Lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) là một lý thuyết nhận thức của Ajen (1985) đề xuất rằng quyết định của một cá nhân tham gia vào một hành vi cụ thể, chẳng hạn như đánh bạc hoặc ngừng đánh bạc, có thể được dự đoán bởi ý định tham gia vào hành vi đó của họ.

Lý thuyết hành vi có kế hoạch

“Ý định được cho là nắm bắt các yếu tố thúc đẩy ảnh hưởng đến hành vi; chúng là dấu hiệu cho thấy mọi người sẵn sàng cố gắng đến mức nào, họ dự định sẽ nỗ lực đến mức nào để thực hiện hành vi.

Theo nguyên tắc chung, ý định tham gia vào một hành vi càng mạnh mẽ thì khả năng thực hiện hành vi đó càng cao” (Ajzen, 1991, tr. 181).

Lý thuyết về Khung khái niệm lý thuyết hành vi có kế hoạch

Theo lý thuyết, hành vi xã hội của con người được hướng dẫn bởi ba loại cân nhắc:

  • niềm tin về kết quả tích cực và tiêu cực có thể xảy ra của hành vi, được gọi là niềm tin về hành vi;
  • niềm tin về kỳ vọng chuẩn mực của người khác, được gọi là niềm tin chuẩn mực;
  • và niềm tin về sự hiện diện của các yếu tố có thể tạo điều kiện hoặc cản trở việc thực hiện hành vi, được gọi là niềm tin kiểm soát.

Ví dụ, mọi người có thể tin rằng hành vi tập thể dục, trong số những thứ khác, cải thiện thể lực và mệt mỏi (niềm tin về hành vi), rằng gia đình và bạn bè của họ nghĩ rằng họ nên tập thể dục (niềm tin chuẩn mực) và rằng hạn chế về thời gian khiến việc tập thể dục trở nên khó khăn (niềm tin kiểm soát).

Xét về tổng thể, tập hợp toàn bộ các niềm tin về hành vi tạo ra thái độ thuận lợi hoặc không thuận lợi đối với hành vi; tập hợp toàn bộ các niềm tin chuẩn mực dẫn đến áp lực xã hội được nhận thức để thực hiện hoặc không thực hiện hành vi, hoặc chuẩn mực chủ quan; và, trong tổng thể của chúng, niềm tin kiểm soát tạo ra cảm giác tự hiệu quả hoặc nhận thức kiểm soát đối với hành vi.

Niềm tin về hành vi

Đây là thái độ cá nhân của chúng ta đối với một hành vi cụ thể. Đó là tổng hợp tất cả kiến ​​thức, thái độ và định kiến ​​của chúng ta…. tích cực và tiêu cực, mà chúng ta nghĩ đến khi xem xét hành vi đó.

Ví dụ, thái độ của mỗi người đối với việc hút thuốc có thể coi thuốc lá giúp thư giãn và khiến tôi cảm thấy dễ chịu, nhưng nó khiến tôi ho vào buổi sáng, tốn nhiều tiền và có mùi khó chịu.

Niềm tin chuẩn mực

Điều này xem xét cách chúng ta xem xét ý kiến ​​của người khác về một hành vi cụ thể, ví dụ như hút thuốc. Đây có thể là thái độ của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đối với việc hút thuốc. Không phải là những gì người khác nghĩ mà là nhận thức của chúng ta về thái độ của người khác.

Niềm tin kiểm soát

Đây là mức độ mà chúng ta tin rằng mình có thể kiểm soát hành vi của mình.

Điều này phụ thuộc vào nhận thức của chúng ta về các yếu tố bên trong, chẳng hạn như khả năng và quyết tâm của chính chúng ta, và các yếu tố bên ngoài, chẳng hạn như các nguồn lực và sự hỗ trợ có sẵn cho chúng ta. Lý thuyết cho rằng nhận thức của chúng ta về kiểm soát hành vi có hai tác động:

Nó ảnh hưởng đến ý định hành xử theo một cách nhất định của chúng ta, nghĩa là, chúng ta nghĩ mình kiểm soát được hành vi của mình càng nhiều thì ý định thực hiện hành vi đó càng mạnh mẽ.

Nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi của chúng ta; nếu chúng ta nhận thấy mình có khả năng kiểm soát cao, chúng ta sẽ cố gắng nhiều hơn và lâu hơn để thành công.

Tuy nhiên, quan điểm hiện tại về khả năng kiểm soát hành vi được nhận thức phù hợp nhất với khái niệm về hiệu quả bản thân được nhận thức của Bandura (1977, 1982), khái niệm này liên quan đến việc đánh giá mức độ một người có thể thực hiện tốt các hành động cần thiết để giải quyết các tình huống tiềm ẩn (Bandura, 1982, tr. 122).

Vai trò của niềm tin trong lý thuyết hành vi có kế hoạch

Niềm tin đóng vai trò trung tâm trong lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB), đặc biệt là những niềm tin hành vi nổi bật dễ tiếp cận nhất trong trí nhớ.

Trong các ứng dụng của lý thuyết, những niềm tin nổi bật này được gợi ra theo định dạng trả lời tự do bằng cách yêu cầu một mẫu đại diện của những người trả lời liệt kê những ưu điểm và nhược điểm của việc thực hiện một hành vi quan tâm (niềm tin hành vi), liệt kê những cá nhân hoặc nhóm chấp thuận hoặc không chấp thuận việc thực hiện hành vi (niềm tin chuẩn mực) và liệt kê các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi hoặc ức chế việc thực hiện hành vi (niềm tin kiểm soát).

Các niềm tin hành vi, chuẩn mực và kiểm soát được phát ra thường xuyên nhất được cho là những niềm tin nổi bật trong quần thể và xác định thái độ phổ biến, chuẩn mực chủ quan và nhận thức về kiểm soát hành vi. Những niềm tin nổi bật này tập trung vào hành vi quan tâm cụ thể và chúng đóng vai trò là các cấu trúc giải thích cơ bản trong lý thuyết.

Các yếu tố tổng quát hơn, chẳng hạn như đặc điểm tính cách, giới tính, trình độ học vấn, trí thông minh, động lực hoặc các giá trị rộng được cho là chỉ ảnh hưởng đến hành vi một cách gián tiếp thông qua tác động của chúng đối với những niềm tin nổi bật.

Ví dụ, giả sử rằng phụ nữ uống ít rượu hơn nam giới. lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) sẽ giải thích tác động giới tính này bằng cách dự đoán rằng nam giới có niềm tin về hành vi, chuẩn mực hoặc kiểm soát việc uống rượu thuận lợi hơn phụ nữ.

Lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) cho rằng hành vi xã hội của con người là có lý do hoặc được lên kế hoạch theo nghĩa là mọi người được cho là tính đến hậu quả có thể xảy ra của hành vi, kỳ vọng chuẩn mực của những người tham chiếu quan trọng và các yếu tố có thể cản trở việc thực hiện hành vi.

Mặc dù niềm tin mà mọi người nắm giữ đôi khi có thể không chính xác, vô căn cứ hoặc thiên vị, nhưng thái độ, chuẩn mực chủ quan và nhận thức về khả năng kiểm soát hành vi của họ được cho là tuân theo một cách tự phát và hợp lý từ những niềm tin này, để tạo ra ý định hành vi tương ứng và cuối cùng dẫn đến hành vi phù hợp với giọng điệu chung của các niềm tin.

Điều này không nhất thiết giả định rằng phải cố ý, nỗ lực thu thập thông tin và xây dựng thái độ trước mỗi lần thực hiện hành vi. Sau ít nhất một trải nghiệm tối thiểu với hành vi, thái độ, chuẩn mực chủ quan và khả năng kiểm soát hành vi được nhận thức được cho là có sẵn tự động khi thực hiện hành vi được cân nhắc.

Lý thuyết hành vi có kế hoạch là sự mở rộng của lý thuyết hành động hợp lý (Ajzen & Fishbein, 1980; Fishbein & Ajzen, 1975)

Theo lý thuyết hành vi có kế hoạch, khả năng kiểm soát hành vi được nhận thức, cùng với ý định hành vi, có thể được sử dụng trực tiếp để dự đoán thành tích hành vi.

Ứng dụng sức khỏe

TPB có ứng dụng thực tế; nó đã được sử dụng trong các chiến dịch giáo dục sức khỏe. Các chiến dịch chống ma túy thường cung cấp dữ liệu về tỷ lệ phần trăm những người tham gia vào hành vi nguy cơ như hút thuốc hoặc sử dụng ma túy để thay đổi chuẩn mực chủ quan.

Ví dụ, thanh thiếu niên hút thuốc thường là một phần của nhóm bạn bè hút thuốc. Do đó, họ có thể nghĩ rằng hút thuốc là bình thường. Tuy nhiên, hầu hết thanh thiếu niên không hút thuốc, vì vậy việc tiếp xúc với số liệu thống kê cho thấy mức độ thực sự của việc hút thuốc sẽ thay đổi chuẩn mực chủ quan của họ.

TPB là mô hình được sử dụng nhiều nhất trong tâm lý học sức khỏe. Nó hữu ích trong việc dự đoán ý định liên quan đến hút thuốc và uống rượu, như được Hagger và cộng sự (2011) ủng hộ.

Ông phát hiện ra rằng ba thành phần của mô hình (thái độ cá nhân, chuẩn mực chủ quan và khả năng kiểm soát hành vi được nhận thức) có mối tương quan với ý định hạn chế hoặc ngừng uống rượu của người nghiện rượu.

Ông cũng phát hiện ra rằng những ý định đó được phản ánh trong hành vi của họ và có thể dự đoán số lượng đơn vị tiêu thụ gần đúng sau 1 và 3 tháng. Tuy nhiên, nó không dự đoán được việc uống rượu quá độ.

Penny (1996) phát hiện ra rằng những người hút thuốc ít có khả năng tin rằng họ sẽ bỏ thuốc lá và do đó ít có khả năng thử hơn khi họ đã không bỏ thuốc nhiều lần trước đó. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc kiểm soát hành vi được nhận thức trong việc định hình ý định của chúng ta, như TPB dự đoán.

Tuy nhiên, Webb và cộng sự (2006) đã tiến hành phân tích tổng hợp 47 nghiên cứu và phát hiện ra rằng mặc dù có mối liên hệ giữa ý định và hành vi thực tế nhưng mối liên hệ đó là nhỏ.

Điều này cho thấy có một khoảng cách đáng kể giữa ý định và hành vi.

Đánh giá quan trọng

Có những vấn đề về phương pháp luận liên quan đến nghiên cứu lý thuyết này.

Tất cả các thành phần của mô hình đều được đánh giá bằng bảng câu hỏi hoặc phỏng vấn, do đó câu trả lời bị ảnh hưởng bởi mong muốn của xã hội.

Hơn nữa, những cuộc phỏng vấn hoặc bảng câu hỏi này được thực hiện khi người tham gia không bị ảnh hưởng của ma túy/rượu, nhưng khi họ ở trong những tình huống kích hoạt hành vi nghiện ngập của họ (quán rượu, tiệc tùng…), ý định của họ có thể sớm bị lãng quên và hành vi đó lại tiếp tục.

Điểm mạnh của lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) là nó tính đến ảnh hưởng của những người ngang hàng (chuẩn mực chủ quan), điều này có ý nghĩa quan trọng trong cả giai đoạn bắt đầu và duy trì hành vi (SLT và điều kiện hóa tác động ).

Lý thuyết hành vi có kế hoạch cho rằng mọi hành vi đều có ý thức, có lý trí và được lên kế hoạch; tuy nhiên, nó không xem xét đến vai trò của những cảm xúc như buồn bã, thất vọng… vốn có thể đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến hành vi.

Một lời từ PSYEZ

Lý thuyết Hành vi có kế hoạch (TPB) của Ajzen cung cấp một khung lý thuyết có hệ thống và chặt chẽ để lý giải hành vi con người thông qua ba thành tố chính: thái độ đối với hành vi, chuẩn mực chủ quan và kiểm soát hành vi được nhận thức.

TPB nhấn mạnh vai trò trung tâm của “ý định” như một yếu tố dự báo hành vi, từ đó mở rộng hiểu biết về cách con người đưa ra quyết định trong các lĩnh vực như sức khỏe, giáo dục, hành vi xã hội và nghiện ngập.

Mặc dù TPB được chứng minh là có giá trị thực tiễn và tiên đoán hành vi trong nhiều nghiên cứu, lý thuyết này vẫn tồn tại những hạn chế đáng kể. Một trong những điểm yếu lớn nhất là khoảng cách giữa ý định và hành vi thực tế – một khoảng cách mà TPB chưa giải thích trọn vẹn.

Ngoài ra, lý thuyết chưa tính đến ảnh hưởng của cảm xúc, động lực vô thức, hoặc các yếu tố môi trường ngẫu nhiên vốn có thể tác động mạnh mẽ đến hành vi trong thực tế. Phương pháp đo lường thông qua bảng hỏi cũng dễ bị sai lệch do thiên kiến xã hội hoặc điều kiện không đại diện cho hoàn cảnh thực tế khi hành vi xảy ra.

Tuy nhiên, điểm mạnh nổi bật của TPB là khả năng tích hợp các yếu tố xã hội (chuẩn mực chủ quan), nhận thức bản thân (kiểm soát hành vi được nhận thức) và đánh giá hậu quả (niềm tin hành vi) vào một mô hình lý thuyết nhất quán. Điều này giúp TPB trở thành một công cụ hữu ích trong việc thiết kế các can thiệp thay đổi hành vi, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế công cộng.

Tóm lại, lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) là một lý thuyết mạnh mẽ trong việc dự đoán và hiểu hành vi con người, đặc biệt khi hành vi đó có tính suy nghĩ và cân nhắc. Tuy nhiên, để tăng cường tính ứng dụng, các nghiên cứu tương lai cần tích hợp thêm yếu tố cảm xúc, động lực nội tại và các biến hoàn cảnh nhằm thu hẹp khoảng cách giữa ý định và hành vi thực tế.

Nguồn tham khảo

Ajzen, I. (1985). From intentions to actions: A theory of planned behavior. In J. Kuhi & J. Beckmann (Eds.), Action-control: From cognition to behavior (pp. 11ó39). Heidelberg: Springer.

Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational behavior and human decision processes, 50 (2), 179-211.

Ajzen, 1., & Fishbein, M. (1969). The prediction of behavioral intentions in a choice situation. Journal of Experimental Social Psychology, 5, 400-416.

Ajzen, I., & Fishbein, M. (1970). The prediction of behavior from attitudinal and normative variables. Journal of Experimental Social Psychology, 6, 466-487.

Ajzen, I., & Fishbein, M. (1977). Attitudeóbehavior relations: A theoretical analysis and review of empirical research. Psychological Bulletin, 84, 888-918.

Ajzen, I., & Fishbein, M. (1980). Understanding attitudes and predicting social behavior. Englewood Cliffs, NJ: Prentice Hall.

Fishbein, M., & Ajzen, 1. (1975). Belief, attitude, intention, and behavior: An introduction to theory and research. Reading, MA: Addison – Wesley

Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational behavior and human decision processes, 50(2), 179-211.

Madden, T. J., Ellen, P. S., & Ajzen, I. (1992). A comparison of the theory of planned behavior and the theory of reasoned action. Personality and social psychology Bulletin, 18(1), 3-9.

Miniard, P. W., & Cohen, J. B. (1981). An examination of the Fishbein-Ajzen behavioral-intentions model’s concepts and measures. Journal of experimental social psychology, 17(3), 309-339.

Bài viết liên quan

BẢN TIN TÂM LÝ TRIẾT HỌC

BẢN TIN TÂM LÝ KỸ NĂNG SỐNG SỨC KHOẺ TINH THẦN

BẢN TIN TÂM LÝ LIỆU PHÁP MỐI QUAN HỆ SỨC KHOẺ TINH THẦN

BÀI BÁO NƯỚC NGOÀI BẢN TIN TÂM LÝ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *