Thế hệ trẻ yếu đuối – một cụm từ đang ngày càng trở nên quen thuộc trong các cuộc trò chuyện từ bàn ăn gia đình đến mạng xã hội. Không ít người lớn cho rằng giới trẻ ngày nay chỉ biết than vãn, dễ suy sụp trước áp lực dù sống trong điều kiện đầy đủ, tiện nghi hơn hẳn thế hệ trước.

“Cuộc sống của mày bây giờ thật sướng hơn bố mày gấp trăm lần”

“ Ngày xưa bố khổ cực, phải lăn lộn với 3 – 4 công việc sớm khuya”

“ Chỉ có mỗi việc ăn rồi học thôi mà cũng than vãn suốt ngày”

“ Sướng như vậy mà bệnh tâm lý cái gì, trầm cảm cái gì, chỉ do tự suy nghĩ phóng đại mà thôi”

Những câu nói trên đây chúng ta ắt hẳn đã bắt gặp hoặc nghe thấy không ít ở trên mạng, từ bố mẹ, người lớn xung quanh dành cho những bạn trẻ, thanh thiếu niên khi họ chia sẻ bản thân hay làm hành động “dại dột” nào đó. Người lớn cho rằng người trẻ, thanh niên ngày nay họ chẳng thiếu gì, không phải chịu bất cứ áp lực gì nặng nhọc như người lớn, chỉ có mỗi việc ăn học thôi mà mắc đủ thứ bệnh tâm lý như trầm cảm, rối loạn, căng thẳng lo âu, thậm chí là tự tử trong sự ngỡ ngàng của mọi người.

Thế hệ trẻ yếu đuối
Doanh nhân Đặng Lê Nguyên Vũ nhận xét về thế hệ trẻ

Ông chủ Trung Nguyên – Đặng Lê Nguyên Vũ cũng từng phát biểu: “Dân thành phố và thế hệ thanh niên hiện nay quá yếu ớt. Mới áp lực một chút đã phải giảm stress, phải tìm kiếm sự cân bằng, thế là không được. Muốn phát triển phải tự gây sức ép cho mình.”. Sẽ có người cho rằng điều này là đúng, và ngược lại, có người sẽ cho rằng điều này là sai khi vơ đũa cả nắm cả một thế hệ như vậy.

Trong bài viết này chúng ta sẽ không tìm câu trả lời đúng sai cho quan điểm trên, mà sẽ đi sâu vào những khía cạnh khác của thế hệ, thời đại và những hiện tượng tâm lý để làm rõ vấn đề “Vì sao người lớn lại cho rằng người trẻ hiện nay thật yếu đuối? Suy nghĩ tiêu cực, hay than vãn, mắc những thứ bệnh tâm lý lạ lùng trong khi cuộc sống của họ sướng hơn thế hệ trước rất nhiều.”

“Thế hệ trẻ yếu đuối”: Một nhận định phổ biến

Nhận định lan truyền khắp nơi: Từ mạng xã hội đến bàn ăn gia đình

Cụm từ “thế hệ trẻ yếu đuối” xuất hiện ngày càng nhiều trong các cuộc trò chuyện thường nhật. Trên mạng xã hội, các bài viết, bình luận và meme xoay quanh Gen Z thường gắn liền với những từ khóa như “dễ tổn thương”, “không chịu được áp lực”, hay “bùng nổ cảm xúc”. Điều này tạo nên một hình ảnh chung rằng giới trẻ hiện nay không đủ mạnh mẽ để đối mặt với khó khăn, so với các thế hệ trước.

Truyền thông đại chúng cũng góp phần duy trì định kiến này. Không ít bài báo giật tít theo hướng đánh giá tiêu cực về lối sống của người trẻ: “Thế hệ thiếu kiên nhẫn?”, “Ngại va chạm, ngại khổ?”. Những góc nhìn phiến diện này khiến công chúng dễ dàng tiếp nhận định nghĩa rằng giới trẻ hôm nay là một thế hệ yếu đuối.

“Ngày xưa khổ hơn mà vẫn sống tốt” – câu nói phản ánh khoảng cách thế hệ

Trong các buổi gặp mặt gia đình hay những cuộc trò chuyện đời thường, không khó để nghe thấy câu nói: “Ngày xưa chúng tôi khổ hơn mà vẫn sống tốt”. Câu nói này phản ánh một lối so sánh mang tính định kiến giữa các thế hệ – nơi người lớn nhìn lại quá khứ khắc nghiệt để bác bỏ những khó khăn hiện đại mà người trẻ đang phải đối mặt.

Tuy nhiên, điều này bỏ qua sự khác biệt căn bản về bối cảnh xã hội, văn hóa và cả cấu trúc tâm lý của mỗi thời đại. Nếu không được phân tích một cách khoa học và khách quan, quan điểm này có thể trở thành rào cản trong việc xây dựng sự thấu hiểu giữa các thế hệ.

Định kiến hay thực tế? – Cần có cái nhìn toàn diện hơn

thoại giữa các thế hệ. Thay vì phán xét, chúng ta cần nhìn nhận những thay đổi trong xã hội hiện đại – từ áp lực học tập, biến động công nghệ, đến khủng hoảng bản sắc cá nhân – như những nguyên nhân góp phần hình thành nên một thế hệ nhạy cảm và dễ bị tổn thương hơn.

Câu hỏi đặt ra là: Yếu đuối có thật sự là điểm yếu? Hay đó là sự thay đổi trong cách tiếp cận cảm xúc và sức khỏe tinh thần của người trẻ hiện nay?

Tâm lý học nói gì về “sự yếu đuối” của thế hệ trẻ?

Tâm lý học hiện đại cho thấy, thế hệ trẻ ngày nay không nhất thiết “yếu đuối” hơn, mà đơn giản là họ có xu hướng nhạy cảm hơn với các yếu tố cảm xúc và tinh thần. Trong bối cảnh xã hội phát triển nhanh, nhiều giá trị bị thay đổi liên tục, giới trẻ chịu ảnh hưởng mạnh từ môi trường số, từ đó hình thành nên những đặc điểm tâm lý mới như: lo âu xã hội, mất định hướng nghề nghiệp, và khủng hoảng bản sắc cá nhân.

Nghiên cứu của Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia Hoa Kỳ (NIMH, 2023) cho thấy: Tỷ lệ người trẻ mắc các rối loạn lo âu và trầm cảm tăng gấp đôi trong vòng 10 năm qua, không phải vì họ yếu hơn, mà vì họ dám đối diện với cảm xúc của mình và tìm kiếm sự giúp đỡ – điều mà thế hệ trước có thể coi là “xa xỉ” hoặc “yếu đuối”.

Khác với thời cha mẹ, thế hệ trẻ hôm nay sống trong một thế giới luôn “soi chiếu” qua mạng xã hội. Mỗi bức ảnh, mỗi dòng trạng thái đều có thể trở thành đối tượng bị đánh giá. Áp lực đến từ việc phải “hoàn hảo” mọi lúc mọi nơi khiến nhiều người trẻ rơi vào trạng thái kiệt sức tinh thần – một biểu hiện không nên bị gán nhãn là “yếu đuối”, mà cần được nhìn nhận như một tiếng kêu cứu từ tâm lý hiện đại.

Truyền thông đại chúng và mạng xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến cách công chúng nhìn nhận về thế hệ trẻ yếu đuối. Một mặt, nhiều kênh truyền hình, tờ báo, fanpage thường xuyên đăng tải những nội dung chỉ trích lối sống “lười biếng”, “thiếu trách nhiệm” của Gen Z. Điều này củng cố định kiến xã hội và làm tăng khoảng cách giữa các thế hệ.

Tuy nhiên, cũng có nhiều nội dung tích cực, khuyến khích người trẻ chia sẻ cảm xúc, chăm sóc sức khỏe tinh thần, và nói không với áp lực độc hại (toxic productivity). Chính những nội dung này đang giúp thay đổi góc nhìn của cộng đồng, từng bước tháo gỡ định kiến “yếu đuối” gắn lên vai người trẻ.

Bên cạnh truyền thông, gia đình và giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ khỏe mạnh tinh thần. Nếu người lớn hiểu rằng sự yếu đuối không phải là dấu hiệu của thất bại, mà là dấu hiệu của nhu cầu được hỗ trợ, thì thay vì phán xét, họ sẽ biết cách đồng hành cùng con cháu mình.

Thay vì mãi gán nhãn “thế hệ trẻ yếu đuối”, đã đến lúc xã hội cần lắng nghe và hiểu rõ bản chất của những chuyển động tâm lý và văn hóa đằng sau hiện tượng này. Yếu đuối không phải là điểm yếu – đó là dấu hiệu của một thế hệ dám đối diện với sự thật bên trong mình.

Khía cạnh tâm lý: Hiệu ứng vịt con và ấn tượng đầu đời

Hiệu ứng vịt con hay hội chứng vịt non (Baby duck syndrome) là hiệu ứng về tâm lý được thấy trên các chú vịt con mới nở, theo đó, khi mới nở thì những chú vịt non như được bản năng lập trình là nhìn vật thể chuyển động đầu tiên là mẹ của nó và sẽ theo đuôi không rời như hình với bóng và cho dù là con gà hay con người hay bất cứ thứ gì khác chuyển động, miễn là khi chúng xuất hiện lúc nó mới nở, nó sẽ mặc định là mẹ nó (Mary McMahon, 2022).

Hiệu ứng vịt con
“Giống như vịt con đi theo thứ đầu tiên mình thấy, con người cũng thường gắn bó với người đầu tiên khiến mình rung động”

Trong trường hợp của con người thì chính những gì  ta nhìn thấy, cảm nhận, trải nghiệm lần đầu tiên mà làm người ta có cảm xúc yêu thích hoặc sợ hãi, trong tiềm thức họ sẽ tin những thứ đó là chuẩn nhất và tốt nhất, từ đó là khuôn mẫu để đánh giá những trải nghiệm khác của cá nhân hay thậm chí là so sánh trải nghiệm với người khác. Khoa học gọi hiện tượng này là tâm lý ấn tượng (Imprinting) hay dấu ấn khó phai. Hiện tượng tâm lý này có hai yếu tố quan trọng để hình thành đó là “ lần đầu tiên ” và “ ấn tượng trải nghiệm ”.

Bộ phim hoạt hình lúc nhỏ bạn coi (thời điểm) sẽ là hay nhất (ấn tượng) đối với bạn mặc dù nó không có nhiều hiệu ứng đồ họa như các bộ phim hoạt hình hiện tại; Món ăn lúc nhỏ mà mẹ nấu (thời điểm) cho bạn ăn sẽ là món ăn ngon nhất (ấn tượng) đối với bạn dù sau này bạn được ăn những món ăn sang trọng và đắt tiền hơn; Mối tình đầu (thời điểm) sẽ là môi tình bạn sâu đậm nhất (ấn tượng) dù sau này bạn có yêu thêm những người khác tốt hơn người trước.

Hiện tượng tâm lý này giúp con người nhìn nhận, đánh giá những trải nghiệm mới với con mắt cũ. Một mặt nó giúp con người không dễ dàng quên đi những giá trị, trải nghiệm tốt đẹp xưa, tuy vậy nó cũng sẽ làm hạn chế khả năng học hỏi, cởi mở để trải nghiệm những trải nghiệm mới, những góc nhìn mới có ý nghĩa hơn trong cuộc sống.

Biểu hiện của nó trong những đánh giá khắt khe của người lớn đối với các bạn trẻ hiện nay thể hiện rất rõ qua những từ như: ngày xưa khổ hơn, ngày trước vất vả hơn, tụi trẻ yếu đuối, bệnh trầm cảm giả… Giống hệt như chú vịt con, lần đầu (thời điểm) nhìn thấy nhìn thấy vật thể chuyển động (ấn tượng) và cho đó là mẹ mình.

Chúng ta dễ dàng có cảm nhận đầu tiên về thế hệ cha ông ngày xưa là “khổ” qua những lời kể, bài học đầu tiên (thời điểm) trong sách, chúng ta ngầm hiểu khổ tức là không có đồ ăn, không được đi học (ấn tượng về khổ) và từ trải nghiệm đó nhìn vào thế hệ trẻ bây giờ có ăn và được đi học hàng ngày, tức là không hề khổ gì cả và thậm chí là rất sướng.

Trong khi những khó khăn hiện tại của người trẻ là: phải tiếp cận với quá nhiều thông tin, khiến khó có thể chọn lọc và đưa ra quyết định; áp lực phải giỏi toàn diện; phải tìm ra đam mê, ý nghĩa sống; mắc kẹt trong những suy nghĩ tiêu cực mà không thể chia sẻ; áp lực đồng trang lứa… thì dưới góc nhìn về khổ của thế hệ trước không thể được tính là khổ hay không khổ bằng.

Chính những ấn tượng tâm lý này khiến cho thế hệ trước không thể hiểu được rằng người trẻ vì sao lại có những hành động khó hiểu, những căn bệnh tâm lý lạ lùng trong khi bản thân họ rất sung sướng.

Khi cha mẹ hay ông bà nói rằng “thế hệ trẻ yếu đuối”, phần lớn xuất phát từ việc họ đã “in dấu” những giá trị cũ trong thời kỳ khó khăn như sự chịu đựng, tiết kiệm, kỷ luật…. Những ấn tượng này khiến họ mặc định rằng mạnh mẽ phải đồng nghĩa với sự nhẫn nhịn, vượt khó trong im lặng, và từ đó hình thành thước đo khắt khe khi nhìn vào giới trẻ hiện nay – vốn sống trong thời đại khác biệt, ưu tiên biểu đạt cảm xúc và sức khỏe tinh thần.

Một người cha từng phải nghỉ học để phụ mẹ buôn gánh bán bưng, khi thấy con than áp lực học online, dễ có phản ứng “Hồi ba bằng tuổi con, ba còn không có điện để học”. Phản ứng này không sai về mặt trải nghiệm cá nhân, nhưng nếu áp dụng làm chuẩn chung cho toàn thế hệ, dễ dẫn đến định kiến sai lệch.

Khía cạnh xã hội học: Lý thuyết các thế hệ và khác biệt trải nghiệm

Lý thuyết về các thế hệ (Theory of generations) là một lý thuyết được đề cập lần đầu tiên bởi Karl Mannheim năm 1928, và được phổ biến rộng rãi vào năm 1952 trong một bài luận có tựa đề “Vấn đề của các Thế hệ” (Karl Mannheim, 1952). Đây có thể coi là lý thuyết nền tảng cho các khái niệm xã hội học về các thế hệ, cách phân biệt từng thế hệ ra sao.

Nhà xã hội học Karl Mannheim cho rằng mỗi thế hệ đều mang dấu ấn riêng biệt về văn hóa, lịch sử, sự kiện và điều kiện xã hội khi trưởng thành. Điều này tạo nên sự khác biệt căn bản về giá trị, hành vi và cách tiếp cận cuộc sống giữa các nhóm tuổi – gọi là “sự phân mảnh thế hệ”.

Theo K. Mannheim, ông cho rằng: Con người chịu ảnh hưởng đáng kể bởi các yếu tố môi trường như kinh tế, chính trị, văn hóa và các sự kiện lớn như chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai khi họ ở tuổi trẻ (1) và trên cơ sở chia sẻ kinh nghiệm, những cộng đồng người có cùng một trải nghiệm như vậy sẽ dần định hình một thế giới quan, tư duy chung, tạo nên một thế hệ mới(2).

Từ đây (1) (2), một số khái niệm về các thế hệ được sử dụng phổ biến hiện nay đã phát triển nên, ví dụ “Baby boomers” chỉ những người sinh ra từ năm 1946 – 1964; “Gen X” chỉ những người sinh ra từ năm 1965 – 1979; “Gen Y” chỉ những người sinh ra từ 1980 – 1994; “Gen Z” những người sinh từ năm 1995 – 2012 và cuối cùng “Gen Alpha” là những người sinh từ 2013 – 2025 (National Academies of Sciences, Engineering, and Medicine, 2020).

Sự khác nhau giữa các thế hệ

Dựa vào khái niệm và cách phân chia trên đây, áp dụng vào bối cảnh lịch sử của Việt Nam ta có thể thấy “Gen X” là những thế hệ thuộc hàng cha ông, những người sinh ra khi chiến tranh vẫn còn ở Việt Nam. Họ lớn lên trong giai đoạn cực kỳ khó khăn và thiếu thốn của đất nước, theo đó là sự cấm vận kinh tế sau chiến tranh năm 1975. Lớn lên với sự ám ảnh với ngheo đói và dịch bệnh, thế hệ này khao khát một cuộc sống đầy đủ có cơm ăn áo mặc và một công việc ổn định khi trưởng thành.

So sánh ngắn gọn Gen X – Y – Z tại Việt Nam

Thế hệ Năm sinh Trải nghiệm đặc trưng
Gen X 1965–1980 Chiến tranh, thời bao cấp, thiếu thốn
Gen Y (Millennials) 1981–1996 Chuyển đổi sang kinh tế thị trường, bùng nổ Internet
Gen Z 1997–2012 Kỹ thuật số hóa, toàn cầu hóa, mạng xã hội

Từ bảng này, có thể thấy Gen Z lớn lên trong điều kiện vật chất khá hơn, nhưng lại đối mặt với áp lực tinh thần và tốc độ thay đổi nhanh chưa từng có.

Trong khi Gen X trân trọng sự ổn định và chịu đựng, Gen Z lại ưu tiên sự chính danh cá nhân, cân bằng cảm xúc và tính linh hoạt. Sự khác biệt này không nên bị quy kết là “yếu đuối”, mà cần hiểu là biểu hiện tiến hóa của nhu cầu con người trong bối cảnh mới.

Những đặc điểm về tính cách nổi bật ở thế hệ này đó chính là sự chăm chỉ, chịu thương chịu khó, đức hi sinh cho gia đình. Tiếp đến là “Gen Y” là những thế hệ anh chị, lúc này nền kinh tế mở cửa, đất nước bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế. Sinh ra trong sự nghèo khó, gia đình đông anh em, tuy vậy trưởng thành trong một nền kinh tế giải phóng, thị trường lao động rộng mở, thế hệ nay có một sự thuận lợi rất lớn trong việc tìm kiếm công việc khi trưởng thành.

Nhu cầu tuyển dụng nhiều, yêu cầu công việc không cao cũng như cạnh tranh vị trí không quá gay gắt. Người người nhà nhà đều cùng một xuất phát điểm là nghèo khó, cùng nhau nỗ lực cho một tương lai, sự thành công ở thế hệ này được định nghĩa là có làm việc cho công ty nước ngoài, có nhà cao cửa rộng và của cải vật chất dư dả. Thế hệ này kế thừa được các đặc tính tuyệt vời của cha ông trước đó là sự kiên trì, chịu thương chịu khó cùng với sự quyết liệt để thoát nghèo, đổi đời chính là đặc trưng của thế hệ này.

Lúc này, “Gen Z” là những người sinh ra trong thời hòa bình, đất nước đang trong việc cải tạo phát triển nền kinh tế, cơ sở vật chất đầy đủ và sự phân chia giai cấp đã định hình rõ ràng trong xã hội.

Các bạn sinh ra mà không phải ám ảnh việc nay no mai đói như thế hệ cha ông, cũng không phải đối diện với nghèo khổ thiếu thốn của thế hệ anh chị, được tiếp xúc với công nghệ, mạng xã hội từ sớm, có thể nói ngay từ khi còn nhỏ, thế giới của các bạn đã rộng mở đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần hơn thế hệ đi trước rất nhiều.

Đây cũng chính là thế hệ bị chỉ trích nhiều nhất, vì cuộc sống sung sướng nhưng yếu đuối mà thế hệ này đang biểu hiện ra. Lớn lên trong môi trường đầy đủ vật chất, các bạn có cơ hội học tập và trải nghiệm đa dạng, mạng xã hội và các thiết bị điện tử như điện thoại thông minh trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống.

Nhìn từ bên ngoài vào, dường như các bạn đã sinh ra ở “vạch đích”, thừa hưởng thành quả từ sự lao động của thế hệ trước, cùng với sự bùng nổ của cách mạng số, công nghệ toàn cầu, thật không quá khi nói rằng các bạn là thế hệ sung sướng và đầy đủ nhất (so với 2 thế hệ trước của đất nước).

Nhưng phải chăng các bạn là người chỉ biết hưởng thụ, ích kỉ và thiếu trách nhiệm? quá sung sướng nên thành ra yếu đuối? Tiềm ẩn trong những sự đầy đủ và tiện nghi đó là những khó khăn, trở ngại to lớn hơn chung ta tưởng đang diễn ra trong đời sống của các bạn đặc biệt là đời sống tâm lý của thế hệ này.

Sự so sánh và đánh giá mà các thế hệ đi trước, xã hội hiện nay khi nói về thế hệ Gen Z được biểu hiện qua các khái niệm như “thế hệ yếu đuối”, “snowflake”, “trầm cảm giả”. Kiểu tư duy “Thượng đẳng thế hệ” xuất hiện để so sánh các thế hệ với nhau, chỉ ra một thế hệ ưu việt hơn thông qua các giai đoạn phát triển của hệ thống kinh tế tư bản.

Các khái niệm trên đều có cùng một mục đích nhấn mạnh đến sự sung sướng, đầy đủ về cuộc sống mà thế hệ Gen Z được thừa hưởng, tuy vậy họ lại có những biểu hiện vô cùng mong manh, yếu đuối, ích kỉ, thiếu kiên nhẫn và cô đơn. Những áp lực rất lớn hình thành từ sự kì vọng của gia đình, xã hội và của chính các bạn dành cho bản thân mình.

Hình ảnh về một người có khả năng vượt trội trong học tập, năng lực kết nối và sáng tạo, tư duy đa chiều, …tất  cả đem đến một áp lực cạnh tranh và hoàn hảo về năng lực và nhân cách từ sớm cho thế hệ này. Lớn lên cùng với công nghệ, mạng xã hội, các bạn tiếp xúc với một lượng thông tin khổng lồ, các mối quan hệ xã hội rộng lớn khiến các bạn có một tầm nhìn, tư duy của một “công dân toàn cầu”.

So với các thế hệ trước, sự kết nối cũng như áp lực so sánh chỉ đến từ những người xung quanh trong một gia đình, trường lớp hay đất nước, thì nay thế hệ các bạn phải hoàn thiện một nhân cách và năng lực toàn cầu. Sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0, khiến cho nền kinh tế có sự đào thải cực lớn và những yêu cầu vô cùng khắt khe trong công việc.

Một lượng lớn các nghề, công việc của thời đại, thế hệ trước biến mất cùng với đó là sự ra đời của các nghề, công việc mới được sinh ra trong thời đại này, những sự đòi hỏi về năng lực trong công việc và cuộc sống thế hệ này phải đảm nhiệm là rất khác thế hệ cha ông trước kia.

Mặt khác, vì sinh ra trong sự đầy đủ nên những lý tưởng sống của thế hệ này không chỉ bao hàm trong sự ăn ngon mặc đẹp, có công việc ổn định, nhà cao cửa rộng mà chính là tìm thấy đam mê, sống là chính mình, cống hiến cuộc đời cho những giá trị cao đẹp và ý nghĩa.

Những áp lực thay đổi nhanh chóng của thời đại còn ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống tâm lý của Gen Z. Các bạn không chỉ cảm nhận được sự chuyển biến của công nghệ, mà còn chia sẻ cởi mở các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế, môi trường như: bạo lực gia đình, khủng hoảng kinh tế, chiến tranh dầu mỏ, biến đổi khí hậu, dịch bệnh… như một hệ quả đến từ lối sống theo đuổi các giá trị kinh tế, vật chất mà thế hệ đi trước đã để lại.

Không còn là một thế hệ dễ vâng lời, nghe theo những giá trị tuyền thống, áp đặt từ gia đình mà các bạn đã hình thành cho mình những thế giới quan, tư duy, hệ giá trị sống sâu sắc và rất riêng vượt ra khỏi những tiêu chuẩn, đánh giá của thế hệ trước đó.

Cơ hội là vậy nhưng những nguy cơ tiềm ẩn của nó cũng rất lớn khi bị nhấn chìm bởi những thông tin, góc nhìn sai lệch, thiếu đi những sự kết nối sâu sắc, lành mạnh, không thể quan lý được những cảm xúc quá khích của bản thân, trở nên mất phương hướng và hoang mang, các bạn dần trở thành một thế hệ đầy phẫn nộ, thất vọng, lạc lõng và cô đơn.

Các bạn biểu hiện ra bên ngoài sự lười biếng, dễ nản lòng, thiếu kiên nhẫn, dễ bị căng thẳng, ích kỉ, suy nghĩ tiêu cực, xu hướng phản ứng cực đoan, hờ hững với những mối quan hệ vật lý xung quanh,… cuối cùng là dẫn đến hàng loạt các chứng bệnh tâm lý như: trầm cảm, rối loạn lo âu, rối loạn lưỡng cực, ám ảnh hậu sang chấn.

Tóm lại, mỗi thế hệ đều có những điều kiện may mắn, thuận lợi đặc thù đi kèm với những thử thách, trở ngại rất riêng của thế hệ đó. Vậy nên so sánh và đánh giá thế hệ này sung sướng hơn thế hệ trước hay thế hệ này khổ hơn thế hệ trước chỉ dựa vào những so sánh về điều kiện vật chất đơn thuần là rất khập khiễng.

Gen Z có thể có nhiều điều kiện và cơ hội, nhưng cũng kèm theo đó là những áp lực, cạnh tranh rất lớn mà thế hệ cha ông, anh chị đi trước chưa từng trải qua. Những mâu thuẫn, đánh giá tiêu cực dễ dàng xuất hiện khi các thế hệ có cái nhìn không đầy đủ và sâu sắc về những ảnh hưởng của thời đại, những điều kiện thuận lợi và bất lợi mà những thế hệ khác phải trải qua. Dừng lại một nhịp, để có thể tìm hiểu và cảm nhận rõ hơn từng thời đại sẽ giúp ta có cái nhìn đa chiều và thông cảm hơn.

Khía cạnh truyền thông và văn hóa: Tác động từ xã hội số

Mạng xã hội và áp lực vô hình trong thế giới số

Thế hệ Z – những người sinh từ cuối những năm 1990 đến đầu những năm 2010 – là thế hệ đầu tiên lớn lên hoàn toàn trong kỷ nguyên kỹ thuật số, nơi mạng xã hội không chỉ là công cụ kết nối, mà còn là một “môi trường xã hội hóa” mang tính định hình nhân cách, lối sống và giá trị cá nhân. Khác với các thế hệ trước, việc học tập, làm việc, thậm chí hẹn hò, thể hiện cảm xúc và hình thành bản sắc cá nhân của Gen Z diễn ra phần lớn trong không gian trực tuyến.

Trên nền tảng này, mạng xã hội trở thành nơi liên tục tái định nghĩa chuẩn mực xã hội thông qua những hình ảnh, nội dung, thành tựu được sàng lọc và đăng tải một cách có chọn lọc. Điều này dẫn đến một dạng áp lực vô hình nhưng thường trực – đó là cảm giác rằng mình chưa đủ tốt, chưa đủ thành công, chưa đủ đặc biệt.

Nhà xã hội học Sherry Turkle (2011) trong tác phẩm “Alone Together” đã cảnh báo về hiện tượng con người “gần nhau qua mạng nhưng cô đơn trong hiện thực”, và rằng sự phụ thuộc vào mạng xã hội đang làm xói mòn khả năng kết nối cảm xúc sâu sắc và ổn định danh tính cá nhân. Với Gen Z, điều này thể hiện rõ trong sự lo âu khi mất kết nối, nỗi sợ bị lãng quên, và việc gắn giá trị bản thân với lượt thích, lượt chia sẻ, hoặc hình ảnh bề ngoài.

So sánh với thế hệ trước: Khi thất bại từng là chuyện riêng

Trái ngược với môi trường sống của Gen Z, các thế hệ trước – như Baby Boomers, Gen X hay một phần lớn Gen Y – từng trải qua thời kỳ mà sự hiện diện cá nhân không bị “số hóa”, không bị theo dõi bởi số lượt tương tác, và đặc biệt, không bị áp lực phải thành công trước khi bước sang tuổi đôi mươi. Không có mạng xã hội để so sánh bản thân mỗi ngày với những người bạn đồng trang lứa hoặc người nổi tiếng; họ có quyền được thất bại trong im lặng, được vấp ngã mà không lo sợ sự bêu rếu công khai.

Điều này tạo ra một bối cảnh tâm lý rất khác. Trong khi những thế hệ đi trước có thời gian để trưởng thành theo chu trình tự nhiên, Gen Z lại bị “kéo nhanh” vào guồng quay của các kỳ vọng: học thật giỏi, kiếm tiền sớm, khởi nghiệp sớm, đẹp chuẩn mạng xã hội, sống “chất lượng” và có “profile cá nhân ấn tượng” – tất cả cùng lúc.

Hệ quả tâm lý: Từ FOMO đến trầm cảm chức năng

Những kỳ vọng quá tải từ xã hội số không chỉ tạo ra sự tự nghi ngờ nội tại (self-doubt) mà còn dẫn đến hàng loạt các vấn đề tâm lý có tính hệ thống. Một số hiện tượng nổi bật có thể kể đến:

FOMO – Fear of Missing Out (Hội chứng sợ bị bỏ lỡ)

FOMO là hiện tượng tâm lý khi một cá nhân liên tục cảm thấy mình đang bỏ lỡ điều gì đó quan trọng hoặc thú vị mà người khác đang trải nghiệm. Đối với Gen Z, FOMO không chỉ giới hạn ở các sự kiện ngoại tuyến, mà còn mở rộng sang cả lĩnh vực học hành, thành tích cá nhân, tình yêu và ngoại hình trên mạng. Chính sự tiếp xúc liên tục với “cuộc sống hoàn hảo” của người khác qua mạng khiến Gen Z luôn trong trạng thái cảnh giác, lo âu và thiếu hài lòng với chính mình (Przybylski et al., 2013).

Áp lực đồng trang lứa (Peer Pressure)

Sự cọ xát giữa các cá nhân trong không gian số khiến tiêu chuẩn chung bị nâng cao không ngừng. Từ thành tích học tập, phong cách sống, kỹ năng mềm, ngoại ngữ, đến… cách ăn uống healthy, mọi thứ đều có thể trở thành chủ đề cạnh tranh ngầm. Kết quả là nhiều người trẻ bị cuốn vào guồng so sánh – chạy đua không điểm dừng với bạn bè đồng lứa, dẫn đến tâm lý mệt mỏi kéo dài.

Chủ nghĩa cầu toàn độc hại (Toxic Perfectionism)

Khác với cầu toàn tích cực – vốn là động lực thúc đẩy sự hoàn thiện, cầu toàn độc hại khiến cá nhân sợ sai, ngại thử, và cảm thấy bản thân không bao giờ đủ tốt. Trong môi trường mạng – nơi thất bại rất dễ bị phán xét và lan truyền – nỗi sợ mắc lỗi càng bị khuếch đại, khiến nhiều người trẻ tránh né thử thách hoặc bị tê liệt trong quyết định. Nghiên cứu của Curran và Hill (2019) chỉ ra rằng thế hệ trẻ hiện nay có mức độ cầu toàn cao hơn bất kỳ thế hệ nào trước đó.

Trầm cảm chức năng (Functional Depression)

Một dạng trầm cảm nguy hiểm nhưng khó phát hiện, khi người mắc vẫn duy trì các hoạt động xã hội, công việc, học hành bình thường, nhưng bên trong lại rơi vào trạng thái kiệt sức, vô cảm, mất ý nghĩa sống. Đây là tình trạng đang phổ biến ở Gen Z, khi họ cảm thấy áp lực phải “diễn vai thành công” trên mạng xã hội, trong khi đời sống nội tâm ngày càng rỗng.

Từ góc nhìn truyền thông và văn hóa, có thể thấy rằng Gen Z không yếu đuối – họ chỉ đang sống trong một hệ sinh thái tâm lý hoàn toàn mới, nơi áp lực đến từ sự hiện diện trực tuyến liên tục, kỳ vọng thành công sớm, và sự so sánh không ngừng nghỉ. Nếu không đặt thế hệ trẻ trong đúng bối cảnh lịch sử – xã hội – công nghệ mà họ sinh ra và trưởng thành, thì nhận định “thế hệ trẻ yếu đuối” sẽ mãi là một kết luận phiến diện và thiếu công bằng.

Tâm lý phán xét liên thế hệ: Tư duy “thượng đẳng thế hệ”

Hiện tượng “tôi từng sống khổ hơn”: Gốc rễ từ tư duy thượng đẳng thế hệ

Trong lĩnh vực tâm lý học xã hội, hiện tượng một thế hệ tự xem trải nghiệm sống của mình là đúng đắn, “thật” và có giá trị hơn so với các thế hệ sau được gọi là tư duy thượng đẳng thế hệ (generational superiority bias). Đây là một dạng thiên kiến nhận thức (cognitive bias), khi con người đánh giá trải nghiệm sống cá nhân như một hệ quy chiếu phổ quát – từ đó áp đặt tiêu chuẩn, phán xét và hạ thấp trải nghiệm khác biệt của người trẻ.

Dạng tư duy này thường biểu hiện qua các câu nói phổ biến trong đời sống hàng ngày, như:

“Ngày xưa tao còn đi bộ 5 cây số đi học, mà có than đâu!”
“Tụi bây bây giờ sướng quá hóa rồ!”
“Thời tụi tao, đi làm là để sống, không có lựa chọn – còn bây giờ mấy đứa than nhiều hơn làm.”

Những phát ngôn trên không chỉ là hồi tưởng mang tính cá nhân mà còn thể hiện một dạng phủ định tinh vi đối với bối cảnh và cảm xúc của thế hệ sau. Theo nghiên cứu của Lyons et al. (2014), hiện tượng này không chỉ xuất hiện ở thế hệ lớn tuổi mà xuyên suốt lịch sử, hầu như mọi thế hệ đều có xu hướng xem mình là “cứng cáp”, “tự lập”, “đáng tin hơn” so với thế hệ kế tiếp. Điều này tạo ra một chu kỳ tái diễn của sự đánh giá, thiếu thấu cảm và đứt gãy giao tiếp liên thế hệ.

Đau khổ không nên là chuẩn mực của giá trị sống

Một trong những điểm cần giải cấu trúc trong tư duy thượng đẳng thế hệ là việc lấy “chịu khổ” làm thước đo của giá trị sống. Tư duy kiểu “tao từng khổ nên tao mạnh mẽ” dễ dẫn đến một hệ quả nguy hiểm: phủ định hoặc đánh giá thấp các hình thức đau khổ không giống với trải nghiệm cá nhân của mình.

Tuy nhiên, theo tiến sĩ Brené Brown – nhà nghiên cứu về cảm xúc và tính dễ tổn thương – mọi cảm xúc con người đều hợp lý trong bối cảnh của riêng họ, và việc “so sánh đau khổ” chỉ dẫn đến sự ngắt kết nối và cảm giác bị cô lập (Brown, 2012). Không ai được lựa chọn thời đại, xã hội hay điều kiện sống mình sinh ra. Vì vậy, việc đem chuẩn sống quá khứ áp vào hiện tại là hành vi thiếu công bằng, phi khoa học và phi nhân văn.

Ví dụ, người trẻ hiện nay có thể không phải đối mặt với nghèo đói vật chất như thế hệ trước, nhưng lại sống trong môi trường áp lực tinh thần cực lớn – từ mạng xã hội, kỳ vọng học thuật, biến đổi khí hậu, bất ổn kinh tế, cho tới khủng hoảng danh tính. Họ có thể không “đói cơm” nhưng lại “đói ý nghĩa”, “đói kết nối”, “đói sự lắng nghe” – những dạng khổ đau không thể đo lường bằng đơn vị vật chất.

Phủ nhận cảm xúc – rào cản của đối thoại liên thế hệ

Khi người lớn cho rằng cảm xúc tiêu cực của người trẻ là “quá nhạy cảm”, “yếu đuối”, hoặc “chuyện vặt cũng làm quá”, điều này không giúp người trẻ vượt qua khó khăn, mà chỉ khiến họ cảm thấy xấu hổ và đơn độc hơn trong trải nghiệm cảm xúc của mình. Sự phủ nhận này chính là rào cản lớn nhất trong việc hình thành một không gian đối thoại liên thế hệ mang tính chữa lành và đồng cảm.

Tâm lý học phát triển (developmental psychology) chỉ ra rằng sự thấu cảm giữa các thế hệ không đến từ việc đánh giá đúng sai, mà từ khả năng chấp nhận tính khác biệt của thời đại (Erikson, 1968). Việc thừa nhận rằng “nỗi đau của người khác cũng thật như nỗi đau của mình” là bước đầu để phá vỡ vòng lặp phán xét và thay thế nó bằng sự kết nối.

Tóm lại, tư duy thượng đẳng thế hệ là biểu hiện của sự thiếu hiểu biết về bối cảnh xã hội và tâm lý học liên thế hệ. Việc phán xét người trẻ là “yếu đuối” khi họ thể hiện cảm xúc, tìm kiếm sự giúp đỡ, hay đấu tranh cho quyền được sống đúng với chính mình không chỉ là hành vi thiếu công bằng, mà còn góp phần duy trì sự chia rẽ và im lặng giữa các thế hệ.

Thay vì đánh giá, mỗi thế hệ – đặc biệt là người lớn – cần học cách chuyển từ vai trò “người hướng dẫn” sang “người đồng hành”, nơi cảm xúc và trải nghiệm của thế hệ sau được nhìn nhận như một thực tại đáng được tôn trọng và lắng nghe.

Tổng kết

Câu hỏi “Thế hệ trẻ ngày nay có yếu đuối không?” không nên chỉ được trả lời bằng cảm xúc chủ quan hay hồi tưởng cá nhân, mà cần được tiếp cận bằng cái nhìn đa chiều, từ tâm lý học, xã hội học đến truyền thông và văn hóa hiện đại.

Trong kỷ nguyên xã hội số – nơi Gen Z và Gen Alpha lớn lên cùng với mạng xã hội, biến đổi khí hậu, khủng hoảng bản sắc và kỳ vọng thành công sớm – việc thể hiện cảm xúc, tìm kiếm sự giúp đỡ hay chất vấn hệ giá trị cũ không nên bị xem là biểu hiện của sự yếu đuối, mà là dấu hiệu của một thế hệ đang tỉnh thức và chủ động đối mặt với khủng hoảng.

Mỗi thế hệ đều có những “nỗi đau riêng”, được định hình bởi thời đại, công nghệ, giáo dục và nền tảng xã hội. Việc so sánh khổ đau giữa các thế hệ, lấy “chịu đựng” làm chuẩn mực mạnh mẽ, hoặc phủ định trải nghiệm của người trẻ không giúp ai mạnh mẽ hơn – mà chỉ làm sâu thêm hố ngăn cách liên thế hệ.

Đã đến lúc, thay vì hỏi “tại sao bọn trẻ yếu đuối?”, chúng ta cần hỏi lại:

“Chúng ta đã tạo ra một môi trường sống như thế nào khiến người trẻ buộc phải vật lộn trong im lặng?”
Và “Người lớn có đang đủ thấu cảm để trở thành nơi chở che, hay lại là nguồn áp lực?”

“Yếu đuối”, nếu có, không phải là điểm kết thúc – mà là một lời cảnh tỉnh, một tín hiệu về nhu cầu được hiểu, được lắng nghe, và được sống thật trong một xã hội biết tôn trọng tính khác biệt giữa các thế hệ.

Nguồn tham khảo

Brown, B. (2012). Daring Greatly: How the Courage to Be Vulnerable Transforms the Way We Live, Love, Parent, and Lead. Gotham Books.

Erikson, E. H. (1968). Identity: Youth and Crisis. W. W. Norton & Company.

Lyons, S. T., Schweitzer, L., & Ng, E. S. (2014). How have careers changed? An investigation of changing career patterns across four generations. Journal of Managerial Psychology, 30(1), 8–21.

Mannheim, K. (1928). The Problem of Generations. In Essays on the Sociology of Knowledge, ed. Paul Kecskemeti. Routledge & Kegan Paul, 1952.

Prensky, M. (2001). Digital Natives, Digital Immigrants. On the Horizon, 9(5), 1–6.

Twenge, J. M. (2017). iGen: Why Today’s Super-Connected Kids Are Growing Up Less Rebellious, More Tolerant, Less Happy–and Completely Unprepared for Adulthood. Atria Books.

Zeigarnik, B. (1927). Über das Behalten von erledigten und unerledigten Handlungen. Psychologische Forschung, 9, 1–85.

Bài viết liên quan

BẢN TIN TÂM LÝ NHẬN THỨC

BẢN TIN TÂM LÝ TRIẾT HỌC

BẢN TIN TÂM LÝ KỸ NĂNG SỐNG SỨC KHOẺ TINH THẦN

BẢN TIN TÂM LÝ LIỆU PHÁP MỐI QUAN HỆ SỨC KHOẺ TINH THẦN

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *