Tư duy cá nhân hoặc tình trạng đơn độc có thể làm giảm giá trị hoặc lòng tự trọng của cá nhân đối với nhóm của họ, do đó làm suy yếu ý thức về bản sắc và sự gắn kết của họ với nhóm.
Bản sắc nhóm đề cập đến cảm giác gắn bó và thuộc về của một cá nhân với một nhóm, ảnh hưởng đáng kể đến các tương tác và hành vi xã hội.
Bài viết này dựa theo nghiên cứu: Uziel, L., & Seemann, M. The alone team: How an alone mindset affects group processes. British Journal of Psychology. https://doi.org/10.1111/bjop.12777
Làm việc cá nhân là một trải nghiệm cơ bản và phổ biến của con người, nhưng chúng ta biết rất ít về tác động của nó đối với bản sắc xã hội. Làm việc cá nhân thì, bản sắc xã hội có thể yếu đi vì cá nhân cảm thấy nhóm của họ ít giá trị hoặc ít nổi bật hơn. Ngược lại, nó có thể mạnh hơn vì khao khát gắn kết làm tăng giá trị được nhận thức trong nhóm.
Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm những ý tưởng này bằng năm thí nghiệm với 1312 cá nhân(N = 1312). Nghiên cứu 1, sử dụng các nhóm hiện có và Nghiên cứu 2, sử dụng các nhóm tối thiểu, cho thấy rằng sự cô đơn (so với ở cùng người khác) làm giảm bản sắc trong nhóm thông qua tác động của nó đối với lòng tự trọng trong nhóm.
Trong Nghiên cứu 3, tác động này tương đương với tác động được quan sát thấy sau khi bị loại trừ xã hội. Nghiên cứu 4 cho thấy những cá nhân ở một mình không quan tâm đến việc phân bổ tiền giữa các thành viên trong nhóm và ngoài nhóm.
Cuối cùng, Nghiên cứu 5 chỉ ra rằng những tác động này không bắt ng uồn từ việc các thành viên trong nhóm giảm sự nổi bật khi ở một mình. Tóm lại, tư duy ở một mình ảnh hưởng đến bản sắc xã hội bằng cách làm giảm lòng tự trọng trong nhóm, báo hiệu những hàm ý xã hội rộng lớn đối với tình trạng xã hội cơ bản này.
Cơ sở lý luận
Con người vốn dĩ tìm kiếm sự kết nối xã hội và sự gắn kết nhóm. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều cá nhân dành nhiều thời gian ở một mình hơn, tạo ra nhu cầu quan trọng để hiểu được những tác động xã hội của xu hướng này.
Sự cô đơn, khác với sự cô đơn, là một trạng thái có thể đo lường được một cách khách quan và có thể bao gồm những trải nghiệm tích cực hoặc tiêu cực về sự cô đơn.
Các tài liệu trước đây đưa ra những dự đoán trái ngược nhau về cách sự cô đơn ảnh hưởng đến quá trình nhóm: một số lý thuyết cho rằng nó có thể làm suy yếu bản sắc xã hội do giảm sự đánh giá cao các nhóm, trong khi những lý thuyết khác lại cho rằng nó có thể tăng cường sức hấp dẫn của các nhóm xã hội thông qua mong muốn tương tác gia tăng.
Với những quan điểm trái ngược này, nghiên cứu hiện tại sẽ điều tra một cách có hệ thống về cách tư duy đơn độc tác động đến bản sắc nhóm và các hành vi liên quan, giải quyết một khoảng cách đáng kể trong hiểu biết hiện tại về động lực bản sắc xã hội.
Phương pháp
Năm nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến hành, sử dụng nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau bao gồm các nhóm hiện có, nhóm tối thiểu và thao tác trực tiếp vào bối cảnh xã hội (điều kiện đơn độc so với điều kiện có người khác).
Tiến hành nghiên cứu
Những người tham gia:
- Hoàn thành đánh giá ban đầu về lòng tự trọng.
- Được phân ngẫu nhiên vào các điều kiện tư duy đơn lẻ hoặc cùng với người khác thông qua các nhiệm vụ chuẩn bị.
- Đánh giá lòng tự trọng và bản sắc của nhóm ngay sau khi thao túng tư duy.
- Tham gia vào các nhiệm vụ phân bổ nguồn lực theo hành vi để đo lường quá trình ra quyết định liên quan đến nhóm.
- Hoàn thành các nhiệm vụ ghi nhớ để đánh giá mức độ chú ý đến thông tin liên quan đến nhóm.
Khách thể
Nghiên cứu có sự tham gia của 1312 người tham gia trong năm thí nghiệm. Những người tham gia chủ yếu là người lớn Anh với sự phân bố giới tính cân bằng và chủ yếu ở độ tuổi từ 30 đến 50.
Đo
- Đặc điểm lòng tự trọng: được đánh giá bằng thang đánh giá lòng tự trọng Rosenberg.
- Lòng tự trọng và bản sắc nhóm: được đo lường thông qua các thang đo thích hợp đánh giá mức độ tích cực mà cá nhân nhìn nhận nhóm của họ và mức độ họ đồng nhất với các nhóm này.
- Nhiệm vụ phân bổ nguồn lực: người tham gia đưa ra quyết định về tiền tệ để kiểm tra sở thích đối với các thành viên trong nhóm so với các thành viên ngoài nhóm.
- Nhiệm vụ nhớ lại trí nhớ: đánh giá sự chú ý của người tham gia vào các chi tiết liên quan đến nhóm.
Biện pháp thống kê
Phân tích thống kê bao gồm các mô hình trung gian để khám phá các con đường giữa tư duy, lòng tự trọng của nhóm và bản sắc.
Các phân tích cũng bao gồm ANOVA để tìm sự khác biệt giữa các nhóm, khoảng tin cậy khởi tạo để đánh giá độ tin cậy của hiệu ứng, Cohen’s d để đánh giá quy mô hiệu ứng và ICC để đánh giá sự đồng thuận giữa những người đánh giá trong việc mã hóa các phản hồi định tính.
Kết quả
- Những người tham gia có tư duy đơn độc thường xuyên báo cáo rằng họ có lòng tự trọng thấp hơn trong nhóm, dẫn đến giảm bản sắc nhóm.
- Tình trạng tâm lý đơn độc tạo ra những tác động tương đương với tình trạng bị xã hội ruồng bỏ, cho thấy sự đơn độc tác động đáng kể đến những trải nghiệm tâm lý liên quan đến việc gắn bó với nhóm.
- Những người tham gia trong tình trạng tư duy đơn độc không biểu hiện sự thiên vị đối với những người trong nhóm khi phân bổ nguồn lực, không giống như những người luôn nghĩ đến người khác và thể hiện sự thiên vị rõ ràng đối với những người trong nhóm.
- Các bài kiểm tra trí nhớ cho thấy tư duy đơn độc không làm giảm sự chú ý hoặc độ chính xác khi nhớ lại các chi tiết về các thành viên trong nhóm, cho thấy những tác động về mặt tâm lý là do những thay đổi về định giá chứ không phải do sự giảm sút về nhận thức của nhóm.
Đánh giá
Nghiên cứu cho thấy việc chỉ tưởng tượng mình đơn độc cũng làm giảm đáng kể cảm giác gắn kết với nhóm bằng cách hạ thấp giá trị hoặc lòng tự trọng của những nhóm này.
Hiểu biết này mở rộng sự hiểu biết về sự cô đơn vượt ra ngoài những tác động về mặt cảm xúc để bao gồm những tác động đáng kể về thái độ và hành vi liên quan đến bản sắc xã hội.
Những phát hiện này mời gọi việc khám phá sâu hơn về những hậu quả lâu dài của sự cô đơn đối với chức năng xã hội và các biện pháp can thiệp tiềm năng để giải quyết hoặc giảm thiểu những tác động này.
Ý nghĩa
Trên thực tế, những phát hiện này cho thấy các nhà hoạch định chính sách và người hành nghề nên xem xét tình trạng cô đơn ngày càng gia tăng và những tác động của nó đối với sự gắn kết xã hội.
Các khuyến nghị bao gồm việc tạo ra các sáng kiến cộng đồng hoặc cơ sở hạ tầng xã hội được thiết kế để thúc đẩy tương tác và giảm sự cô lập.
Tuy nhiên, việc thực hiện các khuyến nghị này có thể gặp phải thách thức do sự khác biệt giữa mỗi cá nhân về mong muốn được ở một mình và sự khó chịu khi giao tiếp xã hội.
Điểm mạnh
Nghiên cứu này có một số điểm mạnh về mặt phương pháp luận, bao gồm:
- Phương pháp thực nghiệm mạnh mẽ với các thao tác rõ ràng.
- Những phát hiện nhất quán trong nhiều nghiên cứu và bối cảnh đa dạng (nhóm thực tế và nhóm tối thiểu).
- Việc đưa vào các biện pháp hành vi sẽ tăng cường tính hợp lệ bên ngoài.
- Phân tích thống kê toàn diện giúp tăng cường độ tin cậy của các phát hiện.
Hạn chế
Nghiên cứu này cũng có một số hạn chế, bao gồm:
- Sự phụ thuộc vào sự thao túng tư duy hơn là những trải nghiệm cô đơn thực sự.
- Đánh giá ngắn hạn hạn chế sự hiểu biết về tính bền vững của các tác động quan sát được.
- Việc khám phá hạn chế về cách thức những khác biệt giữa các cá nhân (ví dụ như tính cách) có thể điều chỉnh những tác động này.
- Mẫu người tham gia chủ yếu giới hạn ở người lớn ở Vương quốc Anh, hạn chế khả năng khái quát hóa.
Câu hỏi phản biện
- Có khuôn khổ lý thuyết thay thế hoặc cơ chế tâm lý nào có thể giải thích những tác động quan sát được của sự cô đơn đối với bản sắc nhóm không?
- Những khác biệt về văn hóa hoặc xã hội có thể ảnh hưởng thế nào đến phản ứng với tư duy đơn độc?
- Những yếu tố tâm lý cá nhân nào có khả năng điều chỉnh hoặc làm trung gian tác động của tư duy đơn độc đến lòng tự trọng và bản sắc của nhóm?
- Làm thế nào để có thể điều chỉnh các biện pháp can thiệp thực tế nhằm chống lại hiệu quả những tác động tiêu cực về mặt xã hội liên quan đến mức độ cô đơn ngày càng gia tăng?
- Liệu các giải pháp công nghệ hoặc tương tác ảo có thể bù đắp hiệu quả cho sự cô đơn về mặt thể chất trong việc bảo tồn bản sắc xã hội và sự gắn kết nhóm hay không?
Nguồn tham khảo
Uziel, L., & Seemann, M. (2024). The alone team: How an alone mindset affects group processes. British Journal of Psychology. https://doi.org/10.1111/bjop.12777