Trầm cảm vẫn là một thách thức sức khỏe toàn cầu việc hiểu về khởi phát cơn trầm cảm qua lý thuyết tập trung điều chỉnh cung cấp góc nhìn để có thể cung cấp một khuôn khổ khái niệm liên quan đến trầm cảm.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) báo cáo rằng trầm cảm là nguyên nhân hàng đầu gây ra khuyết tật trên toàn thế giới, ảnh hưởng đến hơn 280 triệu người và thường đi kèm với các tình trạng sức khỏe khác (WHO, 2021).

Các khung chẩn đoán truyền thống thường xem trầm cảm như một tập hợp các triệu chứng riêng lẻ, nhưng nghiên cứu mới nổi lại chỉ ra rằng trầm cảm là một hệ thống phức tạp, nơi mà sự tương tác giữa các triệu chứng và yếu tố môi trường tạo ra các mô hình dao động theo thời gian (Borsboom, 2017).

Hệ thống động lực học đối với bệnh trầm cảm, tập trung cụ thể vào sự thay đổi trạng thái liên quan đến khởi phát cơn, với quan điểm tự điều chỉnh, vận hành cách phản hồi nhận được trong quá trình theo đuổi mục tiêu đang diễn ra ảnh hưởng đến tình cảm, động lực và hành vi, để hiểu cách một cơn trầm cảm bắt đầu

Hệ thống động và Mô hình mạng lưới của Trầm cảm

Trầm cảm như một hệ thống động, phức tạp

Khác với các mô hình tĩnh xem trầm cảm như một tập hợp triệu chứng riêng biệt, lý thuyết hệ thống động cho rằng trầm cảm hoạt động như một mạng lưới, nơi các triệu chứng tương tác theo các mẫu duy trì hoặc tăng cường trạng thái trầm cảm.

Lý thuyết mạng lưới trong bối cảnh này cho rằng các rối loạn tâm lý không xuất phát từ nguyên nhân đơn lẻ mà từ các cụm triệu chứng tương tác lẫn nhau, tạo ra một trạng thái trầm cảm ổn định (Borsboom & Cramer, 2013).

Cách tiếp cận này cho phép xem xét các cụm triệu chứng như buồn bã, mất hứng thú và mệt mỏi như một phần của một hệ thống tương tác thay vì các thực thể riêng biệt.

Chuyển đổi pha và Điểm tới hạn

Một khái niệm quan trọng trong lý thuyết hệ thống động là “điểm tới hạn” hoặc “chuyển đổi pha”, nơi những thay đổi nhỏ trong một phần của hệ thống có thể dẫn đến sự thay đổi lớn và đột ngột trong toàn bộ trạng thái.

Trong trầm cảm, chuyển đổi pha đại diện cho điểm mà một cá nhân chuyển từ trạng thái không trầm cảm sang giai đoạn trầm cảm, thường được kích hoạt bởi tích lũy căng thẳng hoặc các yếu tố môi trường (Wichers et al., 2014).

Nghiên cứu đã chứng minh rằng các giai đoạn trầm cảm thường bắt đầu với một giai đoạn gia tăng sự bất ổn định, nơi các phản ứng cảm xúc và hành vi trở nên cực đoan hoặc khó đoán hơn trước khi ổn định vào trạng thái trầm cảm.

Hiện tượng này, được gọi là “sự chậm lại quan trọng”, gợi ý rằng các can thiệp sớm có thể nhắm vào những giai đoạn bất ổn này để ngăn chặn các giai đoạn trầm cảm đầy đủ (Van de Leemput et al., 2014).

Lý thuyết mạng lưới về trầm cảm

Borsboom và cộng sự (2013) nhấn mạnh cách các mô hình mạng lưới cung cấp một khung phân tích để hiểu trầm cảm như một hệ thống tự duy trì của các triệu chứng.

Ví dụ, trong phân tích mạng lưới, các triệu chứng như mất ngủ hoặc mệt mỏi không chỉ là hậu quả của trầm cảm mà còn là các thành phần chủ động thúc đẩy và duy trì các triệu chứng khác.

Sự xuất hiện của một triệu chứng cốt lõi như mất ngủ có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng khác như thiếu năng lượng và dễ cáu gắt, tạo ra một vòng lặp phản hồi duy trì và tăng cường các giai đoạn trầm cảm.

Hiểu được sự tương tác giữa các triệu chứng này cung cấp thông tin chi tiết về các điểm can thiệp tiềm năng mà khi gián đoạn một triệu chứng có thể giảm bớt gánh nặng tổng thể của trầm cảm (Borsboom & Cramer, 2013).

Lý thuyết tập trung điều chỉnh và Trầm cảm

Lý thuyết tập trung điều chỉnh và Sự thất bại trong việc đạt được mục tiêu

Lý thuyết tập trung điều chỉnh (RFT) giải thích cách cá nhân quản lý suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của mình để đạt được các mục tiêu cá nhân.

Khi cơ chế tự điều chỉnh thất bại, cá nhân có thể trải qua sự rối loạn cảm xúc, giảm động lực và cuối cùng là các triệu chứng trầm cảm (Baumeister & Heatherton, 1996).

Lý thuyết Tập Trung Điều chỉnh của Higgins (RFT) đề xuất hai hệ thống tự điều chỉnh khác biệt: hệ thống khuyến khích, nhằm đạt được các mục tiêu tích cực, và hệ thống phòng ngừa, nhằm tránh các hậu quả tiêu cực (Higgins, 1997).

Lý thuyết tập trung điều chỉnh cho rằng Hệ thống khuyến khích tập trung vào việc đạt được các mục tiêu tích cực, nghĩa là đạt được điều mà họ mong muốn và tránh bỏ lỡ các cơ hội.

Ngược lại, hệ thống phòng ngừa tập trung vào việc tránh những hậu quả tiêu cực, nhằm giảm thiểu nguy cơ thất bại hoặc mất mát.

Những người có xu hướng khuyến khích mạnh thường thúc đẩy bản thân bằng những lợi ích tiềm năng và cảm giác hài lòng khi đạt được mục tiêu, trong khi những người thiên về hệ thống phòng ngừa lại tập trung vào việc né tránh rủi ro và tổn thương.

Strauman và cộng sự (2006) nhận thấy rằng các thất bại trong hệ thống khuyến khích, đặc biệt là khi cá nhân không thể đạt được các mục tiêu cá nhân của mình, có mối liên hệ chặt chẽ với các triệu chứng trầm cảm.

Khi người ta gặp khó khăn trong việc duy trì động lực và trải qua sự suy giảm trong cảm giác hài lòng, họ sẽ dễ dàng rơi vào trạng thái thất vọng kéo dài.

Việc này đồng nghĩa với sự giảm đi đáng kể khả năng phục hồi trước những thất bại và khó khăn, và dần dần tích tụ thành các triệu chứng trầm cảm sâu sắc.

Thất bại mục tiêu mãn tính và Trầm cảm

Sự thất bại mãn tính trong việc đạt được các mục tiêu khuyến khích có thể dẫn đến cảm giác vô vọng, một triệu chứng đặc trưng của trầm cảm.

Nghiên cứu của Strauman et al. (2017) cho thấy những người gặp phải thất bại liên tục trong các mục tiêu cá nhân thể hiện sự kích hoạt hệ thống khuyến khích giảm đi, góp phần làm giảm động lực và tâm trạng.

Chu kỳ phản hồi thất bại kéo dài này cuối cùng khiến cá nhân chuyển sang trạng thái giảm hoạt động, phù hợp với khái niệm chuyển đổi pha trong lý thuyết hệ thống động về sự khởi phát của trầm cảm (Strauman, 2017).

Dickson và cộng sự (2011) cũng phát hiện rằng những người có xu hướng khuyến khích mạnh mẽ và tập trung vào các kết quả tích cực sẽ có nguy cơ bị trầm cảm cao hơn khi đối mặt với thất bại mục tiêu lặp đi lặp lại.

Họ có xu hướng đặt kỳ vọng cao vào bản thân và khi không thể đạt được kỳ vọng đó, họ sẽ tự đánh giá thấp bản thân và rơi vào trạng thái trầm cảm.

Những người này dễ dàng bị cuốn vào vòng lặp tiêu cực của sự thất bại, đặc biệt khi các thất bại liên tiếp ảnh hưởng đến sự tự tin và cảm giác tự trị của họ.

Vòng Lặp Phản Hồi Tiêu Cực và Hậu Quả Trầm Cảm

Trầm cảm có thể được hiểu như một vòng lặp phản hồi tiêu cực, trong đó các thất bại trong lý thuyết tập trung điều chỉnh liên tục củng cố và làm trầm trọng thêm.

Ví dụ, khi một người không đạt được một mục tiêu quan trọng, điều này có thể dẫn đến những đánh giá bản thân tiêu cực, gây ra sự giảm động lực, và cuối cùng là duy trì các hành vi tránh né (Heller et al., 2009).

Quá trình tự đánh giá tiêu cực và giảm động lực này không chỉ đơn thuần là phản ứng cảm xúc mà còn có tác động vật lý, khi sự thiếu năng lượng và động lực làm giảm khả năng cá nhân để đối phó với các thách thức mới.

Trong bối cảnh này, sự thất bại trong hệ thống khuyến khích có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động quá mức của hệ thống phòng ngừa.

Lý thuyết tập trung điều chỉnh (PFT) giải thích rằng khi không thể đạt được mục tiêu, hệ thống phòng ngừa sẽ được kích hoạt quá mức, khiến cá nhân tập trung nhiều hơn vào các mối đe dọa và rủi ro, thay vì tìm kiếm các cơ hội mới.

Higgins (1997) đã chứng minh rằng điều này có thể dẫn đến trạng thái trầm cảm, khi cá nhân bị kìm hãm trong các suy nghĩ tiêu cực và không thể thoát ra khỏi trạng thái bất ổn của mình.

Hệ quả là, sự mất cân bằng giữa hai hệ thống khuyến khích và phòng ngừa dẫn đến một chuỗi các triệu chứng trầm cảm không thể kiểm soát.

Cơ chế của sự khởi phát giai đoạn trầm cảm trong khuôn khổ hệ thống động

Sự chậm lại quan trọng như một cơ chế dự đoán

Trong các hệ thống động, sự chậm lại quan trọng đề cập đến khả năng giảm dần của hệ thống trong việc hồi phục sau các biến động khi nó tiến gần đến điểm tới hạn.

Nghiên cứu cho thấy các giai đoạn trầm cảm thường tuân theo mô hình này, khi các cá nhân thể hiện sự suy giảm dần khả năng phục hồi trước căng thẳng, cuối cùng đạt đến điểm không thể quay lại vào một giai đoạn trầm cảm (Wichers et al., 2014).

Việc theo dõi sự chậm lại quan trọng thông qua các đánh giá hành vi và tâm trạng có thể cung cấp các chỉ số sớm về nguy cơ trầm cảm, cho phép các can thiệp dự phòng (Van de Leemput et al., 2014).

Phản hồi thất bại mãn tính và sự suy giảm hệ thống khuyến khích

Phản hồi thất bại mãn tính dẫn đến sự suy giảm hệ thống khuyến khích, nơi cá nhân mất động lực để theo đuổi các mục tiêu tích cực, một đặc điểm chính trong trầm cảm (Strauman, 2017).

Goetz et al. (2014) đã chứng minh hiệu ứng này trong một nghiên cứu thực nghiệm, trong đó những người có xu hướng khuyến khích cao và có khuynh hướng di truyền (ví dụ: kiểu gen COMT Val/Val) cho thấy động lực giảm và các dấu hiệu trầm cảm tăng lên sau khi thất bại mục tiêu kéo dài.

Sự suy giảm này phù hợp với chuyển đổi pha quan sát được trong sự khởi phát trầm cảm, nơi mà thất bại tích lũy gây ra sự thay đổi hệ thống dẫn đến trạng thái trầm cảm.

Hệ thống khuyến khích và phòng ngừa trong trầm cảm

Nghiên cứu lý thuyết tập trung điều chỉnh cho thấy rằng trầm cảm thường được đánh dấu bằng sự giảm tập trung vào khuyến khích và tăng cường tập trung vào phòng ngừa.

Khi các mục tiêu khuyến khích không được đáp ứng mãn tính, cá nhân sẽ trải qua trạng thái trầm cảm, điều này tương phản với lo lắng liên quan đến các mục tiêu phòng ngừa không đạt được (Higgins, 1997).

Goetz et al. (2014) và Strauman (2002) đã tìm thấy rằng những người không đạt được các mục tiêu khuyến khích liên tục có xu hướng biểu hiện các triệu chứng trầm cảm, làm nổi bật mối liên hệ giữa các thất bại của hệ thống khuyến khích và rối loạn tâm trạng.

Hướng đi tương lai: Thử nghiệm và can thiệp

Thử nghiệm sự chậm lại quan trọng

Các mô hình thực nghiệm có thể quan sát sự chậm lại quan trọng bằng cách thao túng phản hồi trong các nhiệm vụ hướng mục tiêu.

Ví dụ, Strauman et al. (2017) gợi ý một sự điều chỉnh của nghiên cứu Goetz et al. (2014), nơi phản hồi thành công dần chuyển sang phản hồi thất bại.

Quan sát cách thức phản ứng của các đối tượng trước sự thay đổi phản hồi này có thể cung cấp thông tin về các chỉ số sớm của chuyển đổi trạng thái trầm cảm.

Ứng dụng vào các can thiệp

Các liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) tập trung vào hệ thống khuyến khích có thể ngăn chặn các giai đoạn trầm cảm bằng cách giúp các cá nhân nhìn nhận lại các trải nghiệm thất bại và củng cố hành vi hướng mục tiêu.

Các can thiệp này có thể giảm sự dễ bị tổn thương với sự chậm lại quan trọng và duy trì tự điều chỉnh thích ứng (Beck, 2008).

Các chương trình phòng ngừa cũng có thể giúp những cá nhân có nguy cơ phát triển các chiến lược đối phó với căng thẳng và thất bại, từ đó ổn định tự điều chỉnh trước khi xảy ra giai đoạn chuyển pha trầm cảm (Strauman et al., 2017).

Kết luận

Áp dụng khuôn khổ hệ thống động với trọng tâm vào tự điều chỉnh mang lại một hướng tiếp cận đầy hứa hẹn để hiểu về sự khởi phát và tiến triển của trầm cảm.

Bằng cách xem trầm cảm như một mạng lưới động của các triệu chứng tự duy trì, các nhà nghiên cứu có thể xác định các dự đoán sớm của giai đoạn trầm cảm, từ đó can thiệp trước khi các giai đoạn này hoàn toàn xuất hiện.

Quan điểm hệ thống này phù hợp với các mẫu phi tuyến tính quan sát thấy trong rối loạn tâm trạng và cung cấp cơ sở cho việc phát triển các can thiệp sức khỏe tâm thần phòng ngừa đặc hiệu.

Nguồn tham khảo

Baumeister, R. F., & Heatherton, T. F. (1996). Self-regulation failure: An overview. Psychological Inquiry, 7(1), 1-15.

Beck, A. T. (2008). Cognitive therapy of depression. Guilford Press.

Borsboom, D., & Cramer, A. O. (2013). Network analysis: An integrative approach to the structure of psychopathology. Annual Review of Clinical Psychology, 9, 91-121.

Dickson, J. M., & MacLeod, A. K. (2011). The relationship between goal setting and mood disorders. Clinical Psychology Review, 31(8), 1157-1165.

Goetz, T., Cronin, S. R., Van Egeren, L. F., & Strauman, T. J. (2014). Individual differences in regulatory focus predict response bias in a probabilistic reward task. Personality and Individual Differences, 60, 21-26.

Strauman, T. J. (2002). Self-regulation and depression. Annual Review of Clinical Psychology, 1, 355-387.

Van de Leemput, I. A., Wichers, M., Cramer, A. O., et al. (2014). Critical slowing down as early warning for the onset and termination of depression. Proceedings of the National Academy of Sciences, 111(1), 87-92.

Wichers, M. (2014). The dynamic nature of depression: A new micro-level perspective of mental disorder that meets current challenges. Psychological Medicine, 44(7), 1349-1360.

Strauman, T. J. (2021). Modeling the onset of a depressive episode: A self-regulation perspective. Current opinion in psychology41, 100-106.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *