Lý thuyết hành động hợp lý là một khuôn khổ tâm lý giải thích cách cá nhân đưa ra quyết định dựa trên niềm tin, thái độ và ảnh hưởng xã hội của họ.

Được Martin Fishbein và Icek Ajzen phát triển vào những năm 1960 và 1970, lý thuyết này phân tích lý lẽ đằng sau các lựa chọn trước khi chúng dẫn đến hành động. Nó cho rằng nếu bạn muốn dự đoán hành vi của ai đó, cách tốt nhất là hiểu ý định của họ, được hình thành bởi thái độ cá nhân và nhận thức về áp lực xã hội.

Nguồn gốc lý thuyết hành động hợp lý

Lý thuyết hành động hợp lý, thường được mở rộng thành Lý thuyết hành vi có kế hoạch , là một lý thuyết nhận thức giúp các nhà tâm lý học hiểu được hành vi của con người trong các bối cảnh cụ thể.

Đáng chú ý nhất, Lý thuyết hành động hợp lý đã được sử dụng để hỗ trợ dự đoán và giải thích một số hành vi sức khỏe (LaCaille, 2020).

Lý thuyết hành động hợp lý được các nhà tâm lý học Martin Fishbein và Icek Ajzen phát triển vào năm 1975, ban đầu là một sự cải tiến cho lý thuyết tích hợp thông tin.

Fishbein và Ajzen đã xây dựng lý thuyết này sau khi cố gắng xác định sự khác biệt giữa thái độ và hành vi.

Lý thuyết hành động hợp lý khác với lý thuyết tích hợp thông tin vì một số lý do. Lý do đầu tiên là ý tưởng về sự chú ý hành vi.

Ngoài ra, lý thuyết hành động hợp lý thừa nhận rằng có những yếu tố có thể hạn chế ảnh hưởng của thái độ đến hành vi.

Mô hình lý thuyết hành động hợp lý hoạt động như thế nào

Lý thuyết hành động hợp lý có bốn thuật ngữ chính: Niềm tin, Thái độ, Chuẩn mực chủ quan và Ý định (Fishbein và Ajzen, 1975):

Mô hình lý thuyết hành động hợp lý

Sự tin tưởng

Niềm tin là khả năng một đối tượng có một số thuộc tính. Thông thường, điều này được dùng để chỉ việc ai đó tin rằng một số hành động hoặc hành vi sẽ dẫn đến một hậu quả.

Ví dụ, nếu ai đó nói, “Tôi nghĩ tôi sẽ bị ung thư phổi nếu tôi hút thuốc mỗi ngày”, họ có niềm tin về việc hút thuốc.

Mọi người có thể có niềm tin khác nhau. Ví dụ, một người có thể tin rằng tập thể dục giúp cải thiện sức khỏe với mức độ chắc chắn cao nhưng lại dẫn đến chấn thương với mức độ chắc chắn thấp hơn.

Thái độ

Thái độ là sự đánh giá tích cực hoặc tiêu cực của chúng ta về một hành vi cụ thể — cho dù ai đó có nghĩ rằng hành vi đó là một ý tưởng tốt hay xấu hay liệu nó có dẫn đến những kết quả mà họ coi trọng hay không.

Điểm chính của mô hình này là thái độ là một chức năng của niềm tin. Thái độ tương đương với tổng sức mạnh niềm tin nhân với đánh giá kết quả cho mỗi niềm tin của một người.

Ví dụ, nếu một nhà khoa học hành vi muốn dự đoán ý định tập thể dục của một người, thái độ của người đó đối với việc tập thể dục sẽ là một chức năng của tất cả niềm tin của họ về việc liệu việc tập thể dục có dẫn đến kết quả mà họ mong muốn hay không.

Nếu ai đó nghĩ rằng tập thể dục sẽ mang lại kết quả mong muốn, họ sẽ có thái độ tích cực về điều đó.

Trong khi đó, người nghĩ rằng tập thể dục sẽ dẫn đến kết quả không mong muốn sẽ có thái độ tiêu cực.

Fishbein và Ajzen (1975) định nghĩa thái độ là “khuynh hướng phản ứng tích cực hoặc tiêu cực đối với một số đối tượng tâm lý.

Ví dụ, một người tin rằng hút thuốc lá hàng ngày có hại cho sức khỏe sẽ có thái độ đối với việc hút thuốc.

Chuẩn mực chủ quan

Chuẩn mực chủ quan là tổng hợp tất cả những người quan trọng trong cuộc đời một người và liệu họ có nghĩ những người đó muốn họ thực hiện hành vi hay không.

Ví dụ, một người có thể nghĩ về việc liệu vợ/chồng, bác sĩ hoặc mẹ của họ có muốn họ tập thể dục hay không. Nhìn chung, ý định là một chức năng của thái độ và chuẩn mực chủ quan.

Các nhà tâm lý học định nghĩa hai loại chuẩn mực chủ quan: chuẩn mực bắt buộc và chuẩn mực mô tả. Chuẩn mực bắt buộc mô tả những gì mọi người nghĩ người khác nghĩ họ nên làm.

Một người cảm thấy được thúc đẩy phải thực hiện một hành động, chẳng hạn như ăn bát quả acai, sẽ làm như vậy vì họ nghĩ rằng người khác nghĩ rằng họ nên ăn chúng.

Trong khi đó, chuẩn mực mô tả là nhận thức của một người về việc người khác nghĩ họ nên làm gì, mặc dù sự thật có thể khác.

Ví dụ, hãy xem xét một người đang cân nhắc có nên đeo khẩu trang phẫu thuật hay không. Chuẩn mực bắt buộc của họ có thể là họ tin rằng hầu hết các chuyên gia đều muốn họ đeo khẩu trang, cũng như bác sĩ và các thành viên gia đình của họ.

Tuy nhiên, chuẩn mực mô tả mô tả niềm tin của một người về những gì người khác thực sự làm.

Nếu ai đó tin rằng không có nhiều người đeo khẩu trang, thì chuẩn mực mô tả rằng ít người đeo khẩu trang sẽ ảnh hưởng đến quyết định của họ về việc họ có nên đeo khẩu trang hay không.

Chuẩn mực chủ quan là chức năng của niềm tin chuẩn mực của một xã hội và động lực để một người tuân thủ mỗi người quan trọng trong cuộc sống của một người khác.

Những người quan trọng khác này có thể bao gồm, ví dụ, bạn bè, đối tác, con cái, cha mẹ và huấn luyện viên cá nhân của ai đó. Mỗi người trong số những người này có hai giá trị tâm lý (Fishbein và Ajzen, 1975):

  1. Niềm tin chuẩn mực (NB) : Cho dù một người có tin rằng người kia muốn họ thực hiện một hành động hay không. Ví dụ, cho dù một người có nghĩ rằng bác sĩ của họ muốn họ tập thể dục hay không. Những niềm tin này có thể có những điểm mạnh khác nhau; ví dụ, -3 có thể có nghĩa là một người tin rằng bác sĩ của họ chắc chắn rằng họ không muốn họ tập thể dục, trong khi +3 có thể có nghĩa là họ chắc chắn rằng người quan trọng khác của họ muốn họ tập thể dục.
  2. Động lực tuân thủ (MC) : Động lực tuân thủ mô tả mức độ một người muốn làm những gì người kia muốn họ làm. Ví dụ, một người có thể có xu hướng không muốn làm những gì mẹ họ muốn họ làm hoặc làm những gì con cái họ muốn họ làm. Giống như Niềm tin chuẩn mực, Động lực tuân thủ có thể có các mức độ mạnh khác nhau.

Ý định hành vi

Ý định là sự sẵn sàng thực hiện một hành vi. Điều này mô tả khả năng một người nghĩ rằng họ sẽ thực hiện một hành vi cụ thể.

Mỗi thuật ngữ này thường được các nhà khoa học hành vi coi là một yếu tố trong phương trình nhằm dự đoán hành vi của con người. Như vậy, tất cả chúng đều có liên quan — các yếu tố cuối cùng góp phần vào hành vi.

Fishbein và Ajzen (1975), những người khởi xướng lý thuyết hành động hợp lý, đã tạo ra một sơ đồ để mô tả mối quan hệ giữa các thành phần chính của mô hình của họ.

Thái độ, chuẩn mực và sự kiểm soát được nhận thức đều dẫn đến ý định — sự sẵn sàng thực hiện một hành vi. Những ý định này sau đó có thể dẫn đến hành vi, mặc dù không hoàn hảo.

Sau hành vi ban đầu của Fishbein và Ajzen (1975), các nhà khoa học khác đã cố gắng nhóm và giải thích tốt hơn các yếu tố nền tảng dẫn đến niềm tin về hành vi, chuẩn mực và kiểm soát dẫn đến thái độ, chuẩn mực chủ quan và kiểm soát hành vi được nhận thức, tương ứng. Các yếu tố môi trường này có thể bao gồm những điều sau:

  • Yếu tố cá nhân : tính cách, khả năng kiểm soát, cảm xúc và vấn đề sức khỏe.
  • Yếu tố nhân khẩu học : Tuổi, giới tính, chủng tộc, dân tộc, trình độ học vấn, thu nhập và tôn giáo.
  • Các yếu tố môi trường : chẩn đoán, căng thẳng và tiếp xúc với phương tiện truyền thông.

Ứng dụng sức khỏe

Ảnh hưởng của bạn bè và nghiện ngập

Neighbors, Foster và Fossos (2013) đã phác thảo một số mô hình nghiện. Một trong số đó dựa trên Lý thuyết hành động hợp lý và tiền thân của nó, Lý thuyết hành vi có kế hoạch.

Neighbors, Foster và Fossos lập luận rằng cấu trúc của các chuẩn mực xã hội tương tự như ý tưởng về các chuẩn mực mang tính mệnh lệnh do các chuẩn mực xã hội khác đưa ra.

Theo giải thích của các nhà tâm lý học, nếu một thanh thiếu niên tin rằng những người quan trọng trong cuộc sống của họ sẽ không chấp nhận nếu họ hút thuốc lá, thì họ sẽ ít có khả năng có ý định hút thuốc lá hơn — và do đó, ít có khả năng thực sự hút thuốc lá hơn.

Những chuẩn mực chủ quan này khác biệt với các chuẩn mực xã hội mà các lý thuyết khác đưa ra theo hai cách.

Đầu tiên, họ tập trung hoàn toàn vào những người quan trọng khác trong cuộc sống của một người như một nhóm tham chiếu, và hành vi có liên quan đến lý thuyết này là hành vi của người nhận thức chứ không phải hành vi nói chung.

Câu hỏi mà lý thuyết hành động hợp lý đặt ra không phải là về mức độ mà một người nghĩ những người mà họ quan tâm chấp thuận hay không chấp thuận việc hút thuốc, mà là mức độ mà một người nghĩ người khác chấp thuận hay không chấp thuận việc hút thuốc và hành vi cụ thể của họ (Neighbors, Foster và Fossos, 2013).

Mặc dù điều này có vẻ như là một sự khác biệt nhỏ, nhưng có những trường hợp đây lại là sự khác biệt quan trọng.

Ví dụ, như Neighbors, Foster và Fossos (2013) lưu ý, những bậc cha mẹ có quan điểm trung bình hoặc thuận lợi về việc hợp pháp hóa cần sa có thể không chấp thuận việc con gái mình sử dụng cần sa.

Tiêu thụ bữa sáng

Một trong những ứng dụng phổ biến nhất của lý thuyết hành động hợp lý là đánh giá khả năng một nhóm người sẽ thực hiện một hành vi sức khỏe cụ thể.

Một nghiên cứu cố gắng xem liệu lý thuyết hành động hợp lý có làm tăng lượng tiêu thụ bữa sáng ở học sinh tại một trường trung học ở Iran hay không (Hosseini và cộng sự, 2015).

Để thực hiện được điều này, các nhà nghiên cứu đã triển khai một chương trình thông tin nhằm mục đích thúc đẩy việc ăn sáng.

Sau đó, học sinh điền vào một bảng câu hỏi trước và sau khi can thiệp. Phần đầu tiên của bảng câu hỏi này liên quan đến kiến ​​thức về việc tiêu thụ bữa sáng và phần thứ hai liên quan đến các thành phần của các yếu tố của Lý thuyết hành động hợp lý.

Theo dữ liệu, các chuẩn mực chủ quan – cho dù một người có tin rằng những người xung quanh họ đang ăn sáng hay không và cho dù họ có nghĩ rằng những người quan trọng khác trong cuộc sống của họ muốn họ ăn sáng hay không – là những yếu tố dự báo tốt nhất về việc tiêu thụ bữa sáng (Hosseini và cộng sự, 2015).

Tiêu thụ thức ăn nhanh

Các nhà tiếp thị cũng sử dụng lý thuyết hành động hợp lý để mô tả nhiều loại hành vi khác nhau, chẳng hạn như việc tiêu thụ ô tô, dịch vụ ngân hàng, phần mềm máy tính, phiếu giảm giá, chất tẩy rửa và nước ngọt.

Các nhà nghiên cứu Richard P. Bagozzi, Nancy Wong, Shuzo Abe và Massimo Bergami đã tìm cách hiểu lý thuyết này trong bối cảnh các nền văn hóa khác nhau bằng cách xem xét mức tiêu thụ đồ ăn nhanh ở Hoa Kỳ, Ý, Trung Quốc và Nhật Bản.

Họ phát hiện ra rằng những dự đoán theo lý thuyết hành động hợp lý có xu hướng thay đổi tùy theo bối cảnh xã hội – liệu một người ăn một mình hay với người khác – và khuynh hướng văn hóa – liệu một người sống trong nền văn hóa cá nhân hay tập thể .

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng các chuẩn mực chủ quan có xu hướng ảnh hưởng đến quyết định khi ăn cùng bạn bè, nhưng không ảnh hưởng đến việc ăn một mình, bất kể mức độ cá nhân hay chủ nghĩa tập thể trong nền văn hóa của một người.

Tuy nhiên, tác động của thái độ, chuẩn mực chủ quan và hành vi trong quá khứ đến ý định của người Mỹ lớn hơn so với người Ý, người Trung Quốc hoặc người Nhật Bản.

Nhìn chung, có nhiều sự khác biệt có thể giải thích được trong hành vi của các nền văn hóa phương Tây hơn là phương Đông (Bagozzi, Wong, Abe, & Bergami, 2000)

Hạn chế

Lý thuyết hành động hợp lý có một số hạn chế. Một trong số đó là nguy cơ đáng kể nhầm lẫn giữa thái độ và chuẩn mực. Điều này xảy ra vì thái độ thường có thể được định hình lại thành chuẩn mực và chuẩn mực thành thái độ.

Ví dụ, một người có thái độ cho rằng cải xoăn tốt cho họ có thể chỉ phản ánh chuẩn mực chủ quan của một nhóm bạn bè, gia đình, bác sĩ và những người có sức ảnh hưởng trên mạng xã hội tin rằng cải xoăn tốt cho sức khỏe.

Ngoài ra còn có những hạn chế thực tế đối với lý thuyết hành vi có kế hoạch, chẳng hạn như khả năng và thời gian hạn chế của các nhà nghiên cứu trong việc đo lường chính xác các yếu tố góp phần vào các mô hình trong lý thuyết, cũng như các giới hạn về môi trường hoặc tổ chức và thói quen vô thức hạn chế quyền tự do hành động của một người.

Lý thuyết về hành vi có kế hoạch cố gắng giải quyết những hạn chế này thông qua ý tưởng về kiểm soát hành vi được nhận thức (LaCaille, 2020).

Lý thuyết hành động hợp lý so với lý thuyết hành vi có kế hoạch

Lý thuyết hành vi có kế hoạch về cơ bản là phiên bản hiện đại hơn của lý thuyết hành động hợp lý.

Sự khác biệt quan trọng nhất giữa hai điều này là ý tưởng về khả năng kiểm soát hành vi được nhận thức – niềm tin rằng ai đó thực sự có khả năng thực hiện một hành vi nào đó, chẳng hạn như tập thể dục hoặc ăn uống lành mạnh hơn.

Trong phiên bản toán học của lý thuyết hành vi có kế hoạch, hành vi được nhận thức là một hàm của niềm tin kiểm soát — niềm tin về việc liệu một số yếu tố nhất định có trở thành rào cản hay không — và sức mạnh của các yếu tố kiểm soát — là thước đo mức độ mạnh mẽ của một yếu tố trong việc ngăn cản ai đó thực hiện một hành vi hoặc cho phép họ thực hiện hành vi đó (Rossi & Armstrong, 1999).

Nguồn tham khảo

Ajzen, I., & Fishbein, M. (1975). A Bayesian analysis of attribution processesPsychological bulletin82 (2), 261.

Bagozzi, R. P., Wong, N., Abe, S., & Bergami, M. (2000). Cultural and situational contingencies and the theory of reasoned action: Application to fast food restaurant consumption. Journal of consumer psychology9 (2), 97-106.

Fishbein, M. (1979). A theory of reasoned action: some applications and implications.

Hale, J. L., Householder, B. J., & Greene, K. L. (2002). The theory of reasoned action.  The persuasion handbook: Developments in theory and practice 14 (2002), 259-286.

Hosseini, Z., Gharghani, Z. G., Mansoori, A., Aghamolaei, T., & Nasrabadi, M. M. (2015). Application of the theory of reasoned action to promoting breakfast consumption. Medical journal of the Islamic Republic of Iran29, 289.

LaCaille, L. (2020). Theory of reasoned action. Encyclopedia of behavioral medicine, 2231-2234.

Madden, T. J., Ellen, P. S., & Ajzen, I. (1992). A comparison of the theory of planned behavior and the theory of reasoned action Personality and social psychology Bulletin 18 (1), 3-9.

Montano, D. E., & Kasprzyk, D. (2015). Theory of reasoned action, theory of planned behavior, and the integrated behavioral model Health behavior: Theory, research and practice 70 (4), 231.

Neighbors, C., Foster, D. W., & Fossos, N. (2013). Peer influences on addiction. Principles of addiction: Comprehensive addictive behaviours and disorders1, 323-331.

Rossi, A. N., & Armstrong, J. B. (1999). Theory of reasoned action vs. theory of planned behavior: Testing the suitability and sufficiency of a popular behavior model using hunting intentions. Human Dimensions of Wildlife4 (3), 40-56.

Sheppard, B. H., Hartwick, J., & Warshaw, P. R. (1988). The theory of reasoned action: A meta-analysis of past research with recommendations for modifications and future research Journal of consumer research 15 (3), 325-343.

Vallerand, R. J., Deshaies, P., Cuerrier, J. P., Pelletier, L. G., & Mongeau, C. (1992). Ajzen and Fishbein’s theory of reasoned action as applied to moral behavior: A confirmatory analysis Journal of personality and social psychology 62 (1), 98.

Bài viết liên quan

BẢN TIN TÂM LÝ HIỆU ỨNG TÂM LÝ NHẬN THỨC XÃ HỘI HỌC

BẢN TIN TÂM LÝ NHẬN THỨC

BẢN TIN TÂM LÝ TRIẾT HỌC

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *