhu cầu bám rễ không lành mạnh có thể dẫn đến sự phụ thuộc quá mức và thiếu linh hoạt. Ví dụ, những người có khuynh hướng tiếp thu có thể có nhu cầu bám rễ mạnh hơn khi họ tìm kiếm cảm giác ổn định trong cuộc sống.

Excitement and Stimulation – Phấn khích, siêu việt

Fromm lập luận rằng con người có nhu cầu bẩm sinh về sự phấn khích và kích thích và có xu hướng tìm kiếm niềm vui và tích cực quan tâm đến con người, sự vật và ý tưởng (Fromm, 2017).

Trích dẫn Karl Bühler, Fromm tin rằng con người tìm thấy niềm vui vốn có khi thực hiện chức năng (Funktionslust) và tham gia các hoạt động.

Nhu cầu này đề cập đến mong muốn kết nối với những thứ vĩ đại hơn bản thân chúng ta. Nó có thể liên quan đến ý thức về mục đích, hoặc có thể tập trung vào những thứ như thiên nhiên, nghệ thuật hoặc tôn giáo. Những người có định hướng sản xuất có nhiều khả năng theo đuổi các hoạt động mang lại cho họ cảm giác siêu việt và kết nối với thế giới bên ngoài bản thân họ.

Effectiveness, Freedom – Hiệu quả, tự do

Tuy nhiên, theo quan điểm của Fromm, hoạt động này không chỉ thỏa mãn nhu cầu của con người. Thay vào đó, Fromm tin rằng con người cần phải làm công việc sáng tạo có tác động có ý nghĩa đến thế giới.

Ông tin rằng con người có nhu cầu tác động đến một điều gì đó vì hiệu ứng này khẳng định rằng ai đó không phải là bất lực mà là con người sống động và có chức năng (Fromm, 2000).

Để minh họa cho nhu cầu về hiệu quả, Fromm đã mượn ví dụ của Marx về người thợ thủ công thời trung cổ.

Fromm tin rằng nghệ nhân là một cá nhân có năng suất và sáng tạo, người thích thú với quá trình làm việc (Fromm, 2017).

Kết quả vật chất của nghề thủ công đáp ứng nhu cầu sâu sắc không chỉ về sự kích thích hay hoạt động mà còn về hiệu quả.

Nhu cầu độc lập và tự chủ là một khía cạnh quan trọng trong lý thuyết về tính cách của Fromm. Nhu cầu này có thể xung đột với nhu cầu được thuộc về, tạo ra cảm giác lo lắng có thể thúc đẩy hành vi không hiệu quả. Ví dụ, khuynh hướng tính cách tích trữ tìm kiếm sự tự do bằng cách tích lũy của cải vật chất, mà những thứ riêng lẻ sẽ mang lại sự ổn định và cảm giác kiểm soát môi trường.

Sense of Identity – Cảm giác về bản sắc

Cảm nhận về bản sắc của Fromm cũng bắt nguồn và phụ thuộc vào nhu cầu cốt lõi về sự liên quan và hiệu quả.

Fromm tin rằng khi ở trong một thế giới xa lạ và áp đảo, con người có thể cảm thấy bất lực. Để bù đắp cho khả năng thực sự của cảm giác thụ động – và mất đi ý chí – con người phải có được cảm giác có thể làm được điều gì đó.

Khả năng hiệu quả này hình thành nên bản sắc của một người (Fromm, 2000).

Fromm tin rằng con người cũng có nhu cầu phát triển ý thức về bản thân. Điều này có thể tạo ra ý thức vững chắc về bản sắc cho phép mọi người có lòng tự trọng và sự tự tin lành mạnh, nhưng nó cũng có thể dẫn đến các vấn đề. Ví dụ, những người có định hướng tiếp thị có thể cảm thấy buộc phải xác định bản thân thông qua tài sản của họ. Họ có thể bị ảnh hưởng nặng nề bởi áp lực xã hội và văn hóa tiêu dùng.

Các định hướng tính cách mà Fromm mô tả là kết quả từ những nỗ lực của con người để đáp ứng và thích nghi với những nhu cầu này. Kiểu năng suất là kiểu lành mạnh nhất và tạo ra sự cân bằng hài hòa. Các định hướng khác đại diện cho những cách ít lành mạnh hơn để đối phó với những nhu cầu như vậy. Trong mỗi trường hợp, mọi người đều nhấn mạnh quá mức một nhu cầu trong khi bỏ bê những nhu cầu khác.

Xem thêm: Tháp nhu cầu của Maslow.

Phân Tích Tôn Giáo Với Sự Phát Triển Của Con Người

Fromm tin rằng cuộc sống là cuộc đấu tranh giữa ba sự đối lập cơ bản: tự do và quyết định luận, tách biệt và thống nhất, kiến ​​thức và sự thiếu hiểu biết.

Fromm nổi tiếng với sự chỉ trích tân Freud về tôn giáo. Ông tin rằng tôn giáo là sự trốn tránh trách nhiệm — và lý trí luôn tốt hơn tôn giáo.

Trong khi các linh mục và nhà phân tâm học đều xử lý tâm hồn, Fromm khẳng định, chỉ có nhà phân tâm học mới biến cá nhân thành thẩm quyền chịu trách nhiệm (Tillich, 1955).

Tuy nhiên, Fromm cũng tin rằng mọi người đều có nhu cầu tôn giáo. Theo Fromm, con người cần ý nghĩa trong cuộc sống và một cách định hướng sâu sắc hơn với thế giới mà lý trí không thể cung cấp. Không giống như Freud, Fromm tin rằng tôn giáo là điều tất yếu.

Do đó, Fromm tìm cách phân biệt giữa tôn giáo tốt và xấu.

Ông cho rằng tôn giáo xấu, hay “tôn giáo độc đoán”, là tôn giáo mà con người bị biến thành nô lệ một cách không đúng mực cho một quyền lực cao hơn và do đó bị buộc phải hy sinh sự chính trực của mình (Tillich, 1955).

Trong khi đó, cái mà Fromm gọi là “tôn giáo nhân bản” tập trung vào sức mạnh của con người trước sự bất lực của họ và cho rằng điều làm thỏa mãn cá nhân là tốt. Theo Fromm, mục tiêu của tôn giáo nhân bản là tự nhận thức, không phải là tuân theo thẩm quyền.

Nguồn tham khảo

Das, A. K. (1993). The dialectical humanism of Erich Fromm. (2), 50-60.

Fromm, E. (1951). Märchen, Mythen, Träume. Eine Einführung in das Verständnis einer vergessenen Sprache.

Fromm, E. (1959). Psychoanalysis and Zen buddhism. Psychologia, 2(2), 79-99.

Fromm, E. (1964). Creators and destroyers. The Saturday Review, New York (4.1. 1964), pp. 22-25.

Fromm, E. (2000). The art of loving: The centennial edition. A&C Black.

Fromm, E., & Anderson, L. A. (2017). The sane society. Routledge.

Maccoby, M. (1980). Erich Fromm. Biographical Supplement of the International Encyclopedia of the Social Sciences, New York 1980. pp. 215-220.

Tillich, P. (1955). Erich Fromm’s the sane society. Pastoral Psychology, 6(6), 13-16.

Bài Viết Liên Quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *