Những người mắc chứng rối loạn lo âu xã hội thường lo lắng quá mức về việc bị người khác đánh giá hoặc soi mói và có thể tránh hoàn toàn các tình huống xã hội hoặc chịu đựng chúng với sự khó chịu tột độ. Rối loạn này có thể làm suy yếu đáng kể chức năng hàng ngày và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống.
Nhiều người cảm thấy lo lắng trong một số tình huống xã hội nhất định, chẳng hạn như đi phỏng vấn xin việc hoặc phát biểu tại một đám cưới. Việc lo lắng hoặc hồi hộp về những tình huống như vậy là bình thường.
Tuy nhiên, đối với những người bị lo lắng xã hội, những cảm giác lo lắng này có thể xảy ra trong hầu hết hoặc tất cả các tình huống xã hội. Sự lo lắng có thể dữ dội đến mức ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của họ.
Rối loạn lo âu xã hội là gì?
Rối loạn lo âu xã hội, còn được gọi là ám ảnh sợ xã hội, là một rối loạn lo âu đặc trưng bởi nỗi sợ hãi và lo lắng dữ dội trong các tình huống xã hội.
Họ có thể gặp phải chứng lo âu xã hội ở nhiều khía cạnh của cuộc sống, chẳng hạn như ở trường học, tại nơi làm việc , tại các sự kiện xã hội và khi ra ngoài nơi công cộng.

Rối loạn lo âu xã hội có thể xảy ra khi cá nhân sợ những tình huống xã hội mà họ dự đoán sẽ bị người khác đánh giá tiêu cực hoặc nhận thấy rằng sự hiện diện của họ sẽ khiến người khác cảm thấy không thoải mái (Heimberg và cộng sự, 2014).
Rối loạn lo âu xã hội có thể khác nhau về phạm vi và mức độ nghiêm trọng, một số người sợ hầu hết các tình huống xã hội, trong khi những người khác chỉ có thể cảm thấy lo lắng trong một hoặc hai tình huống xã hội.
Dưới đây là danh sách một số tình huống xã hội mà người mắc chứng rối loạn lo âu xã hội có thể thấy khó khăn:
- Nói trước công chúng
- Trò chuyện riêng tư
- Tương tác nhóm
- Các sự kiện xã hội, ví dụ như tiệc tùng
- Gặp gỡ những người mới
- Thực hiện cuộc gọi điện thoại
- Phỏng vấn xin việc
- Bắt đầu và duy trì cuộc trò chuyện
- Trình bày
- Cuộc họp công việc
- Đi bộ trong tầm nhìn của người khác
- Sử dụng nhà vệ sinh công cộng
- Ăn hoặc uống trước mặt mọi người
- Khẳng định mình với người khác
- Nói chuyện với những người có thẩm quyền
Sống chung với chứng lo âu xã hội sẽ như thế nào?
Những người mắc chứng lo âu xã hội có thể gặp phải sự kết hợp của các dấu hiệu về nhận thức, hành vi và thể chất.

Các dấu hiệu nhận thức của chứng lo âu xã hội thường là những niềm tin, thành kiến và suy nghĩ tiêu cực về bản thân hoặc các tình huống xã hội và có thể bao gồm những điều sau:
Dấu hiệu nhận thức
- Sợ nói chuyện với người lạ
- Lo lắng bị xấu hổ
- Sợ những tình huống có khả năng bị đánh giá tiêu cực
- Sợ rằng người khác sẽ nhận thấy sự lo lắng
- Sợ cảm giác vật lý liên quan đến lo lắng
- Lo lắng dữ dội trong các tình huống xã hội
- Sợ phân tích hiệu suất
- Lo sợ những sự kiện sắp tới
- Mong đợi hậu quả tồi tệ nhất có thể xảy ra từ một trải nghiệm tiêu cực trong một tình huống xã hội
Các dấu hiệu hành vi của chứng lo âu xã hội là những hành động mà người mắc chứng lo âu xã hội thực hiện do lo lắng, bao gồm:
Dấu hiệu hành vi
- Tránh nói chuyện
- Tránh trở thành trung tâm của sự chú ý
- Rời khỏi hoặc thoát khỏi các tình huống xã hội
- Sử dụng các hành vi an toàn
- Nghỉ học hoặc nghỉ làm
Các dấu hiệu vật lý của chứng lo âu xã hội là những dấu hiệu thường xuất hiện trước, trong và sau một tình huống xã hội; thông thường, những cảm giác thường xuất hiện trong phản ứng chiến đấu hoặc bỏ chạy, bao gồm:
Dấu hiệu vật lý
- Đỏ mặt
- Đổ mồ hôi
- Nhịp tim nhanh
- Buồn nôn
- Cảm thấy khó thở
- Cảm giác như tâm trí trở nên trống rỗng
- Chóng mặt
- Căng cơ
Những dấu hiệu này sẽ không giống nhau đối với tất cả những người bị lo lắng xã hội, vì một số người chỉ gặp một vài dấu hiệu trong khi những người khác có thể gặp nhiều dấu hiệu hơn. Điều quan trọng cần lưu ý là lo lắng xã hội có thể khác nhau ở mỗi người.
Cảm giác lo lắng xã hội như thế nào?
Dưới đây là một số trích dẫn từ các chuyên gia và cá nhân đã từng trải qua chứng lo âu xã hội mô tả cảm giác thực sự của chứng bệnh này.
Chuyên gia trị liệu Angela Dierks mô tả cách bà gặp những khách hàng mắc chứng lo âu xã hội và cảm thấy rất xấu hổ:
‘Rất thường xuyên, một người mắc chứng lo âu xã hội không có khả năng chống lại sự xấu hổ. Họ rất dễ xấu hổ. Họ rất có thể sẽ trải qua (dấu hiệu) má ửng hồng và mặt đỏ bừng như là điều vô cùng đáng xấu hổ.’
Dierks tiếp tục giải thích cách tính ích kỷ (tập trung quá mức vào bản thân) đóng vai trò lớn ở nhiều người mắc chứng lo âu xã hội:
‘Bạn trở nên khá ích kỷ khi bạn lo lắng… có cảm giác rằng cả thế giới đang chú ý đến bạn, rằng mọi người đang chú ý sâu sắc đến bạn. Rằng mọi người nhận thấy mọi cảm xúc mà bạn có thể đang trải qua… Sự thật là hầu hết mọi người thường không nhận thấy. Họ không biết chính xác điều gì đang xảy ra với bạn. Họ thậm chí có thể không quan tâm đến điều đó.’
Trong một nghiên cứu của Mohammadi và cộng sự (2019), một người tham gia đã mô tả cảm giác hạn chế lo lắng xã hội:
‘Khi tôi ở trong tình huống căng thẳng, tôi không thể nói hoặc cử động, giống như tôi đang ở trong lồng vậy.’
Những người mắc chứng lo âu xã hội thường mô tả cảm giác bất lực hoặc không xứng đáng trong các tình huống xã hội:
‘Tôi nghĩ có điều gì đó khiến tôi dễ bị tổn thương nhất trong những tình huống này và đó là tôi cảm thấy mình không đủ xứng đáng.’
Từ Mohammadi et al. (2019)
Kate cũng chia sẻ cảm giác này khi cô mô tả trải nghiệm cá nhân của mình:
‘nhưng tôi nghĩ rằng phần lớn chứng lo âu xã hội là cảm giác mất kiểm soát và giống như bạn không có khả năng trò chuyện hoặc không có khả năng duy trì một cuộc trò chuyện.’
Tương tự như vậy, những người mắc chứng lo âu xã hội có thể tìm cách đối phó bằng cách nỗ lực nhiều hơn mức cần thiết để xử lý các tình huống xã hội, như Ryan mô tả:
‘Sự lo lắng xã hội của tôi thực sự bắt nguồn từ việc không biết phải nói gì. Và tôi thấy rằng tôi sẽ lên kế hoạch cho cuộc đối thoại trong đầu trước khi trò chuyện với ai đó. Và tôi luôn cố gắng đi trước cuộc trò chuyện hai hoặc ba bước.’
Nguyên nhân gây ra chứng lo âu xã hội là gì?
Nguyên nhân chính xác của chứng lo âu xã hội vẫn chưa được hiểu đầy đủ, nhưng có một số yếu tố có thể góp phần vào sự phát triển của chứng bệnh này.
Nhìn chung, chứng lo âu xã hội có thể là do sự kết hợp của các yếu tố di truyền, môi trường và sinh học.
Có thể di truyền chứng lo âu xã hội từ gia đình không?
Một nguyên nhân có thể gây ra chứng lo âu xã hội là do di truyền, vì những cá nhân có tiền sử gia đình mắc chứng rối loạn lo âu có thể có nhiều khả năng mắc chứng lo âu xã hội hơn.
Tương tự như vậy, mối quan hệ di truyền càng gần gũi với người mắc chứng lo âu/trầm cảm (ví dụ: cha mẹ hoặc anh chị em ruột), thì khả năng người đó mắc chứng lo âu xã hội càng cao.
Do đó, nếu bạn có cha mẹ mắc chứng lo âu xã hội, bạn cũng có nhiều khả năng mắc chứng lo âu xã hội hơn.
Một số nguyên nhân sinh học có thể gây ra chứng lo âu xã hội là gì?

Ví dụ, một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng có sự gia tăng hoạt động serotonin và dopamine ở các vùng não liên quan đến nỗi sợ hãi (hạch hạnh nhân) và phần thưởng (nhân accumbens), trong đó hoạt động lớn hơn có liên quan đến mức độ nghiêm trọng của triệu chứng (Hjorth và cộng sự, 2019).
Các nghiên cứu hình ảnh đã chứng minh rằng những người mắc chứng rối loạn lo âu xã hội biểu hiện sự kích hoạt có chọn lọc của hạch hạnh nhân khi tiếp xúc với các kích thích liên quan đến nỗi sợ hãi (Birbaumer và cộng sự, 1998) hoặc biểu hiện các kiểu kích hoạt hạch hạnh nhân khác nhau trong quá trình điều hòa gây ác cảm (Schneider và cộng sự, 1999).
Một nghiên cứu sâu hơn phát hiện ra rằng những người mắc chứng rối loạn lo âu xã hội có lưu lượng máu tăng lên ở hạch hạnh nhân. Ngược lại, những người không mắc chứng rối loạn lo âu xã hội cho thấy lưu lượng máu tăng lên ở vỏ não (khu vực suy nghĩ và đánh giá).
Điều này cho thấy những người mắc chứng lo âu xã hội có vùng sợ hãi bị kích thích quá mức, lấn át các phần não liên quan đến lý luận logic.
Môi trường và các sự kiện trong cuộc sống có thể gây ra chứng lo âu xã hội không?
Cũng có thể có các yếu tố môi trường góp phần vào sự phát triển của chứng lo âu xã hội. Các tác nhân gây căng thẳng trong cuộc sống, chẳng hạn như công việc, trường học hoặc một sự kiện đau thương, có thể gây ra chứng lo âu xã hội.
Học tập sớm khi còn nhỏ cũng có thể là một yếu tố góp phần tiềm ẩn. Nếu gia đình của một cá nhân quá chỉ trích trẻ, kiểm soát hoặc bảo vệ quá mức, điều này có thể khiến trẻ dễ trở nên lo lắng hơn.
Ngoài ra, cha mẹ lo lắng và sợ hãi có thể vô tình chuyển những lo lắng và sợ hãi của họ về các tình huống xã hội sang con cái của họ. Nếu cha mẹ lo lắng quá mức về những gì người khác nghĩ về họ, điều này có thể được trẻ em nhận ra, sau đó cũng có thể có những lo lắng tương tự.
‘Tôi lớn lên trong một gia đình đầy căng thẳng và áp lực vượt quá khả năng quản lý của tôi.’
Trích đoạn phỏng vấn từ Mohammadi et al. (2019).
Những người mắc chứng lo âu xã hội thường báo cáo rằng họ rất nhút nhát hoặc khép kín khi còn nhỏ, điều này có thể xuất phát từ nhiều yếu tố môi trường khác nhau. Nếu trẻ nhút nhát là nạn nhân của bắt nạt hoặc lạm dụng do nhút nhát, điều này cũng có thể làm trầm trọng thêm sự nhút nhát, có thể phát triển thành chứng lo âu xã hội.
Người ta cũng cho rằng việc bị cô lập về mặt xã hội và cô đơn có liên quan đến việc mọi người phát triển chứng lo âu xã hội (Eres và cộng sự, 2023).
Điều gì khiến chứng lo âu xã hội tiếp diễn?
Với chứng lo âu xã hội, một phần lớn khiến chứng bệnh này kéo dài là do cá nhân sẽ nghĩ về khả năng xảy ra và chi phí của tình huống xã hội đáng sợ đó.
Xác suất là ý tưởng về khả năng họ tin rằng nỗi sợ của mình sẽ xảy ra, trong khi cái giá phải trả là mức độ tồi tệ mà họ tin rằng tình hình sẽ trở nên như thế nào nếu nỗi sợ của họ trở thành sự thật.
Ví dụ, nếu ai đó đang có kế hoạch thuyết trình trước lớp, họ có thể tin rằng khả năng cao là họ sẽ mắc lỗi hoặc nói lắp – đây chính là xác suất.
Nếu lỗi hoặc nói lắp xảy ra, họ có thể tin rằng họ sẽ bị chỉ trích hoặc cười nhạo bởi những người khác – đây là cái giá phải trả. Do những suy nghĩ này có thể khiến người phát biểu cảm thấy rất lo lắng và họ có thể run rẩy, đỏ mặt, đổ mồ hôi hoặc cảm thấy buồn nôn vì điều đó.
Những người mắc chứng lo âu xã hội có thể bận tâm với nhiều nỗi sợ về cảm giác thể chất như sợ run, đỏ mặt và đổ mồ hôi. Họ cũng có thể sợ tỏ ra lo lắng, buồn chán hoặc bất tài (Hofmann và cộng sự, 2010). Việc có những nỗi sợ như vậy có thể góp phần gây ra nhiều cảm giác thể chất hơn và do đó khiến cá nhân lo lắng về mặt xã hội.
Theo nghiên cứu, chủ nghĩa hoàn hảo và lo lắng xã hội có mối liên hệ chặt chẽ (Ferber và cộng sự, 2024). Những người có xu hướng cầu toàn đặt ra các tiêu chuẩn không thực tế cho hiệu suất xã hội của họ, chỉ trích bản thân gay gắt khi không đạt được mục tiêu và sợ bị người khác đánh giá tiêu cực.
Để bù đắp cho những điểm yếu được nhận thức, họ có thể tham gia vào các hành vi để thể hiện hình ảnh hoàn hảo trong khi che giấu khuyết điểm. Tuy nhiên, điều này thường phản tác dụng, vì ý thức về bản thân và nỗi sợ bị phán xét của họ làm tăng thêm sự lo lắng.
Những cách khác khiến chứng lo âu xã hội có thể tiếp diễn là:
- Bị kích hoạt bởi ‘mối đe dọa xã hội’
- Những suy nghĩ tiêu cực về bản thân
- Chúng ta tin tưởng mạnh mẽ đến mức nào về một ‘thảm họa xã hội’ sẽ xảy ra
- Sự chú ý tập trung vào bản thân và môi trường
- Hành vi an toàn
- Chiến lược tránh né
- Bạn nghĩ người khác nhìn nhận bạn như thế nào
- Niềm tin cốt lõi
Người mắc chứng lo âu xã hội sử dụng biện pháp tránh né như thế nào?
Hành vi né tránh là phổ biến ở những người mắc chứng lo âu xã hội. Họ có thể tránh những tình huống mà họ sợ để giảm bớt sự lo lắng.
Điều này mang lại sự thoải mái tức thời và giảm lo lắng tạm thời.
Những người dùng biện pháp tránh né như một cơ chế đối phó có xu hướng tránh những người lạ, nhóm đông người, cuộc gọi điện thoại, cuộc hẹn, trường học hoặc công việc.
Tại sao việc tránh các hoạt động xã hội lại là một vấn đề?
Mặc dù việc tránh các tình huống xã hội có thể khiến những người lo lắng về mặt xã hội cảm thấy an toàn trong thời gian ngắn, nhưng nó lại gây ra những vấn đề lâu dài vì có thể khiến tình trạng lo lắng kéo dài.
Sự né tránh ngăn cản cá nhân thách thức những suy nghĩ tiêu cực của họ và củng cố chúng. Nó cũng hạn chế các cơ hội cho những trải nghiệm xã hội tích cực có thể thúc đẩy họ tham gia nhiều hoạt động xã hội hơn.
Điều này có thể dẫn đến việc bỏ lỡ các cơ hội phát triển cá nhân và nghề nghiệp, chẳng hạn như tránh phỏng vấn xin việc vào các vị trí mong muốn vì sợ bị bẽ mặt hoặc bị đưa vào thế khó.
Việc né tránh cũng có thể có tác động tiêu cực đến lòng tự trọng, khiến cá nhân cảm thấy không hài lòng với cuộc sống xã hội, cảm thấy bị cô lập và có thể dẫn đến trầm cảm.
Hành vi né tránh có thể lan sang các lĩnh vực khác của cuộc sống, làm xói mòn lòng tin trong các mối quan hệ và hiệu suất công việc.
Hơn nữa, khi những người mắc chứng lo âu xã hội cuối cùng phải đối mặt với những tình huống xã hội không thể tránh khỏi, nỗi lo lắng của họ có thể còn dữ dội hơn do thiếu sự tiếp xúc và chuẩn bị.
Người mắc chứng lo âu xã hội sử dụng hành vi an toàn như thế nào?
Các hành vi an toàn có thể được sử dụng trong những tình huống không thể tránh khỏi.
Những hành vi này, mặc dù tinh vi hơn, đóng vai trò như một hình thức tránh né bằng cách ngăn ngừa những hậu quả đáng sợ và tăng sự thoải mái trong các bối cảnh xã hội.
Một số hành vi an toàn bao gồm:
- Giữ im lặng trong các tình huống xã hội
- Đeo tai nghe
- Lên kế hoạch trước những gì sẽ nói
- Hạn chế giao tiếp bằng mắt
- Sử dụng rượu hoặc ma túy
- Nói nhỏ nhẹ
- Giữ trọng tâm của cuộc trò chuyện vào người khác
- Mặc quần áo không dễ thấy
- Mang theo thuốc chống lo âu
Hành vi an toàn có thể không được chú ý và thay đổi tùy theo tình huống. Tuy nhiên, giống như hành vi tránh né, chúng chỉ mang lại sự giải tỏa tạm thời và có thể làm trầm trọng thêm sự lo lắng về lâu dài.
Trong khi cá nhân có thể không hoàn toàn tránh được tình huống, các hành vi an toàn cản trở họ kiểm tra đầy đủ nỗi sợ hãi của mình. Bằng cách liên tục thách thức những suy nghĩ tiêu cực, cá nhân có thể nhận ra rằng dự đoán của họ hiếm khi trở thành sự thật, do đó làm giảm những suy nghĩ tiêu cực này.
Trớ trêu thay, các hành vi an toàn có thể dẫn đến những kết quả tồi tệ hơn so với khi cá nhân đối mặt với tình huống mà không dựa vào chúng, có khả năng dẫn đến chính những kết quả mà họ muốn ngăn chặn.
Ví dụ, việc dựa vào rượu để giảm bớt sự khó chịu trong giao tiếp xã hội có thể dẫn đến tình trạng say xỉn rõ ràng và hành vi đáng xấu hổ mà sẽ không xảy ra nếu không có rượu.
Khi áp dụng các hành vi an toàn và kết quả đáng lo ngại không xảy ra, mọi người có thể nhầm tưởng thành công này là nhờ các hành vi an toàn của mình.
Họ có thể tin rằng những hành vi này ngăn ngừa được những kết quả tiêu cực, dẫn đến việc phụ thuộc nhiều hơn vào chúng trong các tình huống xã hội trong tương lai và gia tăng lo lắng khi không thể thực hiện những hành vi này.
Hơn nữa, việc tham gia vào các hành vi an toàn có thể chuyển hướng sự tập trung của cá nhân vào bên trong, làm mất sự chú ý khỏi tình huống xã hội đang diễn ra (chẳng hạn như một cuộc trò chuyện) và dẫn đến thêm những khó khăn.
Tóm lại, các hành vi an toàn, giống như các hành vi né tránh, mang lại sự giải tỏa ngắn hạn nhưng cuối cùng có thể làm tăng thêm sự lo lắng. Chúng hạn chế cơ hội để kiểm tra nỗi sợ hãi, có thể tạo ra những lời tiên tri tự ứng nghiệm và cản trở sự tham gia đầy đủ vào các tương tác xã hội.
Rối loạn lo âu xã hội được điều trị như thế nào?
Điều trị lo âu xã hội thường bao gồm sự kết hợp giữa liệu pháp tâm lý và đôi khi là dùng thuốc.
Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) là phương pháp trị liệu tâm lý được khuyến nghị nhiều nhất, giúp cá nhân xác định và thay đổi các kiểu suy nghĩ và hành vi tiêu cực. Liệu pháp tiếp xúc, một dạng của CBT, dần dần cho mọi người tiếp xúc với các tình huống xã hội đáng sợ để giảm lo lắng theo thời gian.
Các chiến lược hữu ích khác bao gồm:
- Các kỹ thuật thư giãn (ví dụ, hít thở sâu, thiền định)
- Đào tạo kỹ năng xã hội
- Thực hành chánh niệm
- Tập thể dục thường xuyên
- Thay đổi lối sống (cải thiện giấc ngủ, giảm caffeine/rượu)
Trong một số trường hợp, thuốc như thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) hoặc thuốc chẹn beta có thể được kê đơn để kiểm soát các triệu chứng.
Các nhóm hỗ trợ và nguồn lực tự trợ giúp cũng có thể có lợi. Việc điều trị thường được cá nhân hóa, kết hợp các phương pháp khác nhau dựa trên nhu cầu cá nhân và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.
Những câu hỏi thường gặp
Ai là người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi chứng lo âu xã hội?
Rối loạn lo âu xã hội được công nhận là một rối loạn lo âu trong ấn bản thứ ba của Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần (DSM-3) năm 1980 và được cho là có tỷ lệ mắc bệnh trong suốt cuộc đời là 12% ở Hoa Kỳ (Kessler và cộng sự, 2005).
Lo lắng xã hội được cho là ảnh hưởng không cân xứng đến những người trẻ tuổi, với nhiều trường hợp được chẩn đoán trước 23 tuổi (Kessler và cộng sự, 2005). Một nghiên cứu gần đây xem xét những người từ 16-29 tuổi từ các quốc gia có nền văn hóa và kinh tế đa dạng cho thấy 1/3 đáp ứng các tiêu chí của chứng rối loạn lo âu xã hội (Jefferies & Ungar, 2020).
Tương tự như vậy, tỷ lệ lo lắng xã hội được quan sát thấy ở phụ nữ cao hơn nam giới (Nordahl & Wells, 2020).
Khi nào chứng lo âu xã hội trở thành một rối loạn?
Mặc dù chứng lo âu xã hội có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai ở một mức độ nào đó, nhưng nó sẽ trở thành một rối loạn khi nó ảnh hưởng đáng kể đến khả năng hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của một cá nhân.
Điều này có thể bao gồm việc tránh các tình huống xã hội, trải qua nỗi sợ hãi hoặc lo lắng quá mức trong các tình huống xã hội và có các dấu hiệu thể chất như đổ mồ hôi hoặc run rẩy trong các tình huống xã hội.
Nỗi sợ hãi và lo lắng liên quan đến chứng rối loạn lo âu xã hội có thể dai dẳng và dữ dội, và có thể dẫn đến đau khổ và suy giảm đáng kể trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống, chẳng hạn như công việc, trường học và các mối quan hệ.
Liệu phương tiện truyền thông xã hội có thể góp phần gây ra chứng lo âu xã hội không?
Một số nghiên cứu cho thấy việc sử dụng mạng xã hội nhiều hơn và có nhiều lựa chọn giao tiếp phi trực tiếp hơn có liên quan đến mức độ lo lắng xã hội cao hơn (Caplan, 2007; Lee-Won và cộng sự, 2015).
Một lý do tiềm ẩn cho điều này có thể là những người mắc chứng lo âu xã hội thích sự ‘an toàn’ tương đối của các tương tác trực tuyến (Caplan, 2007). Họ có thể cảm thấy ít có xu hướng đẩy mình ra khỏi vùng an toàn của mình nếu ít cần phải giao tiếp trực tiếp