Một góc nhìn triết học về hiện tượng “tự sát” ở con người, cụ thể qua tư tưởng Schopenhauer, với nội dung xoay quanh về ý chí.
Khi ý chí từng được cho là động lực thúc đẩy để con người tiếp tục tồn tại. Nhưng cho đến một ngưỡng nào đó (vào giai đoạn xã hội không ngừng hiện đại hóa), khi ý chí dần xem như là một gánh nặng mà con người không thể kiểm soát nỗi nữa và dần trở nên đau khổ, thì việc con người chọn cái chết cho bản thân có phải là một cách giải thoát đúng đắn.
Nói đến con người tự sát, lại nhớ đến một sự việc gần đây. Vào trưa Chủ Nhật, ngày 3/8 vừa qua, ở trung tâm AEON Long Biên đã xảy ra một người đàn ông nhảy lầu từ tầng 4 rơi xuống, rơi ngay giữa một event đang diễn ra. Sau cú nhảy đó, chắc hẳn là mang nhiều cảm xúc lên xuống đối với những ai đã có mặt ở đó. Có vài lời thương xót, vài tiếng thở dài, thế rồi lại tiếp tục mua sắm, ăn uống, chụp ảnh như thể chẳng có gì xảy ra.
Thế nhưng, sau cú nhảy lặng lẽ đó thì cũng nhớ đến những trường hợp tương tự ở Vạn Hạnh Mall. Chính điều đó, cũng sẽ không ít nhiều câu hỏi đặt ra. Điều gì mà những người thảm thương này lại ra quyết định “mù mịt” như vậy?
Một nỗi đau trong lòng? Một bi kịch từ người thân? Một cuộc ẩu đả với một ai đó? Hay dễ nghĩ hơn là có thể tâm lý họ đang bất ổn?

Nhưng, nằm ẩn sâu đó, thiết nghĩ nếu đặt trong góc nhìn từ hiện sinh, thì đó cũng có thể là một nỗi cùng cực không thể nói lên lời của những con người không có lối thoát ấy.
Từ đó, những câu hỏi suy tư tiếp tục được đặt ra:
- Tại sao những con người đáng thương ấy lại đi đến lựa chọn cực đoan như vậy?
- Việc giải thích của tâm lý học đã có thể giải thích trọn vẹn về hành vi tự sát?
- Có nên nhìn nhận vấn đề này bằng một con mắt khác, mà ta có thể mượn từ góc nhìn của triết gia người Đức ở thế kỷ 19, Arthur Schopenhauer?
Nói đôi chút về Schopenhauer, là một triết gia từng bị gắn nhãn là “bi quan”, nhưng thực ra, ông là một trong số ít những triết gia dám đối diện với bản chất khổ đau trong đời sống con người một cách trực diện và thuyết phục.
Theo Schopenhauer, “bản chất của sự sống là khổ đau” bởi những gì đang tồn tại ngay chính sự sống này đều đang bị chi phối bởi một thế lực vô hình, mà ông gọi đó là ý chí, một cái gì đó đã thúc đẩy sự ham muốn của con người lên vô tận, nhưng sự ham muốn ấy chưa bao giờ được thỏa mãn một cách trọn vẹn.
Trong thế giới ta đang tồn tại, việc không ngừng tìm kiếm một thứ gì đó viễn vông và xa vời để lắp đầy đi cho sự khoảng trống ở bên trong chúng ta, mà như Schopenhauer cho rằng, sự thiếu thốn ấy vốn dĩ không thể và sẽ không bao giờ có thể lắp đầy nó được. Bởi theo ông, việc “không ngừng tìm kiếm” ấy chính là động lực thúc đẩy của sự sống, con người phải vươn lên, tranh đoạt thì mới có thể tồn tại. Thế nhưng, đâu ai biết được đó lại là cội nguồn khổ đau kéo dài trong lịch sử nhân loại.
Nhìn lại vụ việc ở AEON, hay những câu chuyện tương tự khác, nếu chúng ta tinh mắt một chút, có thể sẽ thấy đây không chỉ là một “sự kiện xã hội” diễn ra một cách tự nhiên, mà đằng sau đó còn là một câu chuyện khác, một câu chuyện nói lên biểu tượng bi kịch của thời đại lâu nay: Khi ý chí không còn đóng vai trò là một nguồn động lực để tiến tới sự tồn tại, thì giờ đây nó đang trở thành một gánh nặng vô hình âm thầm đè nén tinh thần của con người.
Và một khi gánh nặng ấy vượt quá sức chịu đựng đối với một con người nhỏ bé, thì ý chí bên trong họ sẽ tự gây mâu thuẫn với chính họ, con người lúc này cảm thấy nỗi khổ đau một cách đau đớn và dai dẳng, đến nỗi họ chỉ muốn tìm đến cái chết nhằm chống lại với ý chí, họ chết đi là xem như được nhẹ lòng.
Nhưng Schopenhauer chưa từng xem cái chết là con đường “nên làm” trong việc phủ định với ý chí. Thay vì chọn lối đi không thấu suốt, ông đã gợi mở với một khả thể khác: vượt thoát bằng sự tỉnh thức, lòng từ bi, và đời sống khổ hạnh, đó là những cách phủ định lại ham muốn của ý chí mà vẫn tiếp tục tồn tại trong thế giới khổ đau này.
Có thể, khoảnh khắc ta nhận ra mình đang bị dẫn dắt bởi một khát vọng mù quáng cũng là lúc vết nứt đầu tiên hình thành trên lớp vỏ của ý chí. Và đôi khi, chỉ cần một khe nứt ấy thôi, là đủ để một con người như chúng ta có thể dừng tiến về bờ vực thẳm.
Khổ đau hiện sinh và cái chết tự chọn
Chưa bao giờ thấy rằng con người chúng ta ngày nay sống trong một thời đại vừa đủ đầy, nhưng vừa lại thấy trống rỗng hơn bao giờ hết. Đó là thời đại mà chúng ta có nhiều phương tiện để kết nối với nhau, nhưng cùng lúc đó ta lại dễ mắc vào cảm giác cô đơn một cách khó hiểu. Đồng thời, đứng trước vàn câu hỏi vu vơ rằng: “Tôi là ai?”, “Bản thân tôi đang sống vì điều gì?”
Thiết nghĩ, tình trạng này có thể bắt nguồn từ những áp lực qua nhiều khía cạnh trong cuộc sống mỗi cá nhân. Nhiều áp lực chồng chất lên tâm trí, khiến tâm trí dường như đang không ngừng căng ra. Ta có thể xem tâm trí con người giống như một sợi dây đàn, chỉ cần kéo căng thêm một chút nữa thôi, là có thể lập tức bị đứt ngay. Cũng bởi vậy, mới nhận thấy con người chúng ta ngày nay, vốn trước đây rất dễ mong manh mà giờ lại càng mong manh hơn nữa. Một khi không thể theo kịp nhịp sống, là ta lại nghĩ quẩn tìm đến con đường tự sát.
Phải nói rằng, tự sát giờ đây không còn là một trường hợp cá biệt như lúc trước, thậm chí nó đang có thể trở thành một xu hướng của giới trẻ, điều này càng phản ánh rõ về sự rạn nứt trong đời sống hiện đại.
Dựa một vài thống kê về vấn đề tự sát trong những năm gần đây, cũng thấy được rằng con người chọn kết liễu cuộc đời mình đang ngày một càng gia tăng, chứ không chưa có dấu hiệu giảm nhiệt. Mà phía sau những con người ấy, không chỉ bắt nguồn bởi những tổn thương về mặt tâm lý, mà đằng sau hơn nữa là những áp lực từ công việc, từ gia đình rồi lẫn xã hội. Nhưng cái điều sâu xa hơn đó, mà cá nhân thấy sự thông cảm, đó vẫn là sự cô đơn bủa vây ở trong tâm hồn của họ.
Từ một bài báo trên Tuổi Trẻ News vào năm 2023, trình bày thống kê mỗi năm Việt Nam ghi nhận khoảng 36.000 – 40.000 trường hợp tử tự (đây là con số cao hơn so với trường hợp tai nạn giao thông), thì trong đó trầm cảm là nguyên nhân được xếp hàng đầu. Ở một bài khác, là số liệu của WHO vào năm 2019 cũng cho thấy, tỷ lệ tử vong do tự sát ở Việt Nam đạt khoảng 7,5/100.000 dân. Theo họ đánh giá, đây là con số đạt gần mức trung bình số ca tự sát trên toàn cầu.
Điều này ta thấy được gì? Đó là một con số đáng báo động cho mỗi chúng ta. Bởi thế, từ góc nhìn đánh giá của các chuyên gia tâm lý, trầm cảm là một bệnh lý cần được chuẩn đoán kịp thời và điều trị nghiêm túc.
Đồng tình rằng trầm cảm vẫn là yếu tố dẫn đến tới hành vi tự sát. Thế nhưng, như vậy là vẫn chưa đủ, bởi ta vẫn chưa thấy phần ẩn sâu nằm dưới lớp “tảng băng trôi” ấy, còn có một cái gì đó sâu xa hơn căn bệnh trầm cảm này.
Việc con người chọn cái chết chưa hẳn là kết quả của một rối loạn tâm thần, nếu ta không soi xét bằng lăng kính của triết học. Nếu nhìn kỹ, có thể nói, phải chăng đó là một dấu hiệu, hay một biểu hiện của một cá nhân đang đối mặt với khủng hoảng hiện sinh. Mà nơi đó, những cá nhân ấy đã đánh mất phần ý nghĩa của cuộc sống và cảm thấy con đường dần trở nên bế tắc trước sự tồn tại của họ.
Dễ nhận thấy nhất, trong bối cảnh thời đại ngày nay, xã hội luôn đòi hỏi sự thành công và địa vị, nhịp sống thì luôn gấp gáp khi dường như mọi thứ đang chuyển đổi hóa bởi công nghệ AI, và kèm theo đó là sự rạn nứt trong các mối quan hệ, điều đó khiến nhiều người dễ rơi vào trạng thái kiệt quệ.
Kiệt quệ là bởi vì, ở bên trong, ý chí vốn luôn vận hành thúc đẩy con người phải tiến tới, phải vươn lên, giờ đây nó đang ngày càng làm việc như một cỗ máy không biết ngừng nghỉ, không ngừng nghỉ thì đồng nghĩa nó đang dần hút cạn sinh lực của con người (phải chạy đua với chuẩn mực xã hội) từng mỗi ngày.
Chính vì vậy, bị ảnh hưởng từ yếu tố ngoại cảnh của xã hội lẫn ý chí từ bên trong, đúng như Schopenhauer đã nói: con người luôn dằn dặt với khổ đau.
Nói về những người trẻ, là nhóm dễ nhạy cảm nhất, việc họ chọn tự sát thường bị quy chụp vội vã là biểu hiện của sự “yếu đuối”. Nhưng nếu ta nhìn xa và rộng hơn, thì chẳng phải đó là tín hiệu cầu cứu từ người trẻ đang cảm thấy thế giới này không còn chỗ cho sự mong manh và tổn thương của họ hay sao?
Vì vậy, tự sát không thể chỉ được gói gọn trong nhãn “một căn bệnh” bởi nó chưa đủ, biết đâu nó có thể là một lời kêu gọi cần giúp đỡ từ tận đáy lòng ở nội tâm, nơi mà ý chí sống từng kiên cường nâng đỡ con người, nhưng cuối cùng lại bị bẻ gãy bởi sức nặng của khổ đau và tuyệt vọng dưới vỏ bọc tiêu chuẩn của xã hội ngày nay.
“Thế giới như là ý chí và biểu tượng” của Schopenhauer
Trước khi đi vào nội dung chính, ta cần quay lại nền tảng của triết học Arthur Schopenhauer qua hai khái niệm then chốt: Biểu tượng (Vorstellung) và Ý chí (Wille).
Dành cho những ai đã từng tìm hiểu quan niệm triết học của Schopenhauer thì cũng biết rằng tư tưởng của ông có kết thừa từ triết học Kant với khái niệm “vật tự thân” (das Ding an sich) và triết học Plato với khái niệm Ý niệm. Vì có phần ngưỡng mộ học thuyết của Plato và Kant, Schopenhauer đã mượn nền tảng của hai vị triết gia này để làm cái tiền đề vững chắc cho quan niệm triết học của ông.
Dựa theo tác phẩm để đời của Schopenhauer “Thế giới như là ý chí và biểu tượng” (theo bản dịch của NXB Hồng Đức, 2022), Schopenhauer khẳng định rằng: tất cả những gì ta gọi là “thế giới” thực chất chỉ là hai cách nhìn về cùng một thực tại:
- Biểu tượng: thế giới như nó xuất hiện trước nhận thức của chúng ta
- Ý chí: bản chất sâu xa, ẩn khuất bên trong mọi tồn tại.
Ta sẽ đi phân tích từng hai cách nhìn trên theo một cách tóm gọn và đơn giản, để hiểu được vì sao nhận định của Schopenhauer cho rằng con người luôn khổ đau trước ý chí sống.
Biểu tượng – thế giới như ta thấy
Ở đây, ta sẽ không đi phân tích sâu về bản chất của biểu tượng, vốn mang nặng tính trừu tượng và khó tiếp cận, ta có thể bắt đầu từ một cách giải thích như thế này.
Theo Schopenhauer diễn giải về biểu tượng:
Chúng ta không bao giờ thấy thế giới như nó vốn có, mà chỉ thấy thế giới như nó hiện ra trong tâm trí của chúng ta.
Có thể hiểu, tất cả những thứ mà chúng ta đã tương tác ở bên ngoài thông qua việc: chạm, nếm, ngửi, nhìn… thì theo Schopenhauer nói, những thứ đó đều không thực sự giống như chúng ta nghĩ, mà chẳng qua, đó chỉ là hình ảnh chủ quan đã được tạo ra từ bên trong tâm trí của chúng ta, thông qua những giác quan, hệ thần kinh và các phạm trù tiên nghiệm như không gian, thời gian và nhân quả.
Nói cách khác, “thế giới” mà chúng ta đang sinh sống và làm việc không thực sự tồn tại như một thực thể tách biệt bên ngoài, mà Schopenhauer gọi cái chúng ta thấy là một “biểu tượng”, một sản phẩm được tạo ra từ giữa chủ thể tri giác (là chúng ta) với đối tượng được tri giác (những thứ chúng ta thấy).
Hãy hình dung thế này, với một người bị mù bẩm sinh, thì các màu sắc, như “màu đỏ” chẳng hạn, sẽ không hề tồn tại trong trải nghiệm sống của người mù, tức là người đó không biết “màu đỏ” trông như thế nào.
Điều này chứng tỏ một điều rằng, cái mà chúng ta gọi là “thực tại” thực ra nó không đơn thuần là cái “đang ở đó”, chẳng qua nó xuất hiện là bởi vì con người chúng ta có khả năng tiếp nhận với môi trường xung quanh.
Vì vậy, từ cái nhìn của Schopenhauer khi nói “thế giới là biểu tượng”, ông muốn nhấn mạnh rằng: thực tại vốn không phải là một bức tranh cố định và tuyệt đối, bởi nó luôn được lọc qua lăng kính nhận thức của con người.
Ý chí – bản chất sâu xa của mọi hiện tượng
Vậy thì, nếu biểu tượng là cách thế giới bộc lộ ra trong con mắt chúng ta, thì câu hỏi tiếp theo mà Schopenhauer đã đặt ra:
Phía sau những hình ảnh ấy là gì? Bản chất thật sự của thế giới nằm ở đâu?
Thì câu trả lời của ông, đó chính là: Ý chí.
Tuy nhiên, cần phải nói một điều, rằng loại ý chí mà Schopenhauer hướng đến không phải là loại chúng ta thường hay biết, tức là loại có ý thức hay hành động dựa trên sự lý trí. Trong tác phẩm, Schopenhauer đã đề cập rằng, ý chí là một dạng bản năng nguyên thủy, mù quáng và phi lý; nó không có lý do tồn tại, không mục đích, mà chỉ đơn giản là khao khát được sống, được tiếp diễn và được sinh sôi.
Và Schopenhauer nhận thấy ý chí hiện diện ở mọi cấp độ của tự nhiên, ví dụ:
- Cái cây vươn mình về phía ánh sáng.
- Con thú rình mồi để tồn tại.
- Con người dấn thân vào tình yêu, sự nghiệp, địa vị và quyền lực.
Tất cả những chuyển động ấy, từ bản năng sinh tồn cho đến khát vọng tinh thần, đều là biểu hiện của ý chí.
Về cách vận hành thế giới của ý chí, mà theo Schopenhauer nhận định, nó hoạt động như một cỗ máy không có điểm dừng. Tức con người sẽ luôn khao khát và không biết khi nào kết thúc. Chính vì không có sự kết thúc, thì Schopenhauer mới nói rằng, đó là gốc rễ của mọi đau khổ, bởi một khi khao khát thì sẽ không có cái khái niệm cho sự thỏa mãn trọn vẹn, con người sẽ mãi bị cuốn vào vòng xoáy thiếu hụt và bất an trước sự kiểm soát của ý chí.
Ý chí – cội nguồn của khổ đau
Như đã nói, nếu ý chí luôn hối thúc ta “phải tiếp tục, phải đạt được, phải hơn nữa”, thì hệ quả tất yếu dẫn đến: khổ đau là điều không thể tránh khỏi.
Cơ chế ấy bộc lộ rõ trong đời sống thường nhật:
-
Khi ta muốn một điều mà chưa đạt được → khổ vì thiếu thốn.
-
Khi đạt được → khổ vì lo sợ mất đi.
-
Khi đã có đủ → khổ vì trống rỗng và chán chường.
Cứ thế, con người mắc kẹt trong vòng xoáy vô tận:

Khổ đau, vì vậy, không đơn thuần đến từ hoàn cảnh bên ngoài, mà từ chính cấu trúc bên trong của ý chí sống – thứ luôn nuôi dưỡng khát vọng nhưng không bao giờ biết đủ.
Như Schopenhauer từng nói:
“Đời người dao động giữa nỗi đau của thiếu thốn và sự buồn chán của thỏa mãn.”
Tự sát trong ánh sáng triết học Schopenhauer
Quay về với câu chuyện tự sát, thì như đã nói ở trong mọi thời đại, mỗi khi nhắc đến hai chữ tự sát luôn là một chủ đề vừa bị bao phủ bởi định kiến, nhưng lại vừa gợi ra những câu hỏi sâu xa về ý nghĩa sự sống. Con người chúng ta thường nhìn nhận việc tự sát là một hành động của sự yếu đuối và sai trái; nhưng với niềm tin của triết học, thì đó là cả một vấn đề cần được soi rọi từ bản chất của sự tồn tại.
Con người chọn cái chết, có thể nói nó không chỉ là một sự kiện làm nhanh cái tiến trình của tự nhiên, là khoảnh khắc họ không muốn tiếp tục tồn tại, nhưng ẩn sâu bản chất cho việc ấy, ta còn nhận ra đó là điểm giao thoa giữa khổ đau – ý chí – tự do.
Điều này được khẳng định từ góc nhìn Schopenhauer. Như đã nói, trong số những nhà tư tưởng dám chạm vào vùng tối ấy, thì Schopenhauer là triết gia nổi bật nhất khi ông không chỉ đơn giản đặt câu hỏi “vì sao con người muốn chết?”, mà ông còn dám chạm vào cái cội nguồn của nhân loại, đó là sự khổ đâu tột cùng, “nếu khổ đau là hệ quả tất yếu của ý chí, liệu tự sát có thể là một cách giải thoát thực sự, hay đó chỉ là một vòng luẩn quẩn khác của chính ý chí ấy?”
Trong quan niệm Schopenhauer, cái chết chưa hẳn làm một sự kiện như các nhà sinh học đã từng lý giải, việc con người chủ động tìm đến cái chết (tự sát) nó mang một ý nghĩa triết học hơn nhiều.
Như ta đề cập ở phần trên, mọi biểu hiện của sự sống đều bắt nguồn từ ý chí. Ý chí hiện diện trong mọi sinh vật như là một bản năng tồn tại, nó cần được sinh sôi, chiếm lĩnh, và tiếp tục vận động không ngừng nghỉ. Nó không vì mục đích cao cả nào, mà chỉ đơn thuần “muốn sống vì muốn sống”.
Như Schopenhauer từng nói:
“Tất cả đời sống của con người là một cuộc đuổi bắt vô vọng giữa ham muốn và thất vọng; mọi thỏa mãn chỉ kéo dài một chốc, rồi lại bị thay thế bởi một ham muốn khác.”
Vì thế, sự đau khổ mới hình thành từ chỗ đó, bởi ý sống không bao giờ làm đủ thỏa mãn cho sự ham muốn của con người. Con người một khi không đủ cái thỏa mãn bên trong, thì họ sẽ tiếp tục khao khát, chiếm đoạt rồi lại thất vọng cho đến cuối đời.
Vậy thì, Schopenhauer đã xem tự sát là gì?
Về tự sát, Schopenhauer cho rằng, đó là sự chịu đựng của con người với đau khổ đã vượt giới hạn, và con người dần bắt đầu quay đầu với ý chí. Tức là, thay vì con người hướng ra ngoài để tiếp tục tranh đoạt, và khẳng định sự tồn tại, thì họ lại tìm cách phá vỡ cái xiềng xích ấy, là cái mà ý chí đang vận hành.
Trong Tái luận về thế giới như là ý chí, Schopenhauer từng viết:
“Anh ta muốn sống, muốn tồn tại và khẳng định thân thể của mình; nhưng các hoàn cảnh không cho phép điều đó diễn ra, và kết quả đối với anh ta là sự đau khổ cùng cực.”
(Tái luận về thế giới như là ý chí, §69, tr. 651)
Hay nói cách khác, những người chọn tự sát thực chất họ không yêu cái chết; chẳng qua là vì họ không thể chịu đựng nỗi với thế giới tàn khốc. Trong khoảnh khắc ấy, con người nhận ra sự sống không còn là món quà, mà nó giống hơn là gánh nặng đang được kiểm soát bởi “bản năng sinh tồn”. Cái mà ta thường gọi là “bản năng sinh tồn”, mà theo Schopenhauer, đó chính là một biểu hiện của ý chí. Khi sức mạnh này bị bẻ gãy, tự sát xuất hiện như hành vi tuyệt vọng của chính ý chí.
Vậy tự sát có phải là sự giải thoát khỏi ý chí sống không?
Schopenhauer đã trả lời dứt khoát: Không.
Bởi ông đã phân biệt rõ: tự sát không phải là sự giải thoát rốt ráo khỏi khổ đau. Nó vẫn nằm trong phạm vi của ý chí, vì bắt nguồn từ một ham muốn, đó là một ham muốn chấm dứt khổ đau.
Nói cách khác, người chọn tự sát trước khi kết thúc cuộc đời mình, thì ngay lúc đó bên trong họ vẫn còn “muốn” một điều gì đó. Đó là muốn chấm dứt nỗi đau, muốn thoát khỏi dằn vặt, muốn biến mất như một cách chống lại sự thống trị của khổ đau. Nhưng chính cái “muốn” ấy lại chứng tỏ rằng ý chí vẫn đang hiện diện, chẳng qua nó đã đổi hình thức: từ xung năng muốn sống, thành xung năng muốn kết thúc sự sống.
Như Schopenhauer từng viết:
“Người tự sát muốn cuộc sống, chỉ có điều anh ta không hài lòng với những điều kiện của mình mà thôi. Do đó, anh ta không hề từ bỏ ý-chí-sống, mà chỉ từ bỏ sinh mệnh khi hủy diệt hiện tượng cá biệt ấy.”
(Tái luận về thế giới như là ý chí, §69, tr. 651)
Điều này có nghĩa: tự sát chỉ đơn thuần chấm dứt một cá thể cụ thể; còn ý chí với tư cách là bản thể sâu xa của thế giới, thì nó vẫn tiếp tục tồn tại, sinh ra và vận hành qua vô số sự sống khác.
Dù Schopenhauer cũng thừa nhận tự sát có thể được xem như hành vi quyết liệt nhất của con người trước nỗi khổ, nhưng ông vẫn giữ quan niệm rằng đó không phải là sự giải thoát chân thực khỏi ý chí.
Như Schopenhauer từng viết:
“Tự sát – sự hủy diệt hiện tượng cá biệt một cách tùy tiện – hoàn toàn khác biệt so với sự phủ định của ý-chí-sống.”
(Tái luận về thế giới như là ý chí, §69, tr. 651)
Bởi vậy, cái chết thể xác trong con mắt Schopenhauer, nó không đồng nghĩa với cái chết của ý chí. Ý chí vẫn tồn tại như bản thể nguyên thủy, tiếp tục vận hành qua vô số sinh thể khác. Tự sát, về bản chất, chỉ giống như việc tắt ngọn đèn trong một căn phòng đang cháy: bóng tối lập tức phủ xuống, nhưng ngọn lửa vẫn bùng lên ở nơi khác.
Vậy thế nào mới gọi đúng là giải thoát thật sự?
Theo Schopenhauer, chỉ đạt được khi ý chí bị phủ định hoàn toàn, mà cái phủ định ở đây không phải bằng một hành vi cực đoan, mà bằng sự thấu suốt bản chất khổ đau của đời sống và từ bỏ mọi ham muốn. Đây là lý tưởng gần gũi với tinh thần khổ hạnh trong Phật giáo.
Như Schopenhauer từng viết:
“Sự phủ định và từ bỏ trong mọi ý dục, tức sự giải thoát khỏi thế giới mà toàn bộ sự tồn tại của nó tự biểu hiện cho chúng ta như đau khổ, sự giải thoát này bây giờ xuất hiện với chúng ta như một sự quá độ vào cái ‘Không’ trống rỗng.”
(Tái luận về thế giới như là ý chí, §71, tr. 665)
Vì thế, trong toàn bộ hệ thống của Schopenhauer, tự sát không phải là một sự siêu vượt, mà chỉ là một vòng xoáy khác của ý chí đang giãy giụa trong khổ đau. Nó không chấm dứt đời sống, mà chỉ phơi bày thêm một lần nữa: đời sống này bị ý chí chi phối sâu đến mức nào.
Trường hợp “người đàn ông nhảy lầu”
Dù chưa có thông tin xác thực và đầy đủ về nguyên nhân dẫn đến cái chết của người đàn ông nhảy lầu tại AEON, nhưng hình ảnh ấy vẫn mang giá trị biểu tượng sâu sắc cho tinh thần thời đại: một thời đại của áp lực vô hình, của cô đơn trong đám đông, của những con người tưởng như vận động không ngừng, nhưng bên trong lại chất chứa những vết nứt lặng câm, không ai nhìn thấy.
Chúng ta không biết tên anh, không rõ hoàn cảnh, và cũng không thể chắc chắn điều gì đã đưa anh đến bước cuối cùng ấy. Nhưng nếu nhìn qua lăng kính triết học Schopenhauer, có thể thấy: anh không nhất thiết tự hủy mình vì yếu đuối hay hận thù. Có thể, ý chí sống trong anh đã trở thành một gánh nặng quá lớn – vừa dai dẳng vừa kiệt quệ.
Như Schopenhauer từng viết:
“Không chỉ mọi đau khổ thực tế và hiển nhiên mà cả mọi ham muốn với sự thúc bách của chúng làm xáo trộn bình an của ta đều phụ thuộc vào nó, thậm chí sự nhàm chán tẻ nhạt cũng khiến cho sự tồn tại trở thành gánh nặng của ta… Cho dù cuối cùng, sau khi đã đạt được và khắc phục được tất cả mọi thứ, thì ta lại không gặt hái được gì ngoài sự giải thoát khỏi đau khổ và ham muốn.”
(Tái luận về thế giới như là ý chí, §58, tr. 536)
Có thể, người đàn ông ấy đã sống quá lâu trong trạng thái mà ý chí không còn mang lại hy vọng, chỉ kéo dài sự hành hạ. Và vào khoảnh khắc quyết định, thay vì tiếp tục chống đẩy với một lực kéo bất tận từ bên trong, anh đã chọn cách buông bỏ thể xác của chính mình.
Khoảnh khắc ấy – khi con người quay ngược lại và chống chọi lại với ý chí – không hẳn là một “tội lỗi” như xã hội thường lên án. Nó giống một tiếng thở dài sâu thẳm, một lời thì thầm tuyệt vọng từ chiều sâu hiện sinh của một con người không còn đủ sức chịu đựng.
Chúng ta không cần phán xét. Mà ở đây, chúng ta cần hiểu, cần lắng nghe.
Bởi như Schopenhauer từng viết trong Những tiểu luận về tồn tại (2023):
“Sự tồn tại của con người là nỗi thống khổ vô tận, và mọi nỗ lực để thoát khỏi nó chỉ là sự đổi dạng của chính khổ đau đó.”
Trong thời đại nơi sức khỏe tâm lý bị che lấp bởi những lớp mặt nạ thành công và tiêu dùng, cái chết bất ngờ của một người xa lạ cũng là lời nhắc nhở về những cuộc chiến vô hình mà rất nhiều người đang âm thầm trải qua.
Schopenhauer không lãng mạn hóa cái chết. Ông không coi tự sát là anh hùng, càng không cổ vũ. Nhưng ông là một trong số ít triết gia dám nhìn thẳng vào nó như một phần không thể tránh khỏi của đời sống.
Và ở đó, trong cái nhìn u ám ấy, ông gợi ra một con đường khác: không phải diệt thân, mà là tĩnh lặng bên trong, buông xả ý chí ngay khi vẫn còn sống. Một “cái chết nội tâm” – và biết đâu, cũng là một sự tái sinh của bình an.
Giải thoát khỏi khổ đau: Schopenhauer đề xuất điều gì?
Nếu đời sống là sân khấu của một “ý chí sống” mù quáng và khổ đau của con người, thì câu hỏi tất yếu là: Làm sao để thoát khỏi vòng luẩn quẩn ấy?
Schopenhauer không trao cho ta một liều thuốc an ủi hay một lối ra dễ dàng. Nhưng ông mở ra một khả thể – một con đường thoát khỏi khổ đau hiện sinh, không bằng hủy diệt sự sống, mà bằng một cuộc chuyển hóa sâu thẳm từ bên trong.
Giải thoát, theo ông, không đến từ việc phục tùng và nuôi dưỡng ý chí sống, mà từ việc đối diện với bản chất vô minh, vô tận của nó – rồi kiên quyết buông bỏ. Đó không phải là cái chết của thể xác, mà là “cái chết” của những đòi hỏi, của bản ngã muốn chiếm hữu và định đoạt.
Phủ định ý chí, thay vì phục tùng nó
Theo Schopenhauer, giải thoát đích thực không đến từ việc chiều theo ý chí, mà phải bắt đầu từ việc nhìn thẳng vào bản chất mù lòa và bất tận của nó – rồi dứt khoát từ chối chạy theo.
Về giải thoát, trong quan niệm của Schopenhauer, không nằm ở việc hủy diệt thể xác, mà ở một sự buông bỏ tận gốc bên trong: ngưng khao khát. Khi nhận ra rằng mọi ước vọng chỉ là dây xích kéo ta đi mãi trong luân hồi khổ đau; khi ta quay lưng lại với ham muốn, chấp nhận cuộc sống như nó vốn là, thay vì không ngừng bắt nó phải khác đi – đó chính là khoảnh khắc ý chí bắt đầu bị phủ định.
Không phải bằng cái chết của thân xác, mà bằng một sự tịnh tâm về tinh thần: Sự tĩnh lặng của một nội tâm không còn tham vọng chiếm hữu.
Như Schopenhauer từng viết:
“Khi được là một người có đời sống với một Ý chí bình lặng, không phải chỉ một vài khoảnh khắc như trong sự tận hưởng cái đẹp, mà mãi mãi – đúng hơn là hoàn toàn – bị dập tắt, ngoại trừ tia lửa le lói cuối cùng duy trì thân thể và [sau cùng vẫn] bị dập tắt với thân thể.”
(Tái luận về thế giới như là ý chí, §68, tr. 640)
Trong tĩnh lặng ấy, con người thôi làm nô lệ cho chính mình. Họ không hề chết, mà bắt đầu sống lại, lần đầu tiên, một cách tự do nhất.
Hai con đường dẫn tới sự phủ định ý chí
Trong quan niệm triết học của Schopenhauer, ý chí không thể bị tiêu diệt bằng bạo lực hay cái chết; nó chỉ có thể lắng dịu – bị phủ định – qua một quá trình nội tâm sâu sắc. Ông chỉ ra hai con đường dẫn đến sự phủ định này: thẩm mỹ và đạo đức – tu dưỡng.
Con đường thứ nhất là thẩm mỹ – qua nghệ thuật, âm nhạc, thiên nhiên, và chiêm nghiệm. Khi ta lắng nghe một bản nhạc chậm rãi gợi buồn, ngồi trước một bức tranh xưa, hay đứng lặng giữa rừng cây trong buổi chiều mưa, mọi khao khát dường như tan biến. Ta không muốn sở hữu, không muốn thay đổi, không muốn điều chỉnh trải nghiệm ấy cho riêng mình – chỉ đơn thuần tiếp nhận, một cách vô vụ lợi và tĩnh tại.
Trong khoảnh khắc ấy, ý chí vốn luôn gào thét đòi hỏi giờ đây trở nên im lặng. Schopenhauer gọi đây là sự siêu thoát thẩm mỹ: tạm thời thoát khỏi bản ngã, nhìn đời sống như một khung cảnh, không còn là chiến trường.
Con đường thứ hai là đạo đức và tu dưỡng, đặc biệt qua lòng từ bi và khổ hạnh. Chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Phật giáo và triết lý Ấn Độ cổ đại, Schopenhauer tin rằng chỉ khi con người học cách tiết chế ham muốn, giảm thiểu dục vọng vật chất, và sống với từ tâm, họ mới thoát khỏi ách nô lệ của ý chí. Không phải bằng tự hủy hoại thân xác, mà bằng cách làm yếu dần lực kéo từ bên trong, ý chí sẽ mất quyền kiểm soát.
Một đời sống khổ hạnh – không vì khinh miệt thế gian, mà vì hiểu rõ rằng càng ít ham muốn, ta càng bớt khổ đau – mở ra con đường dẫn tới trạng thái tĩnh lặng sâu sắc, một dạng giải thoát hiện sinh từ bên trong.
Như Schopenhauer từng viết:
“Một người như vậy, sau nhiều cuộc đấu tranh gian khổ với bản chất của mình, cuối cùng đã hoàn toàn chiến thắng; khi đó, chỉ còn lại thực thể nhận thức thuần túy như tấm gương không bị lu mờ của thế giới. Không gì có thể làm đau khổ hoặc sợ hãi người ấy nữa; không gì có thể kích thích người ấy nữa; vì người ấy đã cắt đứt cả ngàn sợi dây ý dục ràng buộc chúng ta với thế giới – tức những điều khao khát, sợ hãi, đố kị và giận dữ khiến ta đắm chìm trong đau khổ triền miên.”
(Tái luận về thế giới như là ý chí, §68, tr. 640)
Dù qua nghệ thuật hay qua tu dưỡng, điểm gặp gỡ cuối cùng vẫn là sự rút lui của cái tôi khỏi trung tâm vũ trụ. Ta thôi định hình cuộc sống theo ý mình, để học cách lắng nghe, buông bỏ và chấp nhận – như một cách để sống, nhưng không còn bị ý chí chi phối.

Giải thoát không dành cho tất cả, nhưng có thể bắt đầu từ sự hiểu biết
Schopenhauer chưa từng lạc quan về một mai sau đó con người sẽ đạt đến sự giải thoát theo một cách đúng đắn. Mà theo ông, nhân loại sẽ mãi mắc kẹt trong vòng lặp bất tận của khổ đau – bị xô đẩy bởi những khát vọng mà chính họ không nhìn thấy.
Tuy nhiên, ông không hoàn toàn bị tuyệt vọng. Chỉ cần một khoảnh khắc tỉnh thức – khi ta nhận ra mình đang bị dẫn dắt bởi một ham muốn nào đó – thì một vết rạn đã xuất hiện trên lớp vỏ cứng của ý chí. Từ khe nứt ấy, một khoảng lặng, dù mong manh, vẫn có thể khởi sinh.
Đôi khi, chỉ một khoảnh khắc dừng lại như thế đã đủ để người đang đứng bên bờ vực tạm ngưng bước, hít một hơi thở chậm, và trì hoãn cú nhảy định mệnh. Không phải vì họ đã được giải thoát, mà vì họ bắt đầu hiểu: có một sức mạnh nào đó đang chi phối mình – và mình không hoàn toàn là nó.
Schopenhauer không phải triết gia của hy vọng, nhưng ông là người dám đặt tay lên nỗi đau của đời sống mà không quay mặt đi. Ông không hứa hẹn hạnh phúc, nhưng cũng không dập tắt ánh sáng mong manh le lói trong tận cùng tuyệt vọng. Ông không kéo ta ra khỏi bóng tối – nhưng trao cho ta một ngọn đèn tri thức, đủ để nhận ra bóng tối là gì, và mình đang ở đâu trong nó.
Tổng kết
Khi nhìn hiện tượng tự sát qua lăng kính của Schopenhauer, ta không còn chỉ thấy đó là một hành vi cực đoan mang tính tâm lý cá nhân, mà còn là biểu hiện của một cuộc khủng hoảng sâu xa – cuộc khủng hoảng của một linh hồn bị giằng xé bởi ý chí sống mù quáng, luôn khao khát, luôn thiếu thốn, luôn thúc ép ta sống – dù trong khổ đau.
Schopenhauer không cổ vũ cái chết, nhưng ông giúp ta nhìn ra cội nguồn của bi kịch: chính ham muốn, chính ý chí bất tận ấy mới là thứ trói buộc con người trong vòng lặp của khổ đau. Và cũng từ đó, ông gợi ra một con đường khác – không phải cái chết, mà là sự phủ định ý chí, sự buông bỏ ham muốn, như một hình thức giải thoát sâu xa, âm thầm, đầy nhân tính.
Xem thêm: Tọa đàm “chiều kích siêu việt”: Từ đối kháng nội tại đến căn cốt nhân sinh
Vì vậy, trước những hành vi tự sát, ta không nên vội vàng phán xét. Có những nỗi đau vượt khỏi ngôn ngữ, có những tâm hồn không còn chỗ trú ngụ. Điều cần hơn cả, là sự lắng nghe, là cái nhìn cảm thông – không chỉ từ xã hội, mà còn từ chính mỗi chúng ta với nhau.
Đôi khi, sống tiếp không phải là vì ý chí thúc đẩy, mà vì ta đã học được cách đi qua khổ đau, nhẹ nhàng hơn – như cách mà triết học, dù trừu tượng, vẫn có thể giúp con người lặng lẽ tìm lại chính mình trong đêm tối.
Nguồn tham khảo
Schopenhauer, A. (2022). Thế giới như là ý chí và biểu tượng (Thích Nguyên Pháp dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính). Nhà xuất bản Hồng Đức. (Tác phẩm gốc xuất bản năm 1818)
Schopenhauer, A. (2023). Những tiểu luận về tồn tại (Thiên Trang & Hà Thủy Nguyên dịch). Nhà xuất bản Đà Nẵng.
World Health Organization. (2021). Suicide worldwide in 2019: Global health estimates. https://www.who.int/publications/i/item/9789240026643