Khuyết tật trí tuệ (ID) được coi là rối loạn phát triển thần kinh. Rối loạn phát triển thần kinh là các tình trạng về thần kinh xuất hiện sớm trong thời thơ ấu, thường là trước khi bắt đầu đi học và làm suy giảm sự phát triển của các chức năng cá nhân, xã hội, học tập và/hoặc nghề nghiệp.
Tỷ lệ Khuyết tật trí tuệ (ID) ở các nước đang phát triển ước tính dao động từ 10 đến 15 trên 1000 trẻ em; trong số đó, khoảng 85% bị chậm phát triển trí tuệ nhẹ.
Ước tính có từ 1 đến 3% dân số phương Tây bị khuyết tật trí tuệ.
Tỷ lệ mắc bệnh rất khó tính toán chính xác vì khuyết tật trí tuệ nhẹ có thể không được nhận biết cho đến tận giai đoạn sau của thời thơ ấu. Khuyết tật trí tuệ được báo cáo là đạt đỉnh ở độ tuổi từ 10 đến 14 và phổ biến ở nam giới hơn nữ giới gấp 1,5 lần.
Khuyết tật trí tuệ – Intellectual Disability – là gì?
Khuyết tật trí tuệ (ID) là sự phát triển kém về khả năng học tập, lý luận, xã hội và kỹ năng sống. Nó thường biểu hiện rõ ràng khi mới sinh hoặc trong thời thơ ấu và kéo dài đến tuổi trưởng thành.
Tình trạng này xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau và có thể là kết quả của các yếu tố di truyền, môi trường hoặc chưa xác định.
Trong nhiều thập kỷ, giới y khoa và công chúng đã gọi những người bị ảnh hưởng một cách không tử tế là “yếu đuối”, “ngu ngốc”, “ngu ngốc” và “ngu đần độn”.
Trong những năm 1960, Hiệp hội Người khuyết tật về trí tuệ và phát triển Hoa Kỳ (AAIDD) và các nhà lập pháp đã thông qua thuật ngữ “chậm phát triển trí tuệ”, thuật ngữ mà các chuyên gia cho là nhạy cảm hơn vào thời điểm đó.
Thuật ngữ “khuyết tật trí tuệ” xuất hiện do Luật Rosa được thông qua năm 2010 và được đặt theo tên của một cô gái trẻ mắc chứng khuyết tật trí tuệ.
Khuyết tật trí tuệ bắt đầu bất kỳ lúc nào trước khi trẻ 18 tuổi và được đặc trưng bởi sự khác biệt ở cả hai dạng sau:
- Chức năng trí tuệ hoặc trí thông minh, bao gồm khả năng học tập, lý luận, giải quyết vấn đề và các kỹ năng khác; và
- Hành vi thích nghi, bao gồm các kỹ năng sống và xã hội hàng ngày.
Thuật ngữ “khuyết tật phát triển” là một phạm trù rộng hơn về những thách thức thường kéo dài suốt đời, có thể là về trí tuệ, thể chất hoặc cả hai.
Các dấu hiệu và triệu chứng của Khuyết tật trí tuệ
Các biểu hiện chính của Khuyết tật trí tuệ là
-
Chậm thu nhận các kiến thức và kỹ năng mới
-
Hành vi chưa chín chắn
-
Giảm kĩ năng tự chăm sóc bản thân
Một số trẻ có Khuyết tật trí tuệ nhẹ có thể không phát triển triệu chứng nhận dạng cho đến tuổi đi học.
Tuy nhiên, triệu chứng nhận biết sớm phổ biến là trẻ Khuyết tật trí tuệ từ vừa đến nặng và trong số trẻ Khuyết tật trí tuệ đi kèm với những bất thường về thể chất hoặc các dấu hiệu của một điều kiện sau (ví dụ như bại não) có thể liên quan đến một nguyên nhân cụ thể của chậm phát triển trí tuệ, ngạt chu sinh).
Chậm phát triển thường biểu hiện rõ ở lứa tuổi mẫu giáo, thường biểu hiện là chậm giao tiếp hơn là các kỹ năng vận động.
Ở những trẻ lớn hơn, các đặc điểm nổi bật là IQ thấp kết hợp với những hạn chế về kỹ năng hành vi thích hợp (ví dụ: giao tiếp, tự điều hướng, kỹ năng xã hội, tự chăm sóc, sử dụng tài nguyên cộng đồng, duy trì an toàn cá nhân).
Mặc dù sự phát triển có thể khác nhau, nhưng trẻ em chậm phát triển trí tuệ thường chậm tiến bộ hơn là ngừng phát triển.
Các triệu chứng thường được phân nhóm thành hạn chế trí tuệ, suy giảm hành vi thích nghi và dấu hiệu thể chất hoặc cảm xúc liên quan.
Hạn chế trí tuệ
Những người mắc Khuyết tật trí tuệ gặp khó khăn trong các khía cạnh liên quan đến chức năng trí tuệ, bao gồm:
- Khó khăn trong học tập và giải quyết vấn đề
Người mắc Khuyết tật trí tuệ thường chậm trễ trong việc tiếp thu các kỹ năng học thuật cơ bản như đọc, viết và làm toán. Những chậm trễ này rõ rệt hơn ở các trường hợp từ trung bình đến nặng (Hodapp & Fidler, 2021). - Suy giảm trí nhớ và xử lý nhận thức
Các vấn đề về trí nhớ, đặc biệt là trí nhớ làm việc, thường thấy ở người mắc Khuyết tật trí tuệ. Điều này gây khó khăn trong các nhiệm vụ yêu cầu nhiều bước, như làm theo hướng dẫn hoặc giải quyết vấn đề (Alloway et al., 2009). - Khó khăn với tư duy trừu tượng
Người mắc Khuyết tật trí tuệ có thể gặp khó khăn trong việc hiểu các khái niệm trừu tượng, chẳng hạn như ngôn ngữ ẩn dụ hoặc các kịch bản giả định, và thường dựa vào tư duy cụ thể (Schalock et al., 2010). - Giảm chú ý và tập trung
Khả năng duy trì sự chú ý thường bị hạn chế, đặc biệt là ở trẻ mắc Khuyết tật trí tuệ. Triệu chứng này làm phức tạp việc học tập và hoàn thành nhiệm vụ (Lindsay et al., 2016).
Suy giảm hành vi thích nghi
Hành vi thích nghi là các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày. Suy giảm trong lĩnh vực này là một đặc điểm chẩn đoán chính của Khuyết tật trí tuệ, bao gồm ba lĩnh vực chính:
- Kỹ năng nhận thức
- Khó khăn trong việc hiểu thời gian, tiền bạc và các con số.
- Chậm phát triển ngôn ngữ và gặp khó khăn trong việc hình thành câu nói hoàn chỉnh (American Psychiatric Association, 2013).
- Kỹ năng xã hội
- Giao tiếp liên cá nhân kém, bao gồm khó khăn trong việc hiểu các tín hiệu xã hội và tham gia vào các cuộc trò chuyện phù hợp với lứa tuổi.
- Khả năng hình thành và duy trì tình bạn bị hạn chế, dẫn đến cảm giác cô lập xã hội (Sabbagh et al., 2021).
- Kỹ năng thực hành
- Khó khăn trong việc thực hiện các nhiệm vụ tự chăm sóc như mặc quần áo, vệ sinh cá nhân hoặc nấu ăn.
- Thách thức trong việc quản lý trách nhiệm hàng ngày như đi lại, an toàn cá nhân, hoặc việc làm (Maulik et al., 2011).
Các rối loạn phối hợp
Các rối loạn kèm theo là phổ biến, đặc biệt là rối loạn tăng động/giảm chú ý, rối loạn tâm trạng (trầm cảm, rối loạn lưỡng cực), rối loạn phổ tự kỷ, rối loạn lo âu và các bệnh khác.
Một số trẻ em mắc chứng suy giảm vận động hoặc cảm giác đi kèm, chẳng hạn như bại não hoặc giảm vận động, chậm phát triển ngôn ngữ, hoặc điếc.
Những khiếm khuyết về vận động hoặc cảm giác đó có thể tương tự sự giảm nhận thức nhưng không phải là nguyên nhân gây bệnh.
Khi trẻ trưởng thành, một số trẻ phát triển bệnh thành lo âu hoặc trầm cảm nếu chúng bị các trẻ khác xa lánh hoặc chúng nhận ra rằng những người khác cho rằng chúng khác biệt.
Các chương trình giảng dạy ở trường học cần được quản lý tốt và có thể giúp tối đa hóa sự hội nhập xã hội, do đó giảm thiểu các phản ứng về cảm xúc.
Chẩn đoán khuyết tật trí tuệ
Chẩn đoán khuyết tật trí tuệ thường được thực hiện thông qua bài kiểm tra trí thông minh hoặc nhận thức, thường được đánh giá theo phạm vi điểm số của bài kiểm tra Chỉ số thông minh (IQ).
Loại bài kiểm tra này sẽ giúp nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe kiểm tra khả năng học tập, suy nghĩ, giải quyết vấn đề và hiểu biết về thế giới của một người.
Điểm kiểm tra IQ trung bình là khoảng 100 và 85% trẻ em khuyết tật trí tuệ có điểm trong khoảng từ 55 đến 70. Các trường hợp khuyết tật trí tuệ nghiêm trọng hơn thường có điểm IQ thấp hơn.
Các bác sĩ lâm sàng cũng sẽ quan sát hành vi của trẻ để tìm dấu hiệu khuyết tật và đánh giá hành vi thích nghi. Hành vi thích nghi bao gồm các kỹ năng ứng phó và các hành vi khác cho thấy cách trẻ tương tác với người khác.
Các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể sử dụng thông tin này để đánh giá xem cá nhân đó có các kỹ năng cần thiết để tự chăm sóc bản thân và tương tác với người khác hay không.
Sàng lọc trước khi sinh
Nên được thực hiện ở các cặp vợ chồng muốn có con. Xét nghiệm tiền sản cho phép các cặp vợ chồng cân nhắc việc chấm dứt thai sản và kế hoạch hóa gia đình sau đó.
Các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe khuyến cáo rằng một số phụ nữ mang thai, bao gồm những người trên 35 tuổi và những người có tiền sử gia đình mắc một số tình trạng nhất định, nên xét nghiệm thai nhi trước khi sinh, ngay khi còn trong bụng mẹ, để tìm các tình trạng gây ra khuyết tật trí tuệ.
Các xét nghiệm bao gồm
-
Chọc màng ối hoặc sinh thiết gai rau
-
sàng lọc qua
-
Siêu âm
-
Định lượng Alpha-fetoprotein trong huyết thanh mẹ
-
sàng lọc không xâm lấn trước sinh
Chẩn đoán theo tiêu chí DSM – 5
Theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn Tâm thần, Phiên bản 5 (DSM-5), chẩn đoán ID bao gồm ba tiêu chí chính (American Psychiatric Association, 2013):
- A. Phải có sự sút giảm rõ rệt chức năng tâm trí, chỉ số IQ phải từ 70 trở xuống qua các bảng trắc nghiệm cá nhân tiêu chuẩn (đối với trẻ em trong tuổi sơ sinh thì sự đánh giá sẽ do kinh nghiệm của các chuyên viên)
- B. Sự hụt hẫng hay hư hỏng thuộc về các chức năng sinh hoạt thường ngày ít ra phải thể hiện rõ trên ít nhất là 2 hai trong số những lĩnh vực thuộc về: khả năng giao tiếp, khả năng tự chăm sóc cho mình, khả năng sinh hoạt trong gia đình, khả năng tương tác với xã hội và tha nhân, khả năng biết sử dụng các nguồn tài nguyên của môi trường xã hội cung cấp, định hướng cuộc sống, khả năng học hỏi, biết rút kinh nghiệm, khả năng đảm nhận và hoàn thành công việc, biết cách vui chơi giải trí, và khả năng gìn giữ sức khỏe và sự an toàn cho bản thân.
- C. Tình trạng phải xuất hiện trước 18 tuổi để phân biệt với các suy giảm nhận thức mắc phải sau này do chấn thương hoặc bệnh lý.
Chẩn đoán phân biệt
Quá trình chẩn đoán cần phân biệt Khuyết tật trí tuệ với các tình trạng khác có triệu chứng tương tự:
- Rối loạn phổ tự kỷ (ASD): Khuyết tật trí tuệ và ASD đều có thể bao gồm chậm phát triển, nhưng ASD đặc trưng bởi các khiếm khuyết cụ thể trong giao tiếp xã hội và các hành vi lặp đi lặp lại.
- Rối loạn học tập: Các rối loạn này chỉ ảnh hưởng đến các kỹ năng học tập cụ thể (như chứng khó đọc) mà không liên quan đến suy giảm trí tuệ tổng quát.
- Rối loạn tâm thần: Các tình trạng như tăng động giảm chú ý (ADHD) có thể giống với ID nhưng không liên quan đến suy giảm trí tuệ toàn diện.
- Suy giảm nhận thức mắc phải: Các suy giảm nhận thức do chấn thương não hoặc bệnh lý thoái hóa thường có nguyên nhân và thời điểm khởi phát khác.
Trong một số trường hợp, phân tích mảng nhiễm sắc thể (CMA) hoặc xét nghiệm lai ghép bộ gen so sánh mảng (aCGH) được sử dụng để xác định đột biến gen. Các xét nghiệm này thường được thực hiện bằng cách lấy một mẫu máu nhỏ nhưng đôi khi nước bọt hoặc mô da cũng được sử dụng cho CMA.
Các mức độ của khuyệt tật trí tuệ
Mức độ Nhẹ 85% trường hợp
Trẻ có chỉ số IQ từ 50 đến 70 nằm trong số này. Tình trạng sa sút tâm trí ban đầu có vẻ không khác gì mấy với những trẻ em bình thường, nhưng càng lớn lên, từ khoảng 6 đến 7 tuổi, những dấu hiệu chậm lụt bắt đầu hiện rõ được phát hiện trong các lĩnh vực học hỏi, suy nghĩ và phán đoán, tương tác và giao tiếp với bên ngoài.
Sức học của trẻ loại này chỉ đạt tới lớp 6-7.Tuy thế ở tuổi trưởng thành các cá nhân này có khả năng làm những công việc không đòi hỏi sự tài khéo, có khả năng sống tự lập và không cần phải có sự giúp đỡ hay giảm thị của người khác. Có khoảng 85% trẻ ở dạng Nhẹ trong số những trẻ thiểu năng trí tuệ.
Mức độ Vừa 10% trường hợp
Trẻ có chỉ số thông minh từ 40 đến 55 được xếp vào loại này. Sức học của trẻ thường chỉ ngang lớp 2-3 trở xuống.
Trẻ chỉ có thể sử dụng ngôn ngữ bằng những từ đơn giản và cụ thể, có thể sử dụng đồng tiền hay biết tính toán với những con số đơn giản. Khi lớn lên trẻ cần có sự giúp đỡ và giám thị trong cuộc sống hằng ngày chứ không sống hoàn toàn tự lập được.
Loại trẻ này chiếm khoảng 10% trong nhóm các trẻ thiểu năng trí tuệ.
Mức độ Nặng 3 – 4% trường hợp
Chỉ số thông minh của trẻ loại này là từ 25 đến 40. Từ sơ sinh trẻ đã chứng tỏ có sự hạn chế, khó khăn rõ rệt trong các chuyển động của cơ thể và sự phát biểu. Về sau trẻ có thể học nói được vài câu sơ sài và biết làm một số vệ sinh cá nhân.
Ở tuổi trưởng thành các cá nhân này có thể được tập luyện để làm một số công việc rất đơn giản, nhưng suốt cuộc sống phải cần sự giám thị và hướng dẫn thường xuyên. Số trẻ loại này chiếm khoảng 3%.
Mức độ Trầm trọng
Trẻ em có chỉ số thông minh từ 25 trở xuống đều nằm trong loại này. Những trẻ bị mất khả năng trí tuệ có mức độ trầm trọng thường được phát hiện ngay qua những dấu hiệu và các chức năng kỳ lạ, bất thường trên các cơ quan vận động và cảm giác.
Trẻ mất khả năng trí tuệ trầm trọng cần được nuôi dưỡng trong các nơi có đầy đủ điều kiện chăm sóc và giám thị liên tục trong 24/24 giờ Trẻ loại này chiếm khoảng 2% trong số các trẻ bị chứng thiểu năng trí tuệ.
Chứng chậm phát triển toàn điện (Global Developmental Delay)
Trẻ em loại này từ trước 5 tuổi đã thấy có những triệu chứng phát triển có chiều hướng yếu kém, hụt hẫng về mọi phương diện, nhưng rất khó có thể xác định chứng thiểu năng trí tuệ qua mức độ yếu kém này.
Chứng mất khả năng tâm trí không định rõ (Unspecified Intellectual Disability)
Trẻ em loại này có những dấu hiệu hư hỏng, yếu kém về các chức năng tinh thần cũng như thể chất kể từ sau 5 tuổi, nhưng cũng không thể có những cơ sở tiêu chuẩn về triệu chứng cũng như mức độ bệnh để có thể đánh giá chính xác được.
Nguyên nhân gây khuyết tật trí tuệ
Trong khi nhiều nguyên nhân gây ra khuyết tật trí tuệ vẫn chưa được biết đến, nguyên nhân gây ra khuyết tật trí tuệ chủ yếu được chia thành các bất thường về di truyền và tiếp xúc với môi trường.
Bất thường về di truyền có thể là đột biến gen đơn lẻ, biến thể số lượng bản sao hoặc bất thường về nhiễm sắc thể gây ra lỗi bẩm sinh về chuyển hóa, khiếm khuyết phát triển thần kinh và thoái hóa thần kinh.
Tiếp xúc với môi trường có thể là tiếp xúc với độc tố/tác nhân gây nhiễm trùng của mẹ, tình trạng bệnh lý không được kiểm soát của mẹ, biến chứng khi sinh và chấn thương sau sinh và tiếp xúc với độc tố/tác nhân gây nhiễm trùng.
Nguyên nhân phổ biến nhất có thể phòng ngừa hoặc nguyên nhân môi trường gây ra khuyết tật trí tuệ là hội chứng rượu ở thai nhi, nguyên nhân nhiễm sắc thể phổ biến nhất là hội chứng Down và nguyên nhân di truyền phổ biến nhất là hội chứng X mỏng manh.
Yếu tố bẩm sinh
Một số nghiên cứu cho thấy do sự kế thừa của các gene lặn (recessive gene) làm cơ thể thai nhi có những rối loạn về hệ thống chuyển hóa (metabolism).
Đây là nguyên nhân khiến trẻ vừa sinh ra là bị các loại bệnh như Tay-Sack (do một cặp gene lặn tạo ra sự rối loạn chuyển hóa chất béo lipid, và khi não bộ đứa trẻ bị tích tụ quá nhiều chất lipid thì nó không phát triển được);
tuberous sclerosis (một loại bệnh gây ra sự xơ cứng, nổi u trong não, da và các cơ quan khác làm người bệnh dễ bị bệnh động kinh và Khuyết tật trí tuệ);
Down syndrome (trẻ loại này do bị hỗn loạn về nhiễm sắc thể (chromosome) từ trong bào thai, nên khi sinh ra có sự bất bình thường về hình dạng, nét mặt và trí tuệ bị chậm phát triển).
Yếu tố thai nhi trong giai đoạn đầu
Tình trạng bị nhiễm trùng, siêu vi hay nghiện ngập thuốc cấm, rượu cồn của người mẹ đang mang thai, nhất là thai nhi đang trong giai đoạn từ 3 đến 8 tuần lễ đầu, đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển bất thường của tế bào não của thai nhi trong thời kỳ này.
Yếu tố thai nhi trong giai đoạn sau và vào lúc sinh nở
Những trường hợp thai nhi lọt lòng mẹ quá sớm, hoặc bào thai bị thiếu dinh dưỡng, hoặc lúc sinh ra bị những chấn thương hay bị ngộp thở, vv.. thì rất có thể ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của bộ não đứa trẻ.
Yếu tố sức khỏe thể chất của trẻ trong thời thơ ấu chiếm 5%: Số phần trăm này bao gồm những trẻ em trong tiến trình phát triển đã bị nhiễm chất chì (lead poisoning), bị chấn thương não hay bị nhiễm siêu vi…
Yếu tố tác động do môi trường sống và/hay là do các loại bệnh rối loạn tâm thần khác
Một số trẻ tuy khởi đầu có vẻ bình thường, nhưng về sau do mắc phải một loại bệnh tâm thần nào đó, chẳng hạn Tâm thần phân liệt, hay do quá trình bị ức chế tước đoạt tinh thần có hậu quả từ môi trường xã hội và văn hóa nơi đứa trẻ đang sống thì có thể gây ra những tác động tiêu cực trên tiến trình phát triển trí tuệ của chúng.
Hỗ trợ Khuyết Tật Trí Tuệ
Cả trẻ em và người lớn bị khuyết tật trí tuệ đều cần được hỗ trợ.
Các cách hỗ trợ trẻ em khuyết tật bao gồm:
- Khuyến khích trẻ khuyết tật trí tuệ ở mức độ nhẹ đến trung bình trở nên có trách nhiệm và độc lập.
- Giao việc nhà cho trẻ và giúp trẻ học các kỹ năng tự chăm sóc bản thân hàng ngày khi trẻ có thể. Chia nhỏ công việc thành các bước nhỏ hơn, hướng dẫn trẻ phải làm từng bước cho đến khi hoàn thành công việc.
- Thường xuyên phản hồi cho con bạn. Khen ngợi con bạn khi con làm tốt để giúp con phát triển khả năng.
- Đọc sách cho con bạn nghe và cùng con và các thành viên khác trong gia đình tham gia các hoạt động vui vẻ.
- Tìm kiếm cơ hội tham gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng (như tham gia đội hướng đạo, hoạt động tại trung tâm giải trí, thể thao, v.v.) để giúp con bạn xây dựng các kỹ năng xã hội và vui chơi.
Bác sĩ nhi khoa và trường học địa phương của bạn có thể là đối tác của bạn trong việc chăm sóc con bạn bị Khuyết tật trí tuệ.
Bạn có thể yêu cầu đánh giá để xác định nhu cầu của con bạn và giúp phát triển Chương trình giáo dục cá nhân hóa (IEP) cho hành trình học tập thành công.
Ngoài ra còn có những cách để hỗ trợ người lớn có Khuyết tật trí tuệ:
- Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, đơn giản và cố gắng nói chậm hơn, không nói to hơn (trừ khi họ bị khiếm thính)
- Hãy đối xử với họ như bạn đối xử với bạn bè của mình. Đừng nói chuyện với họ một cách khinh thường. Họ thích những câu chuyện cười, trêu chọc hoặc thử thách giống như chúng ta.
- Đặt ra ranh giới. Không cho phép họ có hành vi xấu—cũng giống như bạn sẽ không cho phép người không bị khuyết tật trí tuệ cư xử không đúng mực.
- Hãy hỏi xem bạn có thể giúp họ không trước khi hành động và cho rằng họ cần giúp đỡ.
- Hãy cân nhắc việc chỉ định một “người giám hộ” để đưa ra quyết định y tế thông qua một văn bản pháp lý gọi là “ủy quyền lâu dài”.
- Hỗ trợ và giúp họ phát triển các kỹ năng nấu ăn, ngân hàng, giao thông, các tình huống xã hội, khám sức khỏe và nghề nghiệp.
Một lời từ PSYEZ
Khuyết tật trí tuệ được đặc trưng bởi những khiếm khuyết về chức năng trí tuệ và thích nghi. Các triệu chứng thường xuất hiện trong thời thơ ấu, mặc dù một số biểu hiện muộn hơn trong cuộc sống.
Nguyên nhân bao gồm các khiếm khuyết về gen, bệnh trước khi sinh hoặc sau khi sinh, chấn thương não khi sinh và tiếp xúc với rượu, ma túy hoặc chất độc trước khi sinh.
Hầu hết những người bị ảnh hưởng đều có Khuyết tật trí tuệ nhẹ, nhưng các rối loạn cũng có thể ở mức trung bình, nghiêm trọng hoặc sâu sắc. Với việc phát hiện và can thiệp sớm, bạn có thể kết nối với các dịch vụ chuyên khoa để nâng cao sức khỏe cho người thân yêu của bạn đang sống chung với Khuyết tật trí tuệ.
Nguồn tham khảo
American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders (5th ed.). Arlington, VA: American Psychiatric Publishing.
Schalock, R. L., Borthwick-Duffy, S. A., Bradley, V. J., Buntinx, W. H. E., Coulter, D. L., Craig, E. M., … & Yeager, M. H. (2010). Intellectual disability: Definition, classification, and systems of supports (11th ed.). Washington, DC: American Association on Intellectual and Developmental Disabilities.
Lindsay, W. R., Hastings, R. P., Griffiths, D. M., & Hayes, S. C. (Eds.). (2016). Challenging behaviors in intellectual disabilities: Evidence-based practice. Wiley-Blackwell.
Sparrow, S. S., Cicchetti, D. V., & Saulnier, C. A. (2016). Vineland Adaptive Behavior Scales (3rd ed.). Pearson Assessments.
Alloway, T. P., Rajendran, G., & Archibald, L. M. (2009). Working memory in children with developmental disorders. Journal of Learning Disabilities, 42(4), 372–382. https://doi.org/10.1177/0022219409335214
Cooper, S. A., Smiley, E., Morrison, J., Williamson, A., & Allan, L. (2007). Mental ill-health in adults with intellectual disabilities: Prevalence and associated factors. The British Journal of Psychiatry, 190(1), 27–35. https://doi.org/10.1192/bjp.bp.106.022483
Emerson, E. (2003). Prevalence of psychiatric disorders in children and adolescents with and without intellectual disability. Journal of Intellectual Disability Research, 47(1), 51–58.
Hodapp, R. M., & Fidler, D. J. (2021). Genetics and intellectual disability: Advancing understanding and improving lives. Nature Reviews Genetics, 22(2), 96–111. https://doi.org/10.1038/s41576-020-00298-2
Maulik, P. K., Mascarenhas, M. N., Mathers, C. D., Dua, T., & Saxena, S. (2011). Prevalence of intellectual disability: A meta-analysis of population-based studies. Research in Developmental Disabilities, 32(2), 419–436. https://doi.org/10.1016/j.ridd.2010.12.018
Matson, J. L., Rivet, T. T., Fodstad, J. C., & Dempsey, T. (2007). Diagnostic stability of autism spectrum disorders in adults with intellectual disability. Journal of Developmental and Physical Disabilities, 19(4), 391–407.
Centers for Disease Control and Prevention. (n.d.). Intellectual disability fact sheet. Retrieved August 9, 2012, from https://www.cdc.gov/child-development/about/developmental-disability-basics.html
National Institutes of Health. (n.d.). About intellectual and developmental disabilities (IDDs). Retrieved from https://www.nih.gov
American Association on Intellectual and Developmental Disabilities. (n.d.). Definition of intellectual disability. Retrieved September 14, 2012, from https://www.aaidd.org/intellectual-disability/definition
American Association on Intellectual and Developmental Disabilities. (n.d.). FAQs on intellectual disability. Retrieved September 14, 2012, from https://www.aaidd.org/intellectual-disability/faqs-on-intellectual-disability
National Dissemination Center for Children with Disabilities (NICHCY). (2011). NICHCY disability fact sheet #8: Intellectual disabilities. Retrieved August 9, 2012, from https://www.parentcenterhub.org/disability-landing/
Centers for Disease Control and Prevention. (May 18, 2012). Cerebral palsy: Facts about cerebral palsy. Retrieved August 12, 2012, from https://www.cdc.gov/ncbddd/cp/facts.html
American Academy of Pediatrics. (July 30, 2012). Health issues: Children with intellectual disabilities. Retrieved August 9, 2012, from https://www.healthychildren.org