Cơ chế phòng vệ là những chiến lược tâm lý được vô thức sử dụng nhằm giảm sự lo âu phát sinh từ những suy nghĩ hay cảm xúc khó chấp nhận.

Theo lý thuyết của Freud, cơ chế phòng vệ liên quan đến sự bóp méo mối quan hệ theo cách của phụ nữ để chúng ta có thể đối phó tốt hơn với một tình huống (Freud, 1894).

Sigmund Freud(1894, 1896) đã ghi nhận một số biện pháp phòng vệ bản ngã, mà ông đề cập đến trong suốt các tác phẩm viết của mình. Con gái ông là Anna Freud(1936) đã phát triển những ý tưởng này và giải thích thêm, thêm vào mười ý tưởng của riêng bà. Nhiều nhà phân tâm học cũng đã thêm vào các loại biện pháp phòng vệ bản ngã khác.

Theo nhà phân tâm học Sigmun Freud cho rằng, cái tôi phải đối diện với những nhu cầu đến từ hai phía là xung động vô thức và siêu ngã.

Tuy nhiên đôi lúc xung đột giữa xung động vô thức và siêu ngã quá mạnh mẽ cái tôi phải vô thức tự động bảo vệ nó bằng cách thay đổi chúng thành những xung lực dễ chấp nhận hơn, ít đe dọa hơn.

Hướng nghiên cứu này sau đó được Anna Freud (1936) mở rộng và chỉ ra các cơ chế phòng vệ cụ thể.

Tiểu sử Anna Freud

Anna Freud sinh ngày 3 tháng 12 năm 1895 tại Vienna, Áo. Là con gái của Sigmund Freud, bà trở thành một trong những nhà phân tâm học nổi tiếng nhất thế kỷ 20, đặc biệt trong lĩnh vực phân tâm học trẻ em.

Anna Freud không chỉ kế thừa những nghiên cứu của cha mình mà còn phát triển thêm nhiều lý thuyết quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực cơ chế phòng vệ. Bà trở thành một nhân vật quan trọng trong sự phát triển của phân tâm học hiện đại và tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về tác động của môi trường và gia đình đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em.

Các tác phẩm của Anna Freud đã tạo ra ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực tâm lý học trẻ em và phân tâm học, và bà được coi là một trong những người đặt nền móng cho việc phân tích tâm lý trẻ em hiện đại.

Anna Freud đã mở rộng lý thuyết về cơ chế phòng vệ do Sigmund Freud khởi xướng

Theo Anna Freud, cơ chế phòng vệ là các chiến lược vô thức mà bản ngã sử dụng để giảm bớt lo âu khi phải đối mặt với xung đột giữa các yếu tố của vô thức, ý thức và siêu ngã. Anna Freud đã nghiên cứu và hệ thống hóa các cơ chế phòng vệ, phân loại chúng và khám phá cách mà chúng hoạt động trong quá trình phát triển tâm lý của trẻ em.

Theo bà, cơ chế phòng vệ là cần thiết cho cái tôi để duy trì sự cân bằng giữa những áp lực vô thức siêu ngã (Freud, 1936). Các cơ chế phòng vệ được Anna Freud xem là công cụ giúp cái tôi chống lại lo âu, nhưng cũng có thể gây ra những rối loạn tâm lý khi chúng được sử dụng quá mức.

Anna Freud là người đầu tiên hệ thống hóa các cơ chế phòng vệ như một phần của quá trình phát triển tâm lý.

Một trong những đóng góp quan trọng nhất của Anna Freud là cuốn sách “The Ego and the Mechanisms of Defense” (1936), trong đó bà giới thiệu và giải thích chi tiết 10 cơ chế phòng vệ cơ bản, bao gồm chối bỏ, dồn nén, thay thế, và lý luận hóa.

Bà cũng chỉ ra rằng việc sử dụng các cơ chế phòng vệ không chỉ xuất hiện ở người lớn mà còn phổ biến ở trẻ em khi chúng đối diện với những cảm xúc và tình huống khó khăn.

Các cơ chế phòng vệ

10 Cơ chế phòng vệ
10 Cơ chế phòng vệ do Ana Freud đề xuất

Denial – Cơ chế phòng vệ chối bỏ

Khi một tình huống quá khó để giải quyết, một cá nhân có thể phản ứng bằng cách từ chối nhận thức về nó hoặc phủ nhân sự tồn tại của nó.

Ví dụ: vợ ngoại tình rõ ràng nhưng chồng từ chối thừa nhận những dấu hiệu, nhiều người cố tình không chấp nhận sự ra đi của người thân.

Cơ chế chặn các sự kiện có hại từ bên ngoài, không cho chúng đi vào tâm thức. Khi tiếp cận với tình huống quá sức xử lý, chịu đựng, cá nhân sẽ từ chối nhập cuộc với tình huống ấy. Theo Anna Freud thì cơ chế phòng vệ này là không lành mạnh vì chúng ta không thể đóng cửa mãi với vấn đề ấy được. Đây là cơ chế tiền đề cho sự xuất hiện của các cơ chế phòng vệ không lành mạnh khác.

Ví dụ: Một số học sinh không dám đi xem điểm vì sợ mình sẽ rớt; Bất tỉnh khi nhìn thấy máu. Khi chuyện tình cảm đổ vỡ; Nhiều người không tin rằng họ bị phản bội.

Repression – Cơ chế tự về dồn nén

Là một cơ chế phòng vệ vô thức được bản ngã sử dụng để giữ cho những suy nghĩ gây xáo trộn hoặc đe dọa không trở thành ý thức được. Anna Freud gọi đó là “sự lãng quên có động cơ”, đó là: không thể nhớ lại một tình huống, con người hoặc sự kiện mang tính đe dọa.

Ví dụ: cậu bé lúc nhỏ bị nhốt trong căn phòng đầy nhện, lớn lên không còn nhớ về trải nghiệm đó nữa, nhưng cứ gặp nhện là sợ mà bản thân không rõ nguyên do.

Anna Freud gọi đây là sự lãng quên có động cơ, khi đó cá nhân không thể nhớ những tình huống, sự kiện gây đau đớn trong quá khứ. Ví dụ như : Một anh chàng không hiểu vì sao mình sợ nhện, cho đến khi anh ta được người lớn kể rằng lúc nhỏ anh bị kẹt trong một căn phòng đầy nhện. Bằng một cách nào đó anh ta đã quên được ký ức về căn phòng đầy nhện, nhưng nỗi sợ về nhện vẫn ảnh hưởng một cách gián tiếp khó nhận ra. Cơ chế phòng vệ này là căn nguyên của những nỗi sợ không rõ lý do.

Một hình thái dồn nén nhẹ hơn gọi là hạn chế cái tôi. Điều này lý giải một người không hứng thú với  một mảng trong đời sống nên đã tập trung vào mảng khác.

Ví dụ: Một người sợ mình không có cơ hội yêu đương nên đã tập trung vào việc học tập, một cậu bé học kém thường tập trung vào tập luyện thể thao.

Projection – Phóng chiếu

Được Anna Freud gọi là hoán chuyển cảm xúc hướng ngoại. Đây là hành động mà cá nhân gán ghép cảm xúc của mình lên người khác, nhất là những cảm xúc tiêu cực. Họ có những suy nghĩ tồn tại trong đầu của mình nhưng lại cho là người khác cũng có những suy nghĩ như vậy (suy bụng ta ra bụng người). Cơ chế gán ghép cảm xúc giúp chủ thể bộc lộ những ham muốn hoặc xung lực ra bên ngoài mà  bản ngã (cái tôi) không thể nhận ra, do đó làm giảm lo lắng.

Ví dụ: Một học sinh lười biếng có khuynh hướng nghĩ rằng nhiều học sinh khác cũng lười biếng như mình.

Một cô gái trẻ hay làm mai cho các cô gái khác vì bản thân cô ấy cũng có nhu cơ chế phòng vệ hoán chuyển cảm xúc (ý là cô ấy cũng có nhu cầu muốn được làm mai với ai đó mà cô ấy không hề nhận ra và cô ấy cũng nghĩ người khác cũng vậy).

Ví dụ: Bạn ghét một người nhưng thay vào đó, bạn tin rằng họ ghét bạn.

Displacement – Cơ chế phòng vệ thay thế (chuyển di)

Là sự chuyển hướng của một xung lực (thường là gây hấn) sang một mục tiêu thay thế yếu hơn. Mục tiêu này có thể là người hoặc đồ vật đóng vai trò thay thế. Nó xảy ra khi bản năng muốn làm gì đó mà siêu ngã không cho phép nên bản ngã chuyển hướng sự giải phóng xung năng đó, từ đối tượng mà cá nhân phải kìm chế sang đối tượng khác dễ chấp nhận hơn.

Ví dụ: Một người ở chỗ làm kho6ng hài lòng khi bị cấp trên mắng, về nhà đá con chó hoặc đánh đập thành viên gia đình.

Là cơ chế chuyển hướng cảm xúc của mình dành cho cá nhân A sang cho cá nhân B (có cơ chế hoạt động giống như quy luật di chuyển trong quy luật của đời sống tình cảm). Cơ chế phòng vệ này giúp chủ thể bộc lộ những cảm xúc tiêu cực theo một cách thức ít đưa đến hệ quả tiêu cực đối với cá nhân hơn.

Ví dụ : Nhân viên tức giận thay vì cãi lại sếp (bị đuổi việc) cá nhân sẽ trúc những cảm xúc tiêu cực lên vợ, hoặc con cái những người ít có khả năng đe dọa tới họ.

Tuy nhiên đôi lúc cá nhân lại áp dụng cơ chế phòng vệ thay thế lên chính bản thân mình bằng cách giận người khác nhưng lại tự đọa đày bản thân.

Introjection – Cơ chế phòng vệ gán ghép cảm xúc (Nhập tâm)

Liên quan đến việc chuyển những giá trị trong tính cách của người khác thành của cá nhân đó vì làm như vậy sẽ giải quyết được một số khó khăn về mặt cảm xúc. Nhập tâm rất quan trọng với lý thuyết cảu Anna Freud vì đây là cơ chế giúp phát triển siêu ngã.

Ví dụ: Đứa trẻ thường xuyên bị bỏ lại một mình có thể cố gắng trở thành “mẹ” theo một cách nào đó như là an ủi những con búp bê “đừng sợ hãi”.

Reaction Formation – Cơ chế phòng vệ phản ứng (Hình thành phản ứng)

Anna Freud gọi là “tin vào điều ngược lại”, là một cơ chế mà trong đó, một cá nhận hành xử theo cách ngược lại với những gì họ nghĩ hoặc cảm nhận.

Ví dụ: Cô gái thích chàng trai nhưng sợ bị đánh giá là “không biết giữ mình” nên giả vờ như không thích, thậm chí ghét chàng trai đó.

Đây là cách cá nhân chuyển đổi một xung lực khó chịu thành một xung lực dễ chấp nhận hơn. Cá nhân sử dụng cơ chế phản ứng nhằm che giấu cảm xúc thật bằng việc hành xử ngược lại hoàn toàn.

Ví dụ điển hình của cơ chế này là việc đối xử với bạn cực kỳ không ưa theo một cách quá mức thân thiện nhằm che giấu cảm xúc thật.

Identification with the Aggressor – Cơ chế phòng vệ nhập tâm (Đồng nhất hóa)

Liên quan đến việc cá nhân áp dụng hành vi của một người mạnh hơn và thù địch hơn đối với họ. Bằng cách tiếp thu hành vi của kẻ gây hấn, “nạn nhân” hy vọng tránh được sự lạm dụng, vì kẻ đó có thể bắt đầu cảm thấy liên hệ tình cảm với nạn nhân, dẫn đến cảm giác đồng cảm.

Ví dụ: Khi cậu bé thấy sợ hãi khi bị bạn học lớn hơn bắt nạt, cậu ấy có thể chinh phục nỗi sợ bị bắt nạt bằng cách trở nên giống người bắt nạt hơn thậm chí là trở nên đáng sợ hơn nữa.

Hay còn gọi là phòng vệ nhận định. Thể hiện qua việc tin rằng cá tính của người khác sẽ là nhân cách của mình để giải quyết những khó khăn.

Ví dụ các em nhỏ xem một anh hùng làm việc tốt tiêu diệt cái ác, thì các em sẽ bắt chước nhân vật ấy bằng cách cũng sẽ làm việc tốt.

Hoặc nhiều người vì phải đối mặt với những hàng xóm có tính cách lố lăng, hung hăng. Đã tự trang bị cho mình những cá tính tương tự để ngang bằng với hàng xóm của họ ( đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy ).

Regression – Cơ chế phòng vệ hoài cổ (thoái lui)

Bản ngã quay trở lại giai đoạn phát triển trước đó để ứng phó với một tình huống căng thẳng. Thoái lui là hình thức cho phép một người thay đổi về mặt tâm lý trở lại thời kỳ mà người đó cảm thấy an toàn hơn.

Ví dụ: Một người lên thành phố sống nhưng gặp thử thách hay không thích nghi được nên muốn trở về quê sinh sống.

Khi đối mặt với những sự kiện gây căng thẳng, đôi khi mọi người từ bỏ các chiến lược đối phó và quay trở lại những hành vi ở giai đoạn trước. Khi một cá nhân khi đối mặt với áp lực nếu thoái lui về giai đoạn môi miệng thì sẽ thể hiện qua hành vi cắn móng tay, hút thuốc, nói tục…

Hoặc có người sau khi dọn lên thành phố sống nhưng lại không thích nghi được nên đã tưởng tượng lại những ngày tháng sống ở quê. Trong trường hợp này chủ thể đang thoái lui bản thân về lại với một giai đoạn nơi họ cảm thấy an toàn hơn.

Rationalization – Cơ chế phòng vệ lý luận hóa (hợp lý hóa, lý trí hóa)

Bóp méo nhận thức về “sự thật” để làn cho một sự kiện hoặc một tác động ít đe dọa hơn. Chúng ta làm điều đó thường xuyên ở một mức độ có ý thức khi ta đưa ra những lời bào chữa cho bản thân.

Ví dụ: Người gặp tình nhuống khó chấp nhận và tin rằng đó là sự sắp đặt của “Thượng Đế”.

Là khả năng nhận thức và áp dụng có tính lý luận nhằm giải thích một hành vi hoặc cảm giác không thể chấp nhận được một cách hợp lý, tránh những lý do thực sự của hành vi.

Ví dụ khi đạt điểm kém môn toán có thể lý luận hóa tình huống này bằng cách cho rằng tính toán không phải sở trường của mình.

Hoặc khi bị cô gái mình thích từ chối tình cảm, lý luận hóa bằng cách cho rằng bản thân cũng không thích cô ấy lắm.

Sublimation – Cơ chế phòng vệ hoán chuyển (thăng hoa)

Tương tự như chuyển di, nhưng những xung lực đó được chuyển thành những hành vi được xã hội chấp nhận. Sự thăng hoa đối với Anna Freud là nền tảng của đời sống văn minh, vì nghệ thuật và khoa học đều là tính dục thăng hoa.

Ví dụ: Một người nóng tính thích theo đuổi đấu võ đài, người nhạc sĩ có cuộc sống bất hạnh và sử dụng âm nhạc để thể hiện bản thân. Là cách cá nhân chuyển đổi những xung lực, hành vi không được chấp nhận sang một ngã tích cực theo cách thức dễ được chấp nhận hơn.

Ví dụ: người có khao khát cảm xúc mãnh liệt có thể trở thành nhà văn nhà thơ, người nóng nảy bạo lực có thể trở thành võ sĩ…

Tính thực tiễn của các cơ chế phòng vệ

Cơ chế phòng vệ đóng vai trò quan trọng trong đời sống hằng ngày, giúp cá nhân đối phó với những áp lực và cảm xúc khó chịu. Trong một số trường hợp, chúng có thể giúp người ta thích nghi với những tình huống căng thẳng và duy trì cảm giác an toàn. Tuy nhiên, khi các cơ chế này được sử dụng quá mức, chúng có thể dẫn đến các vấn đề tâm lý.

Ví dụ, chối bỏ và dồn nén có thể làm cá nhân né tránh sự thật hoặc không đối diện với những cảm xúc tiềm ẩn, gây ra các vấn đề về cảm xúc hoặc hành vi.

Trong thực tế lâm sàng, hiểu biết về cơ chế phòng vệ giúp các nhà tâm lý học và nhà trị liệu nhận diện và giải quyết các vấn đề tâm lý của bệnh nhân. Bằng cách nhận diện cách mà các cơ chế phòng vệ đang hoạt động, nhà trị liệu có thể giúp bệnh nhân đối mặt với những lo âu và xung đột tiềm ẩn, từ đó cải thiện sức khỏe tinh thần và phát triển khả năng đối phó lành mạnh hơn.

Xem thêm: Liệu pháp phân tâm học của Freud

Những ảnh hưởng từ lý thuyết cơ chế phòng vệ của Anna Freud

Nghiên cứu của Paulina Kernberg (1994) đã làm sâu sắc thêm hiểu biết về các cơ chế phòng vệ ở trẻ em, dựa trên lý thuyết của Anna Freud. Kernberg cho rằng việc nhận biết các cơ chế này giúp hiểu rõ hơn về sự phát triển tâm lý ở trẻ, đặc biệt là trong các giai đoạn căng thẳng.

Bà cũng nhấn mạnh rằng cơ chế phòng vệ không chỉ là sự phản ứng của cái tôi mà còn là biểu hiện của sự trưởng thành trong nhận thức của cá nhân qua các giai đoạn phát triển khác nhau.

Những lý thuyết của Anna Freud về cơ chế phòng vệ cũng có tác động đáng kể đến việc nghiên cứu và hiểu biết về sự phát triển nhân cách.

George E. Vaillant (1992) đã tiếp tục nghiên cứu và phát triển thang đo các cơ chế phòng vệ, phân loại chúng thành cơ chế phòng vệ “trưởng thành” và “không trưởng thành.”

Vaillant nhấn mạnh rằng các cơ chế phòng vệ trưởng thành, chẳng hạn như thăng hoa và lý tưởng hóa, có thể giúp cá nhân đối phó với những tình huống khó khăn một cách lành mạnh, trong khi các cơ chế phòng vệ không trưởng thành như chối bỏ hay dồn nén có thể dẫn đến rối loạn tâm lý.

Charles Brenner (1975) đã tiếp tục đào sâu mối liên hệ giữa cơ chế phòng vệ và sự phát triển tâm lý bình thường. Brenner cho rằng các cơ chế phòng vệ là phương tiện để bảo vệ cá nhân khỏi những lo âu tiềm ẩn và căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày.

Tuy nhiên, nếu được sử dụng một cách không thích hợp hoặc quá mức, chúng có thể trở thành nguyên nhân gây ra các bệnh lý tâm thần như rối loạn lo âu hoặc trầm cảm.

Donald Winnicott đã phát triển các lý thuyết của Anna Freud và nhấn mạnh vai trò của cơ chế phòng vệ trong sự phát triển của trẻ em.

Ông đã áp dụng lý thuyết này vào việc phân tích mối quan hệ giữa trẻ và người chăm sóc, chỉ ra rằng các cơ chế phòng vệ như tách biệt hoặc đồng nhất hóa là phương tiện quan trọng trong quá trình hình thành bản ngã và cảm giác an toàn của trẻ (Winnicott, 1965).

Có ý kiến khác lại cho rằng các cơ chế phòng vệ không chỉ liên quan đến những xung đột vô thức như Freud miêu tả, mà còn có thể xuất phát từ những trải nghiệm chấn thương từ thời thơ ấu và các cơ chế phòng vệ này có thể trở thành một phần cố định trong nhân cách của cá nhân (Kernberg, 1996).

Klein nhấn mạnh rằng cơ chế phòng vệ có thể được sử dụng để đối phó với sự căng thẳng không chỉ từ nội tâm mà còn từ môi trường xã hội và các mối quan hệ với người khác (Klein, 1932). Đây là một khía cạnh quan trọng trong việc phát triển các nghiên cứu về nhân cách và mối quan hệ.

Kết luận

Cơ chế phòng vệ là một phần không thể thiếu của tâm lý con người, giúp bảo vệ bản ngã khỏi những lo âu và căng thẳng. Tuy nhiên, khi chúng được sử dụng một cách vô thức và quá mức, chúng có thể dẫn đến những vấn đề tâm lý.

Các nghiên cứu của Anna Freud không chỉ phát triển lý thuyết về cơ chế phòng vệ mà còn mang lại giá trị thực tiễn to lớn trong lĩnh vực phân tâm học và trị liệu tâm lý.

Hiểu rõ cơ chế phòng vệ là một yếu tố quan trọng giúp chúng ta xây dựng khả năng đối phó lành mạnh hơn và phát triển một tâm lý cân bằng hơn.

Tài liệu tham khảo

Brenner, C. (1975). Psychoanalysis and defense mechanisms. New York: International Universities Press.

Freud, A. (1993). The ego and the mechanisms of defence, London: Karcnac Books.

Freud, S. (1894). The neuro-psychoses of defence. In J. Strachey (Ed. & Trans.), The Standard Edition of the Complete Psychological Works of Sigmund Freud (Vol. 3, pp. 41-61). London: Hogarth Press.

Freud, S. (1896). Further remarks on the neuro-psychoses of defence. In J. Strachey (Ed. & Trans.), The Standard Edition of the Complete Psychological Works of Sigmund Freud (Vol. 3, pp. 159-185). London: Hogarth Press.

Kernberg, O. F. (1996). A psychoanalytic theory of personality disorders. In J. F. Clarkin & M. F. Lenzenweger (Eds.), Major theories of personality disorder (pp. 106-140). New York: Guilford Press.

Kernberg, P. (1994). Development of ego defenses in childhood. New York: Springer.

Klein, M. (1932). The psycho-analysis of children. London: Hogarth Press.

Vaillant, G. E. (1992). Ego mechanisms of defense: A guide for clinicians and researchers. Washington, DC: American Psychiatric Press.

Winnicott, D. W. (1965). The maturational processes and the facilitating environment. New York: International Universities Press.

 

Bài viết liên quan

4 nội dung được đề xuất bởi “10 cơ chế phòng vệ trong Phân tâm học

  1. Pingback: Liệu pháp tâm động học đối với người trẻ tuổi

  2. Pingback: Lý thuyết quan hệ đối tượng của Melanie Klein

  3. Pingback: Cơ chế phòng vệ phóng chiếu trong phân tâm học là gì?

  4. Pingback: Bản năng nghệ thuật qua góc nhìn tâm lý học - PSYEZ MEDIA

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *