Tiếp cận bệnh nhân với các triệu chứng tâm thần

❕Xem thêm

*️⃣Đánh giá Tâm thần Hàng ngày
*️⃣Đánh giá y khoa những bệnh nhân với các triệu chứng tâm thần
*️⃣Các trường hợp cấp cứu về hành vi

*Những bệnh nhân có những phàn nàn hoặc bận tâm về tình trạng tâm thần hoặc rối loạn hành vi có thể hiện diện trong nhiều cơ sở lâm sàng khác nhau, bao gồm trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu và các trung tâm điều trị cấp cứu. Những phàn nàn hoặc bận tâm này có thể là mới hoặc là sự tiếp nối của các vấn đề về tâm thần trước đó. Sự khó chịu có thể liên quan đến việc phản ứng với tình trạng cơ thể hoặc có thể là những ảnh hưởng trực tiếp của một tình trạng cơ thể. Phương pháp đánh giá phụ thuộc vào việc liệu những phàn nàn có phải là trường hợp khẩn cấp hay được báo cáo trong một lần khám theo hẹn. Trong trường hợp khẩn cấp, bác sĩ có thể phải tập trung vào tiền sử, các triệu chứng và hành vi tức thời hơn để có thể đưa ra một quyết định quản lý. Trong một lần khám theo hẹn, cần thiết có một đánh giá toàn diện hơn.

Rối loạn lo âu và các rối loạn liên quan tới stress

❕Xem thêm

*️⃣Tổng quan các rối loạn lo âu
*️⃣Ám ảnh cụ thể
*️⃣Rối loạn lo âu xã hội
*️⃣Cơn hoảng sợ và rối loạn hoảng sợ
*️⃣Sợ khoảng trống
*️⃣Rối loạn lo âu lan tỏa
*️⃣Tổng quan về Sang chấn và Rối loạn Liên quan đến Stress
*️⃣Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD)
*️⃣Rối loạn căng thẳng cấp tính (ASD)
*️⃣Rối loạn điều chỉnh

*Rối loạn lo âu được đặc trưng bởi nỗi sợ hãi và lo lắng dai dẳng và quá mức cũng như những thay đổi rối loạn chức năng hành vi mà bệnh nhân có thể sử dụng để giảm thiểu những cảm giác này. Các loại rối loạn lo âu được phân biệt với nhau dựa trên các đối tượng hoặc tình huống cụ thể gây ra nỗi sợ hãi, lo lắng và những thay đổi hành vi liên quan.

Rối loạn phân ly

❕Xem thêm

*️⃣Tổng quan về các rối loạn phân ly
*️⃣Rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại
*️⃣Quên phân ly
*️⃣Rối loạn nhân dạng phân ly
*️⃣Sợ khoảng trống
*️⃣Phân nhóm phân ly của rối loạn căng thẳng sau chấn thương

Nhiều người thỉnh thoảng không thể tích hợp tự động bình thường ký ức, nhận thức, nhận dạng danh tính và ý thức. Ví dụ: người ta có thể lái xe đi đâu đó và sau đó nhận ra rằng họ không nhớ nhiều khía cạnh của chuyến đi vì họ bận tâm đến những mối quan tâm cá nhân, một chương trình trên radio hoặc cuộc trò chuyện với hành khách. Thông thường, sự thất bại như vậy, được gọi là sự phân ly phi bệnh lý, không làm gián đoạn các hoạt động hàng ngày.

Rối loạn ăn uống

❕Xem thêm

*️⃣Tổng quan về các rối loạn phân ly
*️⃣Chán ăn tâm thần
*️⃣Ăn vô độ tâm thần
*️⃣Rối loạn ăn uống vô độ
*️⃣Rối loạn né tránh/hạn chế tiếp nhận thức ăn (ARFID)
*️⃣Ăn bẩn
*️⃣Rối loạn nhai lại

*Rối loạn ăn uống bao gồm một rối loạn liên tục về việc ăn uống hoặc hành vi liên quan đến việc ăn uống mà

Rối loạn khí sắc

❕Xem thêm

*️⃣Tổng quan về Rối loạn khí sắc
*️⃣Các rối loạn lưỡng cực
*️⃣Thuốc điều trị rối loạn lưỡng cực
*️⃣Rối loạn khí sắc chu kỳ
*️⃣Các rối loạn trầm cảm
*️⃣Thuốc điều trị trầm cảm

*Rối loạn tâm trạng là rối loạn cảm xúc bao gồm thời gian buồn bã quá mức kéo dài, tâm trạng phấn chấn quá mức hoặc cả hai. Rối loạn tâm trạng có thể xảy ra ở người lớn, thanh thiếu niên hoặc trẻ em (xem Rối loạn trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên và Rối loạn lưỡng cực ở trẻ em và thanh thiếu niên).

Rối loạn ám ảnh nghi thức và các rối loạn có liên quan

❕Xem thêm

*️⃣Rối loạn ám ảnh nghi thức (OCD)
*️⃣Rối loạn dị dạng cơ thể
*️⃣Rối loạn làm sầy da bệnh lý (cấu da)
*️⃣Trichotillomania
*️⃣Rối loạn hành vi tập trung vào cơ thể lặp đi lặp lại
*️⃣Rối loạn tích trữ
*️⃣Rối loạn quy chiếu khứu giác

*Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) đặc trưng bởi những suy nghĩ, những thôi thúc hoặc những hình ảnh (ám ảnh) lặp đi lặp lại, dai dẳng, không mong muốn và xâm nhập và/hoặc bởi các hành vi lặp đi lặp lại hoặc hành vi tinh thần lặp đi lặp lại mà bệnh nhân cảm thấy bị thôi thúc phải làm (cưỡng chế, nghi lễ) để thử làm giảm bớt hoặc ngăn chặn sự lo lắng mà những ám ảnh đó gây ra. Chẩn đoán dựa trên tiền sử. Điều trị bao gồm liệu pháp tâm lý (cụ thể là phòng ngừa phơi nhiễm và phản ứng cộng với, trong nhiều trường hợp, liệu pháp nhận thức), liệu pháp dược lý (cụ thể là thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc [SSRI] hoặc clomipramine), hoặc cả hai.

Lệch lạc tình dục và rối loạn lệch lạc tình dục

❕Xem thêm

*️⃣Tổng quan về lệch lạc tình dục và rối loạn lệch lạc tình dục
*️⃣Rối loạn thị dâm
*️⃣Rối loạn phô dâm
*️⃣Rối loạn loạn dục cọ xát
*️⃣Rối loạn khổ dâm
*️⃣Rối loạn bạo dâm
*️⃣Rối loạn ấu dâm
*️⃣Loạn dục với đồ vật
*️⃣Rối loạn loạn dục cải trang

*Rối loạn lệch lạc tình dục là những tưởng tượng, thôi thúc hoặc hành vi kích thích tình dục tái diễn, mãnh liệt, gây đau khổ hoặc tàn tật và liên quan đến các đồ vật vô tri, trẻ em hoặc người lớn không được sự đồng ý, hoặc sự đau khổ hoặc sỉ nhục của một người hoặc bạn tình, có khả năng gây hại.

Rối loạn nhân cách

❕Xem thêm

*️⃣Tổng quan về các Rối loạn nhân cách
*️⃣Rối loạn nhân cách hoang tưởng (PPD)
*️⃣Rối loạn nhân cách phân liệt (ScPD)
*️⃣Rối loạn nhân cách loại phân liệt (STPD)
*️⃣Rối loạn nhân cách chống đối xã hội (ASPD)
*️⃣Rối loạn nhân cách ranh giới (BPD)
*️⃣Rối loạn nhân cách kịch tính (HPD)
*️⃣Rối loạn nhân cách ái kỷ (Narcissistic Personality Disorder – NPD)
*️⃣Rối loạn nhân cách né tránh (AVPD)
*️⃣Rối loạn nhân cách phụ thuộc (DPD)
*️⃣Rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức (OCPD)

*Những rối loạn nhân cách nói chung là các hình thái lan tỏa và kéo dài về suy nghĩ, nhận thức, phản ứng, và liên quan đến việc gây ra tình trạng đau khổ đáng kể hoặc suy giảm chức năng. Các rối loạn nhân cách khác nhau đáng kể trong các biểu hiện của chúng, nhưng tất cả đều được cho là do sự kết hợp của các yếu tố di truyền và môi trường. Nhiều rối loạn dần trở nên ít trầm trọng hơn theo độ tuổi, nhưng những đặc tính nhất định vẫn có thể tồn tại ở một mức độ nào đó sau các triệu chứng cấp tính dẫn đến việc gợi ý chẩn đoán giảm đi. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí lâm sàng. Điều trị bằng các liệu pháp tâm lý xã hội và đôi khi bằng thuốc.

Tâm thần phân liệt và các rối loạn liên quan

❕Xem thêm

*️⃣Giới thiệu về Tâm thần phân liệt và các rối loạn liên quan
*️⃣Các thuốc chống loạn thần
*️⃣Rối loạn tâm thần ngắn hạn
*️⃣Rối loạn hoang tưởng
*️⃣Các rối loạn tâm thần và phổ tâm thần phân liệt khác
*️⃣Rối loạn tâm thần do một bệnh lý khác
*️⃣Rối loạn phân liệt cảm xúc
*️⃣Tâm thần phân liệt
*️⃣Rối loạn dạng phân liệt
*️⃣Loạn thần cảm ứng
*️⃣Rối loạn tâm thần do chất gây nghiện/do thuốc

*Tâm thần phân liệt và các rối loạn liên quan tâm thần – rối loạn loạn thần ngắn, rối loạn hoang tưởng, rối loạn phân liệt cảm xúc, rối loạn dạng phân liệt, và rối loạn nhân cách loại phân liệt- được đặc trưng bởi các triệu chứng loạn thần nổi bật và thường bởi các triệu chứng âm tính và/hoặc rối loạn chức năng nhận thức.

Không phù hợp giới và Rối loạn phân định giới tính

❕Xem thêm

*️⃣Không phù hợp giới và Rối loạn phân định giới tính

Rối loạn triệu chứng cơ thể và các rối loạn liên quan

❕Xem thêm

*️⃣Tổng quan về cơ thể hóa
*️⃣Rối loạn triệu chứng cơ thể
*️⃣Rối loạn lo âu về bệnh tật
*️⃣Rối loạn triệu chứng thần kinh chức năng
*️⃣Các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến các tình trạng bệnh tật khác
*️⃣Rối loạn giả bệnh lên bản thân
*️⃣Rối loạn giả bệnh lên người khác

*Cơ thể hóa là biểu hiện của hiện tượng tâm thần như các triệu chứng thể chất (cơ thể). Những rối loạn được đặc trưng bởi sự cơ thể hóa từ những người mà ở đó các triệu chứng phát triển một cách vô thức và phi lý chí đến những người có triệu chứng phát triển một cách có ý thức và có lý chí. Sự liên tục này bao gồm.

Hành vi tự sát và tự gây tổn thương

❕Xem thêm

*️⃣Hành vi tự sát
*️⃣Tự gây tổn thương không tự sát (NSSI)

*Tự sát là cái chết do một hành động tự làm hại bản thân nhằm mục đích gây chết người. Hành vi tự sát bao gồm một loạt các hành vi từ cố gắng tự sát và các hành vi chuẩn bị cho đến tự sát hoàn thành. Ý tưởng tự sát đề cập đến quá trình suy nghĩ, xem xét hoặc lên kế hoạch tự sát.

Rối loạn chất gây nghiện

❕Xem thêm

*️⃣Tổng quan về việc sử dụng chất kích thích
*️⃣Rối loạn sử dụng chất kích thích

*Rối loạn liên quan đến sử dụng chất kích thích liên quan đến các loại chất hoạt hóa trực tiếp vào hệ thống tưởng thưởng của bộ não. Việc kích hoạt hệ thống phần thưởng thường gây ra cảm giác thích thú; các đặc điểm cụ thể của những cảm giác sung sướng được gợi lên rất khác nhau tùy thuộc vào loại thuốc phiện. Các loại chất này được chia thành 10 loại khác nhau và có các cơ chế dược lý khác nhau, mặc dù không hoàn toàn khác biệt. Các loại chất bao gồm

Tiếp cận bệnh nhân với các triệu chứng tâm thần

Những bệnh nhân có những phàn nàn hoặc bận tâm về tình trạng tâm thần hoặc rối loạn hành vi có thể hiện diện trong nhiều cơ sở lâm sàng khác nhau, bao gồm trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu và các trung tâm điều trị cấp cứu. Những phàn nàn hoặc bận tâm này có thể là mới hoặc là sự tiếp nối của các vấn đề về tâm thần trước đó. Sự khó chịu có thể liên quan đến việc phản ứng với tình trạng cơ thể hoặc có thể là những ảnh hưởng trực tiếp của một tình trạng cơ thể. Phương pháp đánh giá phụ thuộc vào việc liệu những phàn nàn có phải là trường hợp khẩn cấp hay được báo cáo trong một lần khám theo hẹn. Trong trường hợp khẩn cấp, bác sĩ có thể phải tập trung vào tiền sử, các triệu chứng và hành vi tức thời hơn để có thể đưa ra một quyết định quản lý. Trong một lần khám theo hẹn, cần thiết có một đánh giá toàn diện hơn.

Đánh giá tâm thần hàng ngày bao gồm khai thác tiền sử bệnh nội khoa và tiền sử bệnh tâm thần và đánh giá trạng thái tâm thần. (Xem thêm American Psychiatric Association’s Psychiatric Evaluation of Adults Quick Reference Guide, 3rd Edition và American Psychiatric Association: Practice guideline for the psychiatric evaluation of adults.)

Bác sĩ phải xác định liệu bệnh nhân có thể cung cấp bệnh sử hay không, nghĩa là bệnh nhân có đáp ứng được các câu hỏi ban đầu một cách mạch lạc không. Nếu không, thông tin được tìm kiếm từ phía gia đình, người chăm sóc, hoặc các nguồn cung cấp thông tin khác (ví dụ như cảnh sát). Ngay cả khi một bệnh nhân có thể giao tiếp được, các thành viên thân thiết trong gia đình, bạn bè hoặc nhân viên phụ trách có thể cung cấp thông tin mà bệnh nhân đã bỏ sót. Việc nhận thông tin không phải do bác sĩ đề nghị không vi phạm tính bảo mật của bệnh nhân. Các đánh giá tâm thần, điều trị trước đây và mức độ tuân thủ các phương pháp điều trị trước đây được xem xét, và các hồ sơ từ sự chăm sóc này được thu thập càng sớm càng tốt.

Việc tiến hành một cuộc phỏng vấn hờ hững và vội vàng với các câu hỏi đóng (theo một đánh giá hệ thống cứng nhắc) thường ngăn không cho bệnh nhân tiết lộ những thông tin thích hợp. Theo dõi tiền sử của bệnh tình hiện tại với các câu hỏi mở, giúp bệnh nhân có thể kể câu chuyện của họ bằng chính lời nói của họ, sẽ mất một khoảng thời gian tương tự và cho phép bệnh nhân mô tả những hoàn cảnh xã hội liên quan và tiết lộ những phản ứng cảm xúc.

Cuộc phỏng vấn trước tiên cần khám phá những điều đã thúc đẩy sự cần thiết (hoặc mong muốn) cho việc đánh giá tâm thần (ví dụ như những suy nghĩ không mong muốn hay không thoải mái, hành vi không mong muốn), bao gồm mức độ triệu chứng hiện tại ảnh hưởng đến bệnh nhân như thế nào hoặc cản trở hoạt động xã hội, việc làm và giao tiếp cá nhân của bệnh nhân. Tiếp đó người phỏng vấn cố gắng có được một cái nhìn rộng hơn về nhân cách của bệnh nhân bằng cách xem xét các sự kiện đời sống quan trọng-hiện tại và quá khứ-và phản ứng của bệnh nhân với những sự kiện đó (xem bảng Các lĩnh vực cần đánh giá tâm thần ban đầu). Tiền sử tâm thần, y khoa, xã hội và phát triển cũng được xem xét.

Việc đánh giá hệ thống để kiểm tra các triệu chứng khác không được mô tả trong tiền sử tâm thần là rất quan trọng. Chỉ tập trung vào các triệu chứng hiện tại để loại trừ tiền sử trong quá khứ và các triệu chứng khác có thể dẫn đến chẩn đoán chính không chính xác (và do đó đưa ra phương pháp điều trị sai) và bỏ sót các bệnh lý tâm thần hoặc bệnh tật khác. Ví dụ, không hỏi về các giai đoạn hưng cảm trong quá khứ ở một bệnh nhân bị trầm cảm có thể dẫn đến chẩn đoán không chính xác về rối loạn trầm cảm nặng thay vì rối loạn lưỡng cực. Xem xét các hệ thống và tiền sử y tế trước đây nên bao gồm các câu hỏi về các triệu chứng thể chất mới hoặc gần đây, các chẩn đoán cũng như các loại thuốc và phương pháp điều trị hiện tại để xác định các nguyên nhân thực thể tiềm ẩn của các triệu chứng tâm thần (ví dụ, COVID-19 có thể là nguyên nhân gây lo lắng hoặc trầm cảm).

Các lĩnh vực Đánh giá Tâm thần Ban đầu

Khu vực

Một số yếu tố

Tiền sử tâm thần

Những chẩn đoán đã được biết đến

Tiền sử bệnh có liên quan (ví dụ, các triệu chứng bệnh tâm thần, những giai đoạn hưng cảm)

Các phương pháp điều trị trước đây, bao gồm thuốc và sự nhập viện

Tiền sử bệnh

Những rối loạn đã biết và các bệnh mạn tính

Các triệu chứng cơ thể mới khởi phát

Các loại thuốc và phương pháp điều trị hiện tại

Tiền sử xã hội

Trình độ học vấn và tiền sử về sự giáo dục (ví dụ, điểm số, những khó khăn trong việc đi học)

Tiền sử hôn nhân, bao gồm chất lượng và sự ổn định của hôn nhân hoặc mối quan hệ hôn nhân hoặc những quan hệ quan trọng

Tiền sử việc làm, bao gồm sự ổn định và hiệu quả trong công việc

Tiền sử liên quan đến pháp luật, bao gồm sự bắt giữ và sự giam giữ

Tình trạng sinh sống (ví dụ, một mình, với gia đình, ở nhà tập thể hoặc nhà ở tạm, trên đường phố)

Mô hình đời sống xã hội (ví dụ như chất lượng và tần suất tương tác với bạn bè và gia đình)

Tiền sử sức khỏe gia đình

Những chẩn đoán được biết đến, bao gồm những rối loạn tâm thần

Phản ứng với những thăng trầm thông thường trong cuộc sống

Ly hôn, mất việc làm, cái chết của bạn bè và gia đình, bệnh tật, các thất bại, những khó khăn và các mất mát khác

Hành vi trong khi lái xe (ví dụ, tức giận, hung hăng, bạo lực)

Tiền sử phát triển

Thành phần gia đình và bầu không khí trong thời thơ ấu

Hành vi khi đi học

Đối phó với các vai trò khác nhau trong gia đình và xã hội

Sự thích nghi và trải nghiệm tình dục

Tiền sử hiện tại và quá khứ của việc sử dụng chất gây nghiện

Sử dụng hoặc lạm dụng rượu, ma túy và thuốc lá

Tiềm năng gây hại cho bản thân hoặc người khác

Những suy nghĩ tự sát, kế hoạch và ý định tự sát

Những nỗ lực tự sát trước đây và những phương tiện đã từng được sử dụng

Hồ sơ tính cách nổi lên có thể gợi ý những đặc điểm thích nghi (ví dụ, cởi mở với kinh nghiệm, tận tâm) hoặc không thích hợp (ví dụ, tự cho mình là trung tâm, phụ thuộc, kém khả năng chịu đựng sự thất vọng) và có thể cho thấy các cơ chế đối phó được sử dụng. Cuộc phỏng vấn có thể cho thấy những nỗi ám ảnh (những suy nghĩ hoặc xung động không mong muốn và gây khó chịu), những hành vi nghi thức (hành vi quá mức, lặp đi lặp lại, có mục đích mà một người cảm thấy có động lực để làm) và những hoang tưởng (những niềm tin sai có tính chất cố định) và có thể xác định xem liệu những căng thẳng có được biểu hiện dưới dạng các triệu chứng cơ thể (ví dụ, đau đầu, đau bụng), những triệu chứng tâm thần (ví dụ như hành vi ám ảnh sợ, trầm cảm) hoặc hành vi xã hội (ví dụ, hành vi thu rút, hành vi nổi loạn). Bệnh nhân cũng cần được hỏi về thái độ liên quan đến điều trị tâm thần, bao gồm thuốc và trị liệu tâm lý, để thông tin này có thể được kết hợp với kế hoạch điều trị.

Người phỏng vấn nên xác định liệu một tình trạng cơ thể hoặc quá trình điều trị tình trạng này có đang gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng tâm thần (xem Đánh Giá Y Tế của Bệnh Nhân Có Các Triệu Chứng Tâm Thần). Ngoài các tác động trực tiếp (ví dụ như các triệu chứng, bao gồm cả các triệu chứng tâm thần), nhiều tình trạng cơ thể gây ra nhiều căng thẳng và đòi hỏi những cơ chế đối phó để chịu được những áp lực liên quan đến tình trạng này. Nhiều bệnh nhân có tình trạng cơ thể nặng gặp một số rối loạn sự thích ứng, và những người có rối loạn tâm thần tiềm ẩn có thể trở nên không ổn định.

Quan sát trong một cuộc phỏng vấn có thể cung cấp bằng chứng về rối loạn tâm thần hoặc cơ thể. Ngôn ngữ cơ thể có thể tiết lộ bằng chứng về thái độ và cảm xúc mà bệnh nhân phủ nhận. Chẳng hạn, bệnh nhân có bồn chồn hoặc đi đi lại lại mặc dù phủ nhận sự lo lắng? Bệnh nhân có vẻ buồn mặc dù đã từ chối thừa nhận những cảm giác chán nản? Biểu hiện chung cũng có thể cung cấp những manh mối. Chẳng hạn, bệnh nhân có sạch sẽ và có gọn gàng không? Có hiện tượng run hoặc vẻ mặt ủ rũ không?

Kiểm tra tình trạng tâm thần sử dụng việc quan sát và các câu hỏi để đánh giá một số lĩnh vực của chức năng tâm thần, bao gồm

  • Lời nói

  • Biểu hiện cảm xúc

  • Tư duy và nhận thức

  • Các chức năng nhận thức

Các bảng câu hỏi sàng lọc chuẩn hóa ngắn gọn có sẵn để đánh giá các thành phần nhất định trong việc kiểm tra tình trạng tâm thần, bao gồm các câu hỏi được thiết kế đặc biệt để đánh giá định hướng và trí nhớ. Các đánh giá tiêu chuẩn như vậy có thể được sử dụng trong cuộc khám định kỳ tại phòng mạch để giúp sàng lọc bệnh nhân; việc sàng lọc như vậy có thể giúp xác định các triệu chứng quan trọng nhất và cung cấp cơ sở để đo lường đáp ứng với điều trị. Tuy nhiên, các bảng hỏi sàng lọc không thể thay thế cho một kiểm tra trạng thái tâm thần rộng hơn và chi tiết hơn.

Biểu hiện chung nên được đánh giá những dấu hiệu không nói được thành lời của những tình trạng bệnh lý tiềm ẩn. Ví dụ, biểu hiện của bệnh nhân có thể giúp xác định xem họ

  • Không thể chăm sóc cho bản thân (ví dụ như họ xuất hiện dưới dạng bị suy dinh dưỡng, hoặc ăn mặc luộm thuộm hoặc không phù hợp với thời tiết hoặc có mùi cơ thể)

  • Không thể hoặc không muốn tuân theo các quy tắc xã hội (ví dụ, họ mặc quần áo không phù hợp với xã hội)

  • Đã từng sử dụng chất gây nghiện hoặc cố gắng tự làm hại bản thân (ví dụ, họ có mùi rượu, vết sẹo gợi ý lạm dụng ma túy qua đường tĩnh mạch hoặc tự gây thương tích)

Lời nói có thể được đánh giá bằng cách chú ý tính tự phát, cú pháp, tốc độ và âm lượng. Một bệnh nhân trầm cảm có thể nói chậm và nhẹ nhàng, trong khi một bệnh nhân hưng cảm có thể nói nhanh và to. Những bất thường như chứng khó nói và chứng khó nuốt có thể chỉ ra một nguyên nhân cơ thể của những thay đổi trạng thái tâm thần, như tổn thương ở đầu, đột quỵ, khối u não hoặc bệnh xơ cứng rải rác.

Biểu hiện cảm xúc có thể được đánh giá bằng cách yêu cầu bệnh nhân mô tả cảm xúc của họ. Giọng nói, tư thế, cử chỉ tay và các biểu hiện trên khuôn mặt của bệnh nhân đều được xem xét. Cần đánh giá tâm trạng (trạng thái cảm xúc do bệnh nhân báo cáo) và ảnh hưởng (biểu hiện trạng thái cảm xúc của bệnh nhân theo quan sát của người phỏng vấn). Cảm xúc và phạm vi của cảm xúc (nghĩa là toàn diện và giới hạn) nên được lưu ý cũng như sự phù hợp của cảm xúc đến nội dung tư duy (ví dụ, bệnh nhân mỉm cười khi thảo luận về một sự kiện bi thảm).

Tư duy và nhận thức có thể được đánh giá bằng cách không chỉ chú ý đến những gì được truyền đạt mà còn chú ý đến cách chúng được truyền dạt như thế nào. Nội dung không bình thường có thể dưới các hình thức sau:

  • Hoang tưởng (những niềm tin sai lầm, cố định)

  • Ý tưởng liên hệ (khái niệm rằng các sự kiện hàng ngày có ý nghĩa đặc biệt hoặc có ý nghĩa cá nhân quan trọng hoặc hướng tới bệnh nhân)

  • Những ám ảnh (những suy nghĩ lặp đi lặp lại, dai dẳng, không mong muốn và xâm phạm, thôi thúc hoặc hình ảnh)

Bác sĩ có thể đánh giá liệu các ý tưởng có liên kết và hướng tới mục tiêu hay không và liệu sự chuyển tiếp từ suy nghĩ này sang suy nghĩ khác có hợp lý hay không. Bệnh nhân loạn thần hoặc hưng cảm có thể có những tư duy không liên quan hoặc tư duy dồn dập bất chợt.

Các chức năng nhận thức bao gồm

  • Mức độ tỉnh táo

  • Sự chú ý hoặc sự tập trung

  • Định hướng về con người, địa điểm và thời gian

  • Trí nhớ tức thời, ngắn hạn và dài hạn

  • Sự lý giải trừu tượng

  • Sự thấu hiểu

  • Phán đoán

Những bất thường của nhận thức thường gặp nhất mê sảng hoặc là chứng sa sút trí tuệ hoặc chất gây say hoặc sự thu rút nhưng cũng có thể xảy ra với trầm cảm.

  • Sau đây là một nguồn thông tin bằng tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.

    1. American Psychiatric Association: Practice guideline for the psychiatric evaluation of adults

Những bệnh nhân có những phàn nàn hoặc bận tâm về tình trạng tâm thần hoặc rối loạn hành vi có thể hiện diện trong nhiều cơ sở lâm sàng khác nhau, bao gồm trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu và các trung tâm điều trị cấp cứu. Những phàn nàn hoặc bận tâm này có thể là mới hoặc là sự tiếp nối của các vấn đề về tâm thần trước đó. Những sự phàn nàn có thể liên quan đến việc đối phó với các tình trạng cơ thể hoặc là những ảnh hưởng trực tiếp của một bệnh lý của não bộ. Phương pháp đánh giá phụ thuộc vào việc liệu những phàn nàn có phải là trường hợp khẩn cấp hay được báo cáo trong một lần khám theo hẹn. Trong trường hợp khẩn cấp, bác sĩ có thể phải tập trung vào tiền sử, các triệu chứng và hành vi tức thời hơn để có thể đưa ra một quyết định quản lý. Trong một lần khám theo hẹn, cần thiết có một đánh giá toàn diện hơn.

Đánh giá y khoa những bệnh nhân với các triệu chứng tâm thần giúp xác định 3 điều:

  • Rối loạn cơ thể mô phỏng rối loạn tâm thần

  • Rối loạn cơ thể được gây ra bởi các rối loạn tâm thần hoặc sự điều trị chúng

  • Rối loạn cơ thểt kèm theo rối loạn tâm thần

Nhiều rối loạn cơ thể gây ra các triệu chứng giống với các rối loạn tâm thần đặc hiệu (xem bảng Các triệu chứng tâm thần do rối loạn thể chất). Các rối loạn cơ thể khác không giống các hội chứng tâm thần đặc hiệu mà thay vào đó tác động đến tâm trạng và năng lượng.

Nhiều loại thuốc gây ra các triệu chứng tâm thần; các loại thuốc phổ biến nhất gây ra triệu chứng tâm thần là

  • Thuốc có hoạt tính trên hệ thần kinh trung ương (ví dụ, thuốc chống động kinhthuốc chống trầm cảmthuốc chống loạn thầnthuốc an thần/thôi miên, chất kích thích)

  • Thuốc kháng cholinergic (ví dụ thuốc kháng histamin)

  • Corticosteroid

Nhiều loại thuốc điều trị và các loại thuốc khác cũng được đề cập đến; chúng bao gồm một số loại thuốc thường không được xem xét theo cách thông thường (ví dụ thuốc kháng sinh, thuốc hạ huyết áp). Lạm dụng ma túy, đặc biệt là rượuamphetaminescần sa (cannabis)cocainechất gây ảo giác và phencyclidine (PCP), đặc biệt là dùng quá liều, cũng là những nguyên nhân thường xuyên gây ra các triệu chứng tâm thần. Trạng thái cai rượu, barbiturates, hoặc benzodiazepine có thể gây ra các triệu chứng tâm thần (ví dụ, lo âu) ngoài các triệu chứng cơ thể của cai.

Bệnh nhân có rối loạn tâm thần có thể phát triển một rối loạn cơ thể (ví dụ, viêm màng não,nhiễm toan axit do tiểu đường) gây ra các triệu chứng tâm thần mới hoặc trầm trọng hơn. Do đó, bác sĩ lâm sàng không nên giả định rằng tất cả các triệu chứng tâm thần ở bệnh nhân có một rối loạn tâm thần đã biết trước đó là do bản thân rối loạn đó gây ra. Bác sĩ lâm sàng có thể cần chủ động trong việc giải quyết các nguyên nhân về cơ thể có thể gây ra các triệu chứng tâm thần, đặc biệt là ở bệnh nhân không thể mô tả sức khỏe thể chất của họ vì họ có loạn thần hoặc mất trí.

Ngọc trai & cạm bẫy

  • Đừng cho rằng tất cả các triệu chứng tâm thần ở bệnh nhân có rối loạn tâm thần trước đó là do rối loạn đó.

Bệnh nhân tại cơ sở chăm sóc tâm thần đôi khi có rối loạn cơ thể chưa được chẩn đoán và các rối loạn cơ thể này không phải là nguyên nhân gây ra các triệu chứng tâm thần, tuy nhiên chúng cũng cần được đánh giá và điều trị. Những rối loạn như vậy có thể không liên quan (ví dụ, tăng huyết ápđau thắt ngực) hoặc do rối loạn tâm thần (ví dụ, suy dinh dưỡng do không có động lực ăn uống do tâm thần phân liệt mạn tính) hoặc do điều trị (ví dụ, suy giáp do lithium, tăng lipid máu thứ phát do thuốc chống loạn thần không điển hình).

Đánh giá y khoa theo tiền sử, khám cơ thể, và xét nghiệm hình ảnh não bộ và làm xét nghiệm máu (1) là cần thiết cho bệnh nhân

  • Các triệu chứng tâm thần mới khởi phát (nghĩa là, không có tiền sử những triệu chứng tương tự trước đó)

  • Các triệu chứng khác hoặc không mong đợi (nghĩa là bệnh nhân có rối loạn tâm thần được biết đến hoặc đã ổn định)

  • Các triệu chứng tâm thần bắt đầu ở độ tuổi không mong muốn (ví dụ, rối loạn tâm thần mới khởi phát ở người cao tuổi)

Mục tiêu của đánh giá y tế là chẩn đoán các rối loạn thể chất cơ bản và đồng thời hơn là chẩn đoán tâm thần cụ thể.

Lịch sử

Bệnh sử của bệnh hiện tại cần lưu ý đến bản chất của các triệu chứng và sự khởi phát của chúng, đặc biệt là khởi phát đột ngột hay khởi phát từ từ và liệu các triệu chứng có do những yếu tố nguy cơ có thể (ví dụ như chấn thương, bệnh lý, thời điểm bắt đầu hoặc ngừng sử dụng thuốc hay chất). Bác sĩ lâm sàng nên hỏi liệu bệnh nhân có các đợt triệu chứng tương tự trước đây, liệu rối loạn tâm thần đã được chẩn đoán và điều trị và trong những trường hợp như vậy, liệu bệnh nhân có ngừng dùng thuốc hay không.

Tổng quan hệ thống tìm kiếm các triệu chứng gợi ý các nguyên nhân có thể:

  • Nôn ói, tiêu chảy, hoặc cả hai: Mất nước, rối loạn điện giải

  • Đánh trống ngực: Cường giáp, ảnh hưởng của thuốc bao gồm hội chứng cai

  • Đa niệu và chứng uống nhiều: Đái tháo đường

  • Run: Bệnh Parkinson, hội chứng cai

  • Khó khăn khi đi bộ hoặc khó khăn khi nói: Bệnh xơ cứng rải rác, bệnh Parkinson, đột quỵ

  • Đau đầu: Nhiễm trùng CNS, đau nửa đầu phức tạp, xuất huyết, tổn thương dạng khối

  • Sốt, ho, khó thở, rối loạn tiểu tiện, hoặc tiêu chảy: Nhiễm trùng hệ thống

  • Giảm cân: Nhiễm trùng, ung thư, bệnh viêm ruột, cường giáp

  • Chứng dị cảm và cảm giác yếu: Thiếu vitamin, đột quỵ, bệnh mất myelin

  • Tái phát và thuyên giảm các triệu chứng thần kinh: Đa xơ cứng, viêm mạch

Tiền sử y khoa nên xác định những rối loạn cơ thể mạn tính có thể gây ra các triệu chứng tâm thần (ví dụ như bệnh tuyến giáp, gan, thận, tiểu đường, nhiễm HIV hoặc nhiễm COVID-19). Tất cả các loại thuốc theo toa và thuốc không kê toa cần được xem xét, và bệnh nhân nên được hỏi về bất kỳ việc sử dụng rượu hoặc sử dụng chất bất hợp pháp nào (liều lượng và thời gian). Tiền sử gia đình về rối loạn cơ thể, đặc biệt là bệnh tuyến giáp và chứng đa xơ cứng, cần được đánh giá. Các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng (ví dụ như quan hệ tình dục không bảo vệ, dùng chung bơm kim tiêm, tình trạng nhập viện gần đây, cư trú trong một cơ sở tập thể) cần được chú ý.

Khám thực thể

Các dấu hiệu quan trọng được xem xét, đặc biệt là sốt, thở nhanh, cao huyết áp, và nhịp tim nhanh. Trạng thái tâm thần được đánh giá, đặc biệt đối với các dấu hiệu lú lẫn hoặc mất sự chú ý.

Một đánh giá toàn diện về cơ thể, mặc dù tập trung vào

  • Các dấu hiệu nhiễm trùng (ví dụ, phản ứng màng não, tắc nghẽn phổi, đau sườn)

  • Khám thần kinh (bao gồm kiểm tra dáng đi và yếu cơ)

  • Soi đáy mắt để phát hiện các dấu hiệu tăng áp lực nội sọ (ví dụ, phù gai thị, tắc tĩnh mạch võng mạc)

Dấu hiệu của bệnh gan (ví dụ như vàng da, cổ trướng, dấu sao mạch) cần được lưu ý. Da được kiểm tra cẩn thận đối với các vết thương tự gây ra hoặc các bằng chứng khác của chấn thương bên ngoài (ví dụ, vết bầm tím).

Giải thích các dấu hiệu

Các phát hiện từ tiền sử và khám lâm sàng giúp giải thích nguyên nhân có thể và hướng dẫn kiểm tra và điều trị.

Lú lẫn và mất sự chú ý (làm giảm rõ rệt nhận thức về môi trường, gợi ý mê sảng), đặc biệt nếu đột ngột khởi phát, dao động, hoặc cả hai, chỉ ra sự hiện diện của một rối loạn cơ thể. Tuy nhiên, sự ngược lại thường là không đúng (nghĩa là một hệ cảm giác rõ ràng không khẳng định nguyên nhân là một rối loạn tâm thần). Các phát hiện khác cho thấy một nguyên nhân cơ thể bao gồm

  • Dấu hiệu sinh tồn bất thường (ví dụ sốt, nhịp tim nhanh, thở nhanh)

  • Các dấu hiệu và triệu chứng màng não (ví dụ, nhức đầu, sợ ánh sáng, cứng cổ)

  • Những bất thường được ghi nhận trong quá trình khám thần kinh, bao gồm chứng mất ngôn ngữ

  • Rối loạn dáng di, sự thăng bằng hoặc cả hai

  • Đại tiểu tiện không tự chủ

Một số phát hiện giúp đề xuất một nguyên nhân cụ thể, đặc biệt là khi các triệu chứng và dấu hiệu xuất hiện mới hoặc đã thay đổi từ một điểm ban đầu tương đối ổn định trong thời gian dài:

  • Đồng tử giãn (đặc biệt nếu đi kèm với làn da đỏ bừng, nóng, khô): Tác dụng của thuốc kháng cholinergic

  • Đồng tử co nhỏ: Hiệu quả của thuốc opioid hoặc xuất huyết ở cầu não

  • Giật nhãn cầu xoáy tròn và dọc: Nhiễm độc PCP

  • Giật nhãn cầu ngang: Thông thường đi kèm với độc tính diphenylhydantoin

  • Lời nói không rõ ràng hoặc không có khả năng nói: Một tổn thương não (ví dụ đột qụy)

  • Một tiền sử trước đó của sự tái phát – hồi phục các triệu chứng thần kinh, đặc biệt khi có liên quan đến nhiều dây thần kinh: Đa xơ cứng hoặc viêm mạch

  • Chứng dị cảm kiểu bít tất – bao tay: Có thể thiếu hụt thiamin hoặc vitamin B12

Ở những bệnh nhân có ảo giác, loại ảo giác không phải là chẩn đoán đặc hiệu, ngoại trừ ảo thanh ra lệnh hoặc giọng nói bình luận về hành vi của bệnh nhân có thể là rối loạn tâm thần.

Các triệu chứng bắt đầu ngay sau chấn thương nghiêm trọng hoặc sau khi bắt đầu một loại thuốc mới có thể là do những sự kiện đó. Lạm dụng ma túy hoặc rượu có thể hoặc không phải là nguyên nhân của các triệu chứng tâm thần; khoảng 10 đến 45% số bệnh nhân bị rối loạn tâm thần (thay đổi theo chẩn đoán) cũng có lạm dụng chất gây nghiện (chẩn đoán kép).

Ngọc trai & cạm bẫy

  • Rối loạn sử dụng chất gây nghiện có thể không phải là nguyên nhân gây ra các triệu chứng tâm thần mới; khoảng 10 đến 45% bệnh nhân rối loạn tâm thần đồng thời có rối loạn sử dụng chất gây nghiện.

Tài liệu tham khảo về giải thích các dấu hiệu

1. Toftdahl NG, Nordentoft M, Hjorthøj C: Prevalence of substance use disorders in psychiatric patients: A nationwide Danish population-based study. Social psychiatry and psychiatric epidemiology. Soc Psychiatry Psychiatr Epidemiol 51(1):129-140, 2016. doi: 10.1007/s00127-015-1104-4.

Thử nghiệm khác nhau tùy thuộc vào các dấu hiệu và triệu chứng. Nếu bệnh nhân có tiền sử rối loạn tâm thần có triệu chứng trầm trọng hơn và họ không có phàn nàn về y khoa, một hệ cảm giác bình thường và một cuộc kiểm tra sức khỏe bình thường (bao gồm các dấu hiệu quan trọng, đo nồng độ oxy trong mạch, và kiểm tra đường máu ngón tay), họ thường không yêu cầu thêm xét nghiệm trong phòng thí nghiệm ngoài việc đo nồng độ thuốc điều trị.

Mặc dù các triệu chứng tâm thần mới khởi phát hoặc sự thay đổi rõ rệt về bản chất của các triệu chứng ở những bệnh nhân mắc chứng rối loạn tâm thần đã biết có thể là do bệnh lý thay vì rối loạn tâm thần, nhưng vẫn chưa rõ mức độ phổ biến của chứng rối loạn đó và không có sự thống nhất về xét nghiệm thường quy trong phòng thí nghiệm. của những bệnh nhân không có triệu chứng về mặt y tế. Một số bác sĩ lâm sàng thực hiện một hoặc nhiều điều sau đây để sàng lọc các rối loạn tiềm ẩn:

  • Công thức máu toàn phần

  • Nồng độ chất điện giải trong huyết thanh (bao gồm canxi và magiê), urê máu, và creatinine

  • Tốc độ máu lắng hoặc Protein phản ứng C, CRP

  • Xét nghiệm HIV

  • Xét nghiệm nước tiểu

Xét nghiệm điện giải và chức năng thận có thể có ý nghĩa chẩn đoán và giúp cho việc quản lý thuốc tiếp theo (ví dụ thuốc cần điều chỉnh ở bệnh nhân suy thận).

Bệnh nhân có các dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh lý nên làm xét nghiệm thích hợp để chẩn đoán bệnh lý:

  • CT sọ não: Những bệnh nhân có triệu chứng tâm, thần mới khởi phát hoặc bị mê sảng, đau đầu, tiền sử chấn thương gần đây, hoặc những dấu hiệu thần kinh khu trú (ví dụ, yếu một chi)

  • Chọc dò thắt lưng: Bệnh nhân có dấu hiệu màng não hoặc với các kết quả chụp CT sọ não bình thường với biểu hiện sốt, đau đầu, hoặc mê sảng

  • Xét nghiệm chức năng tuyến giáp: Bệnh nhân sử dụng lithium, những người có các triệu chứng hoặc dấu hiệu bệnh tuyến giáp, và những người > 40 tuổi với các triệu chứng tâm thần mới khởi phát (đặc biệt là phụ nữ hoặc những bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc bệnh tuyến giáp)

  • Chụp X-quang ngực: Bệnh nhân có độ bão hòa oxy thấp, sốt, ho có đờm hoặc ho ra máu

  • Nuôi cấy máu: Những bệnh nhân nặng có sốt

  • Xét nghiệm gan: Bệnh nhân có các triệu chứng hoặc dấu hiệu bệnh gan, có tiền sử nghiện rượu hoặc ma túy, hoặc không ghi nhận được tiền sử bệnh trước đó

Ít thường xuyên hơn, các phát hiện có thể gợi ý làm xét nghiệm lupus ban đỏ hệ thống, giang mai, rối loạn mất myelin, bệnh Lyme, hoặc thiếu hụt thiamin hoặc vitamin B12, đặc biệt ở những bệnh nhân có biểu hiện mất trí.

Sàng lọc độc chất học (ví dụ, kiểm tra ma túy trong nước tiểu, nồng độ cồn trong máu) được thực hiện nếu bệnh nhân có tiền sử rối loạn sử dụng chất gây nghiện hoặc các dấu hiệu thể chất gợi ý nhiễm độc hoặc sử dụng ma túy gần đây (ví dụ, vết kim tiêm).

Tài liệu tham khảo về đánh giá

1. Anderson EL, Nordstrom K, Wilson MP, et al: American Association for Emergency Psychiatry Task Force on Medical Clearance of Adults: Part I: Introduction, review and evidence-based guidelines. West J Emerg Med 18 (2):235–242, 2017. doi: 10.5811/westjem.2016.10.32258.

Bệnh nhân đang trải qua những thay đổi trầm trọng về cảm xúc, suy nghĩ, hoặc hành vi hoặc các tác dụng phụ nặng nề do thuốc có thể đe dọa đến tính mạng cần phải được đánh giá và điều trị khẩn cấp. Những bác sĩ không chuyên khoa thường là nhà cung cấp chăm sóc đầu tiên cho bệnh nhân ngoại trú và bệnh nhân nội trú ở các đơn vị y tế, nhưng bất cứ khi nào có thể, những trường hợp như vậy nên được đánh giá bởi một bác sĩ tâm thần.

Khi cảm xúc, suy nghĩ, hoặc hành vi của bệnh nhân rất bất thường hoặc rối loạn, trước tiên phải đánh giá xem bệnh nhân là mối

  • Đe dọa đối với bản thân

  • Đe dọa đối với người khác

Mối đe dọa đối với bản thân có thể bao gồm không có khả năng chăm sóc bản thân (dẫn đến bê tha) hoặc hành vi tự sát. Sự bê tha là một mối quan tâm đặc biệt đối với bệnh nhân có rối loạn tâm thần, sa sút trí tuệ, hoặc lạm dụng chất bởi vì sự suy giảm trong khả năng tìm thức ăn, mặc quần áo và sự bảo vệ thích hợp từ các yếu tố.

Những bệnh nhân gây ra mối đe dọa cho người khác bao gồm những người

  • Tích cực bạo lực (tức là chủ động hành hung nhân viên, ném và đập phá đồ đạc)

  • Có vẻ hiếu chiến và thù địch (tức là có khả năng bạo lực)

  • Không tỏ ra đe dọa giám định viên và các nhân viên nhưng thể hiện ý định làm hại người khác (ví dụ, vợ/chồng, hàng xóm, người của công chúng)

Việc xác định những người chăm sóc đang trong môi trường không an toàn và thích hợp khi chăm sóc những người phụ thuộc cũng là một vấn đề quan trọng.

Nguyên nhân

Những bệnh nhân gây hấn, bạo lực thường là loạn thần và thường có những chẩn đoán như rối loạn chất,,tâm thần phân liệtrối loạn loạn thần cấprối loạn hoang tưởng, hoặc hưng cảm cấp tính. Các nguyên nhân khác bao gồm rối loạn thực thể gây mê sảng cấp tính (xem Các lĩnh vực cần đề cập trong đánh giá tâm thần ban đầu), mất trí nhớ và ngộ độc rượu hoặc các chất khác, đặc biệt là methamphetaminecocaine, và đôi khi là phencyclidine (PCP) và ma túy câu lạc bộ (ví dụ, MDMA [ 3,4-metylenedioxymethamphetamine]).

Một tiền sử bạo lực hoặc gây hấn trước đây là một yếu tố tiên lượng cao cho những giai đoạn tiếp theo trong tương lai.

Quản lý các trường hợp cấp cứu hành vi thường xảy ra đồng thời với việc đánh giá, đặc biệt là đánh giá một rối loạn cơ thể có thể (xem đánh giá y tế của bệnh nhân có triệu chứng tâm thần); một sai lầm khi cho rằng nguyên nhân của hành vi bất thường là rối loạn tâm thần hoặc do ngộ độc, thậm chí ở những bệnh nhân đã có chẩn đoán tâm thần trước đó hoặc có mùi rượu. Vì bệnh nhân thường không thể hoặc không muốn cung cấp một tiền sử rõ ràng, cần phải xác định và khai thác ngay các nguồn thông tin quan trọng khác (ví dụ như từ các thành viên trong gia đình, bạn bè, người giúp việc, hồ sơ bệnh án).

Ngọc trai & cạm bẫy

  • Không nên giả định rằng nguyên nhân của hành vi bất thường là rối loạn tâm thần hoặc tình trạng ngộ độc, ngay cả ở những bệnh nhân có chẩn đoán tâm thần trước đó hoặc có mùi rượu.

Bác sĩ lâm sàng phải biết rằng bệnh nhân bạo lực có thể có hành vi bạo lực hướng đến nhóm điều trị và các bệnh nhân khác.

Những bệnh nhân bạo lực một cách chủ động trước tiên phải được kiềm chế bởi

  • Các phương tiện vật lý

  • Thuốc (sự kiềm chế hóa học)

  • Cả hai

Những can thiệp như vậy được thực hiện để ngăn ngừa nguy hại cho bệnh nhân và những người khác và cho phép đánh giá nguyên nhân của hành vi (ví dụ bằng cách đo các dấu hiệu sinh tồn và làm xét nghiệm máu). Khi bệnh nhân được kiềm chế, phải theo dõi chặt chẽ, đôi khi cần phải quan sát thường xuyên bởi người chăm sóc đã được huấn luyện. Những bệnh nhân ổn định về mặt y khoa có thể được đặt trong một phòng tách biệt an toàn. Mặc dù các bác sĩ lâm sàng phải nhận thức được các vấn đề pháp lý liên quan đến điều trị không tự nguyện (xem thêm Các vấn đề về quy định trong việc sử dụng các biện pháp kiềm chế thể chất ở bệnh nhân hung hăng, bạo lực), những vấn đề như vậy không được làm trì hoãn những can thiệp có ý nghĩa sống còn.

Bệnh nhân tiềm ẩn tính bạo lực đòi hỏi các biện pháp để xoa dịu tình hình. Các biện pháp có thể làm giảm bớt sự kích động và sự gây hấn bao gồm

  • Di chuyển bệnh nhân đến một môi trường yên tĩnh, bình lặng (ví dụ, một phòng tách riêng, nếu có)

  • Loại bỏ các đồ vật có thể được sử dụng để gây hại cho bản thân hoặc người khác

  • Thể hiện sự quan tâm đồng cảm đến bệnh nhân và những phàn nàn của họ

  • Phản ứng một cách quyết đoán nhưng mang tính chất hỗ trợ

  • Tìm hiểu những gì có thể thực hiện đươc để giải quyết nguyên nhân của sự kích động hoặc sự gây hấn

Lời nói trực tiếp – cho thấy rằng bệnh nhân có vẻ tức giận hoặc buồn bực, hỏi họ rằng liệu họ có ý định làm tổn thương ai đó không – thừa nhận cảm xúc của họ và có thể đưa ra thông tin; điều này không làm tăng khả năng thực hiện hành vi của họ.

Các biện pháp phản tác dụng bao gồm

  • Thách thức nỗi sợ hãi và sự phàn nàn của bệnh nhân

  • Đưa ra các mối đe dọa (ví dụ, gọi cảnh sát, đưa họ vào bệnh viện tâm thần)

  • Nói theo cách chiếu cố

  • Cố gắng đánh lừa bệnh nhân (ví dụ, giấu thuốc trong thực phẩm, hứa hẹn rằng họ sẽ không bị kiềm chế)

An toàn nhân viên và cộng đồng

Khi những bệnh nhân thù địch và hiếu chiến được phỏng vấn, sự an toàn của nhân viên phải được xem xét. Hầu hết các bệnh viện có chính sách tìm kiếm vũ khí (bằng tay, với máy dò kim loại, hoặc cả hai) trên những bệnh nhân có rối loạn hành vi. Khi có thể, bệnh nhân cần được đánh giá trong một khu vực có tính năng an toàn như camera an ninh, máy dò kim loại, và phòng phỏng vấn mà nhân viên có thể thấy được.

Những bệnh nhân thù địch nhưng không bạo lực thường không tấn công các nhân viên một cách ngẫu nhiên; thay vào đó, họ tấn công các nhân viên tỏ thái độ tức giận hoặc dường như đe dọa họ. Cửa phòng nên để mở. Nhân viên cũng có thể tránh sự đe dọa bằng cách ngồi cùng hàng với bệnh nhân. Nhân viên có thể tránh làm bệnh nhân tức giận bằng cách không phản ứng với sự thù địch với những lời nhận xét đầy giận dữ, to tiếng hoặc tranh cãi. Tuy nhiên nếu bệnh nhân ngày càng xuất hiện kích động và bạo lực, nhân viên đơn giản chỉ nên rời khỏi phòng và triệu tập thêm nhân viên bổ sung để tạo ra một lực lượng đầy đủ, đôi khi ngăn cản được bệnh nhân. Thông thường, ít nhất 4 hoặc 5 người nên có mặt (một số trường hợp tốt hơn là người trẻ và nam giới). Tuy nhiên, nhóm làm việc không nên mang dụng cụ trói, kiềm chế vào phòng, trừ khi chắc chắn cần phải sử dụng; rõ ràng sự kiềm chế có thể làm bệnh nhân kích động hơn nữa.

Các mối đe dọa bằng lời nói phải được xem xét nghiêm túc. Ở hầu hết các tiểu bang, khi bệnh nhân bày tỏ ý định gây hại cho một người cụ thể, việc đánh giá thể chất cần được yêu cầu để cảnh báo nạn nhân và thông báo cho cơ quan thực thi pháp luật cụ thể. Các yêu cầu cụ thể khác nhau theo từng tiểu bang. Thông thường, các quy định của bang cũng yêu cầu báo cáo về tình trạng ngược đãi lạm dụng trẻ em, người cao tuổi và vợ hoặc chồng.

Việc sử dụng kiềm chế bằng các phương tiện vật lý là một vấn đề gây tranh cãi và chỉ nên được xem xét khi các phương pháp khác thất bại và bệnh nhân tiếp tục gây nguy hiểm đáng kể cho bản thân hoặc người khác. Sự kiềm chế có thể cần thiết để giữ bệnh nhân đủ lâu để cho uống thuốc, thực hiện một đánh giá đầy đủ, hoặc cả hai. Bởi vì sự kiềm chế được áp dụng mà không có sự chấp thuận của bệnh nhân, nên xem xét một số vấn đề luật pháp và đạo đức nhất định (xem Các vấn đề về quy định việc sử dụng các biện pháp thể chất ở bệnh nhân hung hăng, bạo lực).

Các vấn đề quy định trong việc sử dụng sự kiềm chế bằng vật lý ở những bệnh nhân có hành vi gây hấn, bạo lực

Sử dụng sự kiềm chế bằng phương pháp vật lý nên được coi là phương án cuối cùng, khi các bước khác chưa kiểm soát đầy đủ các hành vi hung hăng, có khả năng bạo lực. Khi biện pháp kiềm chế là cần thiết cho tình huống như vậy, chúng là hợp pháp ở tất cả các tiểu bang miễn là việc sử dụng chúng là hợp lý và được ghi chép đúng cách trong hồ sơ bệnh án của bệnh nhân. Sự kiềm chế có lợi thế là có thể loại bỏ ngay tức khắc, trong khi thuốc có thể làm thay đổi các triệu chứng hoặc theo cách làm trì hoãn việc đánh giá.

Các Joint Commission on Accreditation of Healthcare Organizations Standards on Restraint and Seclusion cung cấp hướng dẫn sử dụng các phương pháp kiềm chế trong các cơ sở tâm thần. Họ nêu rõ rằng các biện pháp hạn chế phải được áp dụng dưới sự hướng dẫn của một bác sĩ có giấy phép hành nghề (LP), người được chính sách bệnh viện cho phép theo luật tiểu bang để làm như vậy. LP phải đánh giá bệnh nhân trong giờ đầu tiên khi bị kiềm chế. Y lệnh về việc tiếp tục kiềm chế người lớn có thể được viết 4 giờ một lần. Bệnh nhân phải được đánh giá bởi một LP hoặc y tá đã đăng ký hành nghề trong khoảng thời gian 4 tiếng và trước khi tiếp tục thực hiện sự kiềm chế. Sau khoảng thời gian tối thiểu do luật tiểu bang quy định và không dài hơn 24 giờ, LP phải trực tiếp đánh giá lại bệnh nhân trước khi tiếp tục lệnh cấm. Trẻ em từ 9-17 tuổi phải được đánh giá mỗi 2 giờ và những người < 9 tuổi, mỗi giờ một lần.

Các tiêu chuẩn cấp phép của bệnh viện yêu cầu các bệnh nhân khi bị kiềm chế phải được quan sát liên tục bởi một người chăm sóc đã được huấn luyện. Ngay sau khi áp dụng biện pháp kiềm chế, bệnh nhân phải được theo dõi các dấu hiệu tổn thương; dấu hiệu tuần hoàn, vận động, dinh dưỡng và nước uống, các dấu hiệu sinh tồn, vệ sinh và sự bài tiết cũng cần được theo dõi. Sự thoải mái về thể chất và tinh thần cũng như sự sẵn sàng cho việc ngừng sử dụng biện pháp kiềm chế khi thích hợp cũng được đánh giá. Những đánh giá này nên được thực hiện mỗi 15 phút một lần.

Sự tách biệt và sự kiềm chế nên được sử dụng đồng thời chỉ trong những trường hợp đặc biệt và với sự giám sát liên tục.

Kiềm chế được sử dụng để

  • Ngăn ngừa các tác hại rõ ràng, sắp xảy ra cho bệnh nhân hoặc người khác

  • Ngăn ngừa việc điều trị y tế cho bệnh nhân bị gián đoạn (ví dụ giật dây truyền hoặc chai truyền) khi có sự chấp thuận cho việc điều trị

  • Ngăn ngừa thiệt hại về vật chất đối với môi trường xung quanh, nhân viên, hoặc những bệnh nhân khác

  • Ngăn ngừa bệnh nhân được yêu cầu điều trị không tự nguyện trốn viện (khi không có sẵn phòng có khóa)

Không nên sử dụng phương pháp kiềm chế đối với mục đích

  • Trừng phạt

  • Thuận tiện cho nhân viên (ví dụ, để tránh bệnh nhân đi lang thang)

Cần thận trọng đối với những bệnh nhân tự sát, họ có thể sử dụng phương tiện kiềm chế như một phương tiện thực hiện hành vi tự sát.

Thủ thuật

Việc hạn chế chỉ nên được áp dụng bởi các nhân viên được đào tạo đầy đủ các kỹ thuật chính xác và bảo vệ quyền và sự an toàn của bệnh nhân.

Thứ nhất, nhân viên được tập hợp trong phòng, và bệnh nhân được thông báo rằng phải áp dụng các biện pháp kiềm chế. Bệnh nhân được khuyến khích hợp tác để tránh sự kháng cự. Tuy nhiên, một khi bác sĩ lâm sàng đã xác định rằng cần phải có sự kiềm chế, sẽ không có sự thương lượng và bệnh nhân được cho biết sẽ áp dụng các biện pháp kiềm chế cho dù họ có đồng ý hay không. Một số người thực sự hiểu và cho rằng cần có những giới hạn bên ngoài về hành vi của họ.

Để chuẩn bị áp dụng các biện pháp kiềm chế, mỗi người sẽ phụ trách một chi và một người khác phụ trách phần đầu của bệnh nhân. Sau đó, mỗi người đồng thời nắm phần chi đã được chỉ định và đặt bệnh nhân nằm ngửa trên giường; một người có thể chất tốt thường có thể kiểm soát được một phần chi thậm chí của những bệnh nhân cao lớn, bạo lực (tất cả các chi đều được kiểm soát cùng một lúc). Tuy nhiên, cần thêm một người để áp dụng các biện pháp kiềm chế. Hiếm gặp, những bệnh nhân cực kỳ hiếu chiến trước tiên có thể nên được kẹp giữa 2 nệm.

Sự kiềm chế bằng dây da được ưa chuộng hơn. Sự kiềm chế được áp dụng cho mỗi mắt cá chân và cổ tay và gắn vào khung giường, chứ không phải vào các tay vịn. Sự kiềm chế bị cấm không được áp dụng quanh ngực, cổ, hoặc đầu, và quanh miệng (ví dụ, để ngăn chặn nhổ nước bọt và chửi thề). Những bệnh nhân vẫn tiếp tục hiếu chiến khi bị kiềm chế (ví dụ, cố gắng đánh người, cắn hoặc nhổ) đòi hỏi sự kiềm chế bằng hóa học.

Các biến chứng

Người kích động hoặc bạo lực được đưa đến bệnh viện bởi cảnh sát hầu như luôn bị kiềm chế (ví dụ còng tay). Đôi khi, những người trẻ, khỏe mạnh đã chết trong sự kiềm chế của cảnh sát trước hoặc ngay sau khi đến bệnh viện. Nguyên nhân thường không rõ ràng nhưng có thể liên quan đến sự kết hợp của sự rối loạn chuyển hóa sau đó và tăng thân nhiệt quá mức, sử dụng ma túy, hít các chất từ dạ dày vào hệ thống hô hấp, tắc mạch ở những người bị kiềm chế trong một thời gian dài và đôi khi có thể liên quan đến các rối loạn y khoa nghiêm trọng tiềm tàng. Tử vong thường xảy ra hơn nếu bệnh nhân bị kiềm chế ở tư thế khó khăn, với một hoặc hai cổ tay còng vào mắt cá chân ở phía sau lưng; loại kiềm chế này có thể gây ngạt thở và nên được tránh. Vì những biến chứng này nên các bệnh nhân bạo lực bị giam giữ trong đồn cảnh sát cần được đánh giá nhanh chóng và triệt để và không nên bị bỏ mặc vì có vấn đề về hành vi xã hội.

Liệu pháp hóa dược, nếu được sử dụng, nên nhắm mục tiêu kiểm soát các triệu chứng cụ thể.

Thuốc

Bệnh nhân thường có thể nhanh chóng trở nên bình tĩnh hoặc yên dịu bằng cách sử dụng

  • Benzodiazepine

  • Thuốc chống loạn thần (thường là thuốc chống loạn thần điển hình, nhưng có thể dùng thuốc thế hệ 2)

Những thuốc này dễ được điều chỉnh và có tác dụng nhanh hơn và đáng tin cậy hơn khi dùng đường tiêm tĩnh mạch (xem bảng Điều trị bằng Thuốc cho Bệnh nhân Kích động hoặc Bạo lực), nhưng việc sử dụng đường tiêm bắp có thể là cần thiết khi không thể sử dụng thuốc đường tĩnh mạch với những bệnh nhân chống đối. Cả hai loại thuốc đều là có tác dụng an dịu hiệu quả cho những bệnh nhân kích động, bạo lực. Benzodiazepine có thể được ưu tiên dùng cho các trường hợp quá liều thuốc kích thần và các hội chứng cai rượu và hội chứng cai thuốc benzodiazepine, và thuốc an thần kinh được ưa thích hơn trong những trường hợp các rối loạn tâm thần đã biết trở nên trầm trọng hơn. Đôi khi một sự kết hợp của cả hai loại thuốc có hiệu quả hơn; khi liều lượng lớn của một loại thuốc không mang lại hiệu quả mong muốn đầy đủ, sử dụng một loại thuốc khác thay vì tiếp tục tăng liều thuốc thứ nhất có thể hạn chế các tác dụng phụ.

Tác dụng phụ của thuốc benzodiazepine

Các tiền chất của benzodiazepine, đặc biệt là ở liều đôi khi cần cho những bệnh nhân cực kỳ bạo lực, có thể gây ức chế hô hấp. Quản lý đường thở bằng đặt nội khí quản và hỗ trợ thông khí có thể được yêu cầu. Các thuốc đối vận với benzodiazepine, flumazenil, có thể được sử dụng, nhưng cần phải thận trọng vì nếu tác dụng an dịu bị đảo ngược đáng kể, vấn đề hành vi ban đầu có thể xuất hiện trở lại.

Benzodiazepine đôi khi càng dẫn đến mất sự ức chế hành vi.

Liệu pháp hóa dược cho những bệnh nhân kích động hoặc bạo lực

Thuốc uống

Liều dùng

Bình luận

Aripiprazole

9,75 mg tiêm bắp (có thể lặp lại liều 9,75 mg mỗi 2 giờ [tối đa 30 mg/ngày]; 5,25 mg cho người già hoặc người có thân hình nhỏ)

Đáp ứng với aripiprazole nên được theo dõi ở những bệnh nhân dùng thuốc giảm (carbamazepine) hoặc tăng nồng độ (fluoxetine, paroxetine).

Haloperidol

Uống 1–10 mg, tiêm bắp (cơ delta), hoặc theo đường tĩnh mạch 15 phút một lần khi cần (1–2,5 mg đối với kích động nhẹ và bệnh nhân cao tuổi hoặc dễ bị tổn thương; 2,5–5 mg đối với kích động trung bình; 5–10 mg đối với kích động nặng)

Haloperidol thường chỉ được yêu cầu nếu rối loạn tâm thần rõ ràng. Thuốc có thể làm cho một số tình trạng ngộ độc chất (ví dụ, với phencyclidine) trở nên tồi tệ hơn và có thể gây rối loạn trương lực cơ. 

Có thể dùng dạng cô đặc lỏng, hấp thu nhanh nếu bệnh nhân có thể dùng thuốc qua đường uống.

Ức chế hô hấp không xảy ra.

Lorazepam

0,5-2 mg 10-30 phút một lần, tiêm bắp (cơ delta) hoặc đường tĩnh mạch khi cần

IV được ưu tiên hơn vì sự hấp thu từ tiêm IM có thể là thất thường.

Ức chế hô hấp là có thể.

Midazolam

2,5–5 mg 3-5 phút một lần, đường tĩnh mạch hoặc 5–10 phút một lần tiêm bắp (cơ delta) nếu cần

IV được ưu tiên hơn vì sự hấp thu từ tiêm IM có thể là thất thường.

Ức chế hô hấp là có thể.

Olanzapine

10 mg IM (có thể lặp lại 10 mg x 20 phút hai lần [tối đa 30 mg/ngày])

Một số bác sĩ lâm sàng có thể dùng đường tiêm tĩnh mạch liều 5 mg.

Ziprasidone

10-20 mg IM (có thể lặp lại liều 10 mg mỗi 2 giờ hoặc liều 20 mg mỗi 4 giờ, tối đa, 40 mg/ngày)

Có thể cần theo dõi ECG.

Cần tránh dùng đồng thời với carbamazepine và ketoconazole.

Tác dụng phụ của thuốc an thần kinh

Thuốc an thần kinh, đặc biệt thuốc kháng thể thụ thể dopamine, ở liều điều trị cũng như liều độc, có thể có các tác dụng ngoại tháp cấp tính, (xem bảng các tác dụng phụ thuốc chống loạn thần) bao gồm loạn trương lực cơ cấp và bồn chồn (một cảm giác khó chịu của tình trạng không ngơi nghỉ về vận động). Những tác dụng phụ này có thể phụ thuộc vào liều và có thể được giải quyết khi ngừng thuốc.

Một số thuốc an thần kinh, bao gồm thioridazine, haloperidol, droperidol, olanzapine, risperidone và ziprasidone có thể gây ra hội chứng QT kéo dài và cuối cùng làm tăng nguy cơ của tình trạng loạn nhịp nguy hiểm. Hội chứng an thần kinh ác tính cũng là một khả năng.

Bệnh nhân có những thay đổi trầm trọng về cảm xúc, tư duy hoặc hành vi thường phải nằm viện khi tình trạng của họ có thể xấu đi mà không có sự can thiệp tâm thần và khi không có các lựa chọn thay thế thích hợp.

Sự đồng ý và điều trị không tự nguyện

Nếu bệnh nhân từ chối nhập viện, bác sĩ phải quyết định có giữ họ trái với ý muốn của họ hay không. Làm như vậy có thể là cần thiết để đảm bảo sự an toàn tức thời của bệnh nhân hoặc của người khác hoặc cho phép hoàn thành sự đánh giá và thực hiện điều trị.

Các tiêu chí và thủ tục cho việc nhập viện không tự nguyện khác nhau bởi quyền lực pháp lý. Thông thường, việc nhập viện không tự nguyện cần có bác sĩ hoặc nhà tâm lý học và thêm một bác sĩ lâm sàng, thành viên gia đình hoặc người thân cận để xác nhận rằng bệnh nhân bị rối loạn tâm thần, gây nguy hiểm cho bản thân hoặc người khác và từ chối điều trị tự nguyện. Bác sĩ cần phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ với những trường hợp điều trị hóa dược cho trẻ nhỏ.

Nguy hiểm cho bản thân bao gồm nhưng không giới hạn những tình huống sau

  • Ý tưởng tự sát hoặc toan tự sát

  • Không đảm bảo các nhu cầu cơ bản, bao gồm dinh dưỡng, nơi trú ẩn, và thuốc cần thiết

Trong hầu hết các quyền hạn pháp lý, sự nhận thấy một ý tưởng tự sát đòi hỏi một bác sĩ chăm sóc sức khỏe phải hành động ngay để ngăn chặn tự sát, ví dụ bằng cách thông báo cho cảnh sát hoặc cơ quan có trách nhiệm khác.

Nguy hiểm cho người khác bao gồm

  • Thể hiện mục đích giết người

  • Đặt người khác vào tình trạng nguy hiểm

  • Không đảm bảo đối với các nhu cầu hoặc sự an toàn của người phụ thuộc vì rối loạn tâm thần

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)

Rối loạn lo âu và các rối loạn liên quan tới stress

Rối loạn lo âu được đặc trưng bởi nỗi sợ hãi và lo lắng dai dẳng và quá mức cũng như những thay đổi rối loạn chức năng hành vi mà bệnh nhân có thể sử dụng để giảm thiểu những cảm giác này. Các loại rối loạn lo âu được phân biệt với nhau dựa trên các đối tượng hoặc tình huống cụ thể gây ra nỗi sợ hãi, lo lắng và những thay đổi hành vi liên quan.

Mỗi người thường trải qua nỗi sợ hãi và lo âu.

Sợ hãi là phản ứng cảm xúc, thể chất và hành vi đối với một mối đe dọa có thể nhận biết được diễn ra tức thì từ bên ngoài (ví dụ như kẻ đột nhập, một chiếc xe ô tô quay trên băng).

Lo âu là một trạng thái cảm xúc căng thẳng, khó chịu của sự lo sợ và không thoải mái; nguyên nhân thường không rõ ràng. Lo âu ít gắn liền với thời gian chính xác của một mối đe dọa; nó có thể được dự đoán trước một mối đe dọa, tồn tại sau khi một mối đe dọa đã trôi qua, hoặc xảy ra mà không có một mối đe dọa có thể nhận biết được.

Mọi người thường trải qua cả nỗi sợ hãi và lo lắng khi có những thay đổi trong cơ thể (ví dụ như đổ mồ hôi, buồn nôn) và hành vi của họ (ví dụ như tránh né, tức giận). Thông thường, mọi người nhận thức được những thay đổi về thể chất và hành vi này mà không xác định rõ ràng rằng họ đang lo lắng hay sợ hãi.

Lo lắng thích ứng có thể giúp thúc đẩy mọi người chuẩn bị, luyện tập và diễn tập; nó cũng có thể khuyến khích việc thận trọng thích hợp trong các tình huống nguy hiểm tiềm tàng. Tuy nhiên, khi lo lắng gây ra rối loạn chức năng và đau khổ quá mức, nó được coi là không thích hợp và do đó được coi là rối loạn tâm thần.

Rối loạn lo âu phổ biến hơn bất kỳ loại rối loạn tâm thần nào khác, với khoảng một phần ba số người đáp ứng tiêu chuẩn về mắc chứng rối loạn lo âu tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời của họ (1, 2). Tuy nhiên, rối loạn lo âu có xu hướng ít được chẩn đoán và có thể liên quan đến ý nghĩ tự tử và toan tự sát.

Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, ấn bản thứ 5, Bản sửa đổi Văn bản (DSM-5-TR) liệt kê các chứng rối loạn lo âu khác nhau theo thứ tự độ tuổi khởi phát điển hình (3):

  • Rối loạn lo âu chia ly

  • Câm nín chọn lọc

  • Nỗi ám ảnh cụ thể (động vật, môi trường tự nhiên, vết thương do tiêm máu, tình huống)

  • Rối loạn lo âu xã hội

  • Rối loạn hoảng sợ

  • Sợ khoảng trống

  • Rối loạn lo âu lan tỏa

  • Rối loạn lo âu do chất kích thích/thuốc

  • Lo lắng do một tình trạng bệnh lý khác

  • Rối loạn lo âu cụ thể khác (áp dụng khi bệnh nhân có các triệu chứng đáng kể nhưng không đáp ứng tiêu chuẩn về bất kỳ rối loạn lo âu cụ thể nào)

Lo lắng về sự chia ly và câm nín chọn lọc có xu hướng phát sinh trong thời thơ ấu, trong khi các rối loạn khác được liệt kê ở trên thường phát triển ở tuổi trưởng thành.

Rối loạn lo âu do chất kích thích/thuốc và lo lắng do một tình trạng bệnh lý khác phải luôn được nghĩ đến khi mọi người có biểu hiện lo âu đáng kể.

Các rối loạn khác thường gây lo âu nổi bật bao gồm rối loạn căng thẳng cấp tínhrối loạn điều chỉnh và rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD). Bởi vì các tình trạng này được coi là phát sinh từ những trải nghiệm đau thương hoặc trải nghiệm căng thẳng nên đã được phân nhóm riêng biệt trong DSM-5-TR.

Rối loạn lo âu có xu hướng phức tạp cao với các tình trạng bệnh lý và tình trạng tâm thần khác. Trầm cảmrối loạn sử dụng chất kích thíchrối loạn nhân cách và các rối loạn lo âu khác là những bệnh đi kèm đặc biệt phổ biến, cũng như bệnh tim mạch, hen suyễn, đau nửa đầu và viêm khớp. Vì rối loạn lo âu thường xuất hiện trước các bệnh tâm thần đồng mắc khác nên việc điều trị sớm và hiệu quả chứng rối loạn lo âu có thể ngăn ngừa hoặc giảm thiểu sự phát triển của các bệnh này.

Tài liệu tham khảo chung

1. Bandelow B, Michaelis S: Epidemiology of anxiety disorders in the 21st century. Dialogues Clin Neurosci 17(3):327-335, 2015. doi: 10.31887/DCNS.2015.17.3/bbandelow

2. Penninx BW, Pine DS, Holmes EA, et al: Anxiety disorders. Lancet 97(10277):914-927, 2021. doi: 10.1016/S0140-6736(21)00359-7

3. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 215-262.

Không có một gen hay nguyên nhân tâm lý nào gây ra chứng rối loạn lo âu, nhưng các tình trạng này dường như phát sinh trong bối cảnh các yếu tố sinh lý xã hội điển hình. Rối loạn lo âu có xu hướng di truyền trong gia đình và tình trạng này xảy ra thông qua ít nhất 2 cơ chế (1):

  • Đặc điểm “ức chế hành vi” thời thơ ấu dường như được di truyền phần nào và đặc điểm đó có liên quan đến việc tăng nguy cơ bị rối loạn lo âu ở tuổi thiếu niên.

  • Nỗi sợ hãi và sự tránh né xã hội có thể được truyền sang trẻ em thông qua việc làm gương của cha mẹ và/hoặc những trải nghiệm đau thương ban đầu có thể bao gồm việc bị ngược đãi khi còn nhỏ hoặc mắc các bệnh nội khoa (ví dụ như hen suyễn). Người ta đưa ra giả thuyết rằng những trải nghiệm và khả năng dễ bị tổn thương về mặt di truyền này khiến một số trẻ em chú ý một cách bất thường đến các phản ứng thể chất và cảm xúc của chính trẻ trước căng thẳng, sau đó có thể dẫn đến rối loạn hoảng sợ và rối loạn lo âu xã hội.

Tuy nhiên, nhiều người mắc chứng rối loạn lo âu mà không có nguyên nhân gây ra nào có thể xác định được. Ví dụ, hầu hết những người mắc chứng sợ rắn đều chưa bao giờ bị rắn cắn và không kể lại trải nghiệm đau thương đặc trưng. Lo lắng cũng có thể là một phản ứng với các tác nhân gây căng thẳng về môi trường và xã hội trong tuổi trưởng thành, chẳng hạn như kết thúc một mối quan hệ quan trọng hoặc gặp phải một thảm họa đe dọa tính mạng, mặc dù hầu hết những người gặp phải các tác nhân gây căng thẳng như vậy không tiếp tục phát triển chứng rối loạn lo âu.

Nhiều chất dẫn truyền thần kinh có liên quan đến sự phát triển của chứng rối loạn lo âu. Hai chất dẫn truyền thần kinh chiếm ưu thế là GABA và glutamate, đóng vai trò quan trọng, cũng như các chất dẫn truyền thần kinh khác như serotonin, norepinephrine và dopamine. Những chất dẫn truyền thần kinh này đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến việc lựa chọn thuốc.

Một số rối loạn bệnh lý có thể trực tiếp gây ra lo lắng. Các rối loạn này bao gồm hen suyễnloạn nhịp timbệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD)suy timcường giáphội chứng Cushing và u tế bào ưa crôm.

Các loại thuốc dùng để điều trị một số rối loạn bệnh lý cũng có thể gây ra lo lắng như một triệu chứng. Bao gồm

  • Hen suyễn (albuterol, corticosteroid, theophylline)

  • Rối loạn tăng động/giảm chú ý (thuốc kích thích và các chất kích thích khác)

  • Bệnh cường giáp (levothyroxine, liothyronine)

  • Dị ứng theo mùa (thuốc kháng histamine và thuốc chống sung huyết mũi)

  • Rối loạn co giật (phenytoin)

  • Bệnh Parkinson (levodopa)

Ngoài ra, nhiều loại chất kích thích và ma túy bất hợp pháp có thể trực tiếp gây lo lắng, bao gồm caffeine, cocaine và MDMA (thuốc lắc). Một số loại thuốc thường được sử dụng để tạo cảm giác thư giãn cũng có thể gây lo lắng. Cần sa (marijuana) gây lo lắng ở một số người, trực tiếp hoặc thông qua chất pha trộn như phencyclidine (PCP). Việc cai rượu, thuốc an thần và một số loại thuốc khác cũng có thể gây lo lắng.

Lo lắng liên quan đến COVID-19

Đại dịch COVID-19 có liên quan đến gia tăng tỷ lệ trầm cảm và lo lắng ở những người chưa bị nhiễm bệnh (2). Những phản ứng tâm lý như vậy có thể là sự trầm trọng thêm của các vấn đề tiềm ẩn, nhưng các triệu chứng thường trở nên trầm trọng hơn khi tiếp xúc với phương tiện truyền thông, khó khăn về kinh tế, tình trạng không chắc chắn về tương lai, nỗi sợ lây nhiễm (cho bản thân và người thân), mất đi sự hỗ trợ quen thuộc (ví dụ: bạn bè, việc làm) và các hạn chế về hành vi (ví dụ: đeo khẩu trang, giãn cách xã hội).

Nhiễm COVID-19 có triệu chứng cũng có liên quan đến việc gia tăng lo lắng (3). Nguyên nhân gây lo lắng gia tăng này có thể là sinh lý (ví dụ: khó thở); tâm lý (ví dụ: nỗi sợ hãi ngay lập tức về cái chết); xã hội (ví dụ: cô lập với những người thân yêu); và dược lý (ví dụ: corticosteroid thường được sử dụng trong điều trị COVID-19). Ngoài ra, người ta đưa ra giả thuyết rằng COVID-19 gây ra đáp ứng miễn dịch của vật chủ trực tiếp dẫn đến các triệu chứng tâm thần kinh (ví dụ: lo lắng, thay đổi tâm trạng, rối loạn chức năng thần kinh cơ); những phản ứng tâm thần kinh này có thể là cấp tính hoặc là một phần của hội chứng được gọi là COVID kéo dài. (Xem thêm Các biểu hiện tâm thần kinh liên quan đến COVID.)

Tài liệu tham khảo về căn nguyên

1. Juruena MF, Eror F, Cleare AJ, et al: The role of early life stress in HPA axis and anxiety. Adv Exp Med Biol 1191:141-153, 2020. doi: 10.1007/978-981-32-9705-0_9

2. Shafran R, Rachman S, Whittal M, et al: Fear and anxiety in COVID-19: Preexisting anxiety disorders. Cogn Behav Pract 28(4):459-467, 2021. doi:10.1016/j.cbpra.2021.03.003

3. Troyer EA, Kohn JN, Hong S: Are we facing a crashing wave of neuropsychiatric sequelae of COVID-19? Neuropsychiatric symptoms and potential immunologic mechanisms. Brain Behav Immun 87:34-39, 2020. doi: 10.1016/j.bbi.2020.04.027

Rối loạn lo âu có xu hướng khác với lo âu thông thường và bình thường ở chỗ dai dẳng (> 6 tháng), quá mức, suy nhược và khó chịu.

Rối loạn lo âu có thể gây ra một loạt các triệu chứng thực thể, bao gồm (1):

  • Đường tiêu hóa: Buồn nôn, nôn ói, tiêu chảy

  • Phổi: Khó thở, nghẹt sặc

  • Thần kinh thực vật: Chóng mặt, ngất xỉu, đổ mồ hôi, nóng lạnh

  • Tim: Trống ngực, nhịp tim nhanh

  • Cơ xương khớp: Căng cơ, đau ngực hoặc tức ngực

Nhật ký hoảng loạn hoặc lo lắng có thể là một công cụ hữu ích để ghi lại các triệu chứng, vì các báo cáo hồi cứu về lo âu có thể mơ hồ và vì các chiến lược điều trị thường phụ thuộc vào chi tiết.

Tài liệu tham khảo về các dấu hiệu và triệu chứng

1. Craske MG, Stein MB: Anxiety. Lancet 388:3048-3059, 2016 doi: 10.1016/S0140-6736(16)30381-6

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

Chẩn đoán rối loạn lo âu cụ thể dựa trên các triệu chứng và dấu hiệu đặc trưng của nó theo DSM-5-TR. Nói chung, có thể nghi ngờ rối loạn lo âu khi áp dụng những biểu hiện sau đây (1):

  • Lo âu là rất khó chịu.

  • Lo âu ảnh hưởng đến chức năng.

  • Lo âu không ngừng xuất hiện tự phát trong vòng nhiều ngày.

  • Các nguyên nhân khác không được xác định.

Khi chẩn đoán chứng rối loạn lo âu, điều quan trọng là phải loại trừ lo âu do một số tình trạng bệnh lý nhất định (ví dụ: hen suyễn, cường giáp) và/hoặc các chất kích thích hoặc thuốc (2). Hơn nữa, nếu có, bác sĩ lâm sàng cần đánh giá mức độ rối loạn bệnh lý và/hoặc chất kích thích thực sự liên quan đến lo âu. Vì đúng như trong tất cả các đánh giá về tâm thần, việc khai thác bệnh sử cẩn thận là rất quan trọng để chẩn đoán chính xác.

Nếu bệnh nhân đáp ứng các tiêu chuẩn về rối loạn lo âu và bác sĩ lâm sàng kết luận rằng các triệu chứng được giải thích tốt nhất bằng tác dụng sinh lý trực tiếp của thuốc hoặc ma túy/chất kích thích bất hợp pháp, thì bệnh nhân được coi là mắc chứng rối loạn lo âu do chất kích thích/thuốc gây ra. Tương tự như vậy, nếu lo lắng đáng kể được coi là kết quả sinh lý trực tiếp của một tình trạng bệnh lý khác, thì bệnh nhân có thể được chẩn đoán mắc chứng rối loạn lo âu do một tình trạng bệnh lý khác.

Điều này đúng với hầu hết các tình trạng tâm thần, không có xét nghiệm nào trong phòng thí nghiệm để xác định chứng rối loạn lo âu, mặc dù các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm có thể giúp xác định các tình trạng bệnh lý liên quan đến chứng lo âu. Đánh giá lâm sàng là cần thiết trước khi đưa ra chẩn đoán. Ngoài việc gợi ra các triệu chứng đặc trưng và diễn biến theo thời gian, bác sĩ lâm sàng cũng phải đánh giá xem tình trạng lâm sàng có đáp ứng ngưỡng gây ra đau khổ và/hoặc rối loạn chức năng đáng kể về mặt lâm sàng hay không.

Các chứng rối loạn lo âu khác nhau thường có thể được phân biệt dựa trên câu trả lời cho 3 câu hỏi chính:

  • Những tình huống nào gây ra sợ hãi và lo lắng?

  • Những suy nghĩ nào có liên quan đến lo lắng?

  • Những chiến lược tránh né nào được sử dụng?

Các yếu tố văn hoá

Văn hóa ảnh hưởng đến sự biểu hiện, khái niệm hóa và điều trị tất cả các tình trạng tâm thần, bao gồm cả rối loạn lo âu (3, 4). Trong quá trình đánh giá tâm thần, điều quan trọng là phải tìm ra cách thức mà các triệu chứng lo âu có thể bị ảnh hưởng bởi hệ thống chính trị, kinh tế và pháp luật xung quanh cũng như bởi các vấn đề cụ thể liên quan đến tình trạng di cư, khuynh hướng tình dục, tình trạng kinh tế xã hội, tôn giáo, tâm linh và cấu trúc gia đình.

Bệnh nhân có thể cảm thấy bị đe dọa, xấu hổ hoặc miễn cưỡng thảo luận về sự lo lắng với bất kỳ ai, ít hơn nhiều với các bác sĩ, những người có thể thuộc về một nhóm kinh tế xã hội khác và có khả năng được hưởng nhiều đặc quyền hơn. Tương tự như vậy, những người muốn trở thành “bệnh nhân tốt” có thể không thẳng thắn nói về các vấn đề tâm thần nếu họ nghi ngờ rằng bác sĩ lâm sàng của họ quá bận nên không thể giải quyết bất cứ điều gì khác ngoài vấn đề y tế phi tâm thần nổi bật nhất của họ.

Sẽ rất hữu ích cho bác sĩ lâm sàng khi cân nhắc rằng các cá nhân hoặc nhóm khác nhau sử dụng các từ khác nhau để mô tả tình trạng đau khổ. Ví dụ, người dân ở nhiều quốc gia sử dụng cụm từ “suy nghĩ quá nhiều” thay vì mô tả các triệu chứng phù hợp với tiêu chuẩn tâm thần cụ thể đối với các chứng rối loạn như trầm cảm nặng, rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) hoặc rối loạn lo âu tổng quát (5).

Cũng có thể hữu ích nếu hỏi bệnh nhân xem họ nghĩ nguyên nhân gây ra vấn đề của họ là gì. Không phải tất cả bệnh nhân đều tin tưởng hoàn toàn vào mô hình y tế, và nếu được hỏi một cách khéo léo, nhiều bệnh nhân có thể miễn cưỡng đề cập rằng họ (hoặc người thân của họ) tin rằng các triệu chứng của họ là do tôn giáo hoặc nguồn thần bí khác gây ra (ví dụ: “con mắt quỷ dữ”).

Việc thu thập những thông tin như vậy sẽ cải thiện mối liên minh giữa bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng, làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của cả bệnh nhân và những phàn nàn hiện tại, đồng thời cải thiện khả năng bệnh nhân sẽ minh bạch và tuân thủ hơn trong tương lai.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition,Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 215-221.

2. Craske MG, Stein MB: Anxiety. Lancet 388:3048-3059, 2016 doi: 10.1016/S0140-6736(16)30381-6

3. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th Edition, Text Revision (DSM-5-TR), Cultural Concepts  of Distress. American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 872-880.

4. Lewis-Fernández R, Aggarwal NK, Lam PC, et al: Feasibility, acceptability and clinical utility of the Cultural Formulation Interview: Mixed-methods results from the DSM-5 international field trial. Br J Psychiatry 210(4):290-297, 2017. doi: 10.1192/bjp.bp.116.193862

5. Kaiser BN , Haroz EE, Kohrt BA, et al: “Thinking too much”: A systematic review of a common idiom of distress. Soc Sci Med 147:170-183, 2015. doi: 10.1016/j.socscimed.2015.10.044

  • Giáo dục tâm lý

  • Kỹ thuật thư giãn

  • Các liệu pháp tâm lý, chẳng hạn như liệu pháp tâm lý nhận thức-hành vi (CBT)

  • Điều trị bằng thuốc (thuốc benzodiazepin, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc [SSRI])

Những nguyên tắc chung sau đây rất quan trọng cần được xem xét khi điều trị rối loạn lo âu:

  • Một loạt các biện pháp can thiệp có hiệu quả trong kiểm soát rối loạn lo âu.

  • Hầu hết bệnh nhân có thể được xử trí thành công ở cơ sở chăm sóc ban đầu.

  • Việc xác định chính xác chứng rối loạn lo âu và các bệnh đi kèm thích hợp là rất quan trọng.

  • Điều trị các tình trạng bệnh lý đi kèm có thể gây lo âu (ví dụ như hen suyễn).

  • Nói chung, các rối loạn sử dụng chất kích thích xảy ra đồng thời nên được điều trị đồng thời với chứng rối loạn lo âu. Cần phải thừa nhận rằng chất kích thích này thường được sử dụng một phần để giảm bớt lo lắng và việc cai thuốc có thể gây thêm lo lắng.

  • Sửa đổi lối sống như tập thể dục và ngủ đủ giấc (1) và hạn chế uống caffeine có thể làm giảm đáng kể các triệu chứng lo âu.

  • Khuyến nghị điều trị bị ảnh hưởng bởi sở thích của bệnh nhân và khả năng tiếp cận các chuyên viên chăm sóc sức khỏe tâm thần.

Liệu pháp tâm lý và thuốc có hiệu quả đối với hầu hết các chứng rối loạn lo âu, đặc biệt khi được sử dụng cùng nhau (2, 3).

Kỹ thuật giáo dục tâm lý và thư giãn

Giáo dục tâm lý thường là nền tảng để điều trị rối loạn lo âu. Bệnh nhân có thể cảm thấy tự do khi hiểu làm thế nào một loạt các triệu chứng và hành vi đôi khi gây hoang mang có thể được khái niệm hóa thành chẩn đoán. Giáo dục cũng đưa ra cấu trúc nhận thức để giúp bệnh nhân theo đuổi phương pháp điều trị có thể khiến họ cảm thấy không thoải mái.

Kỹ thuật thư giãn cần phải được dạy sớm trong quá trình điều trị. Những kỹ thuật này hữu ích vì sợ hãi và lo lắng là nguyên nhân cơ bản của chứng rối loạn lo âu và vì việc điều trị có thể tăng cường tạm thời những suy nghĩ và cảm giác tàn tật. Nếu không có công cụ kiểm soát lo âu, nhiều bệnh nhân sẽ không tuân thủ điều trị. Các kỹ thuật thư giãn có thể bao gồm thư giãn cơ, kiểm soát hơi thở, yoga, thôi miên và/hoặc thiền, nhưng sở thích của bệnh nhân rất quan trọng trong việc xác định phương pháp cụ thể. Các kỹ thuật thư giãn có thể được mô tả ngắn gọn và sau đó được “kê đơn” làm bài tập về nhà. Sự tuân thủ và hiệu quả có nhiều khả năng được tối ưu hóa hơn nếu bác sĩ lâm sàng thực hiện các kỹ thuật này một cách định kỳ (ví dụ: thở chậm, đều đặn) một cách nhiệt tình.

Các liệu pháp tâm lý trị liệu

Các liệu pháp tâm lý khác nhau đều có hiệu quả như nhau đối với hầu hết các rối loạn tâm thần. Sự tương đương này dường như liên quan đến cái gọi là các yếu tố không đặc hiệu, bao gồm các đặc điểm cá nhân của nhà trị liệu và môi trường trị liệu tích cực cho phép bệnh nhân tham gia hiệu quả vào liệu pháp trò chuyện và vẫn tuân thủ các thực hành và thuốc đã đồng ý.

Liệu pháp nhận thức-hành vi (CBT) có bằng chứng mạnh mẽ nhất về việc điều trị tâm lý xã hội cho chứng rối loạn lo âu (4). Các kỹ thuật giáo dục tâm lý và thư giãn nên được đưa vào sớm trong CBT.

CBT liên quan đến cả việc tái cấu trúc nhận thức và liệu pháp tiếp xúc. Tái cấu trúc nhận thức bắt đầu với ý tưởng cho rằng bệnh nhân mắc chứng rối loạn lo âu đánh giá quá cao mối nguy hiểm (thảm họa) và đánh giá thấp khả năng đối phó với mối nguy hiểm của họ. Những suy nghĩ không chính xác và những yếu tố khởi phát trước đó sẽ được làm rõ trong quá trình điều trị. Thông thường, kiểu lo lắng có thể được sắp xếp gọn gàng thành một chu kỳ đặc trưng gồm các tác nhân, hành vi và lo lắng. Khi chu kỳ này được làm rõ, bệnh nhân được dạy cách nhận biết và đối mặt với những suy nghĩ không chính xác của họ (tức là tái cấu trúc nhận thức).

CBT cũng tập trung vào các yếu tố hành vi của chứng rối loạn lo âu. Thông thường, bệnh nhân mắc chứng rối loạn lo âu phản ứng với mối nguy hiểm được nhận thấy bằng phản ứng “chiến đấu hoặc bỏ chạy”. Một số bệnh nhân mắc chứng lo âu rõ rệt có thể “chiến đấu” với sự lo lắng của họ, thường bằng phản ứng chống lại nỗi ám ảnh (ví dụ: một diễn viên mắc chứng lo âu xã hội nổi bật), nhưng hầu hết đều phản ứng bằng cách né tránh. Liệu pháp tiếp xúc nhằm mục đích xác định hành vi né tránh và sau đó mang đến cho bệnh nhân những cơ hội tăng cường dần dần để tiếp xúc một cách an toàn với tác nhân gây sợ hãi, dần dần làm bệnh nhân bớt nhạy cảm.

Các liệu pháp tâm lý khác được sử dụng để điều trị rối loạn lo âu kết hợp các khía cạnh của CBT, thư giãn và chánh niệm cùng với các chiến lược khác có vẻ có hiệu quả. Những phương pháp điều trị này bao gồm giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm, thôi miên, liệu pháp tâm lý động học tập trung vào sự hoảng loạn, liệu pháp giữa các cá nhân và liệu pháp tâm lý hỗ trợ:

  • Giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm là một chương trình tiêu chuẩn trong đó các nhóm gặp nhau trong 8 tuần liên tiếp; các buổi học có thiền ngồi và đi bộ, yoga và các kỹ thuật thư giãn chánh niệm. Ngoài ra còn có phần thực hành tại nhà hàng ngày để củng cố các nguyên tắc đã được thực hành trong các buổi học kéo dài 2,5 giờ (5). Liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm kết hợp các yếu tố chánh niệm này với các phương pháp CBT như giáo dục tâm lý và tái cấu trúc nhận thức.

  • Thôi miên được sử dụng để dạy cách kiểm soát sự tương tác giữa lo lắng về tinh thần và căng thẳng về thể chất như căng cơ, tăng nhịp hô hấp và nhịp tim cũng như đổ mồ hôi. Lo lắng về tinh thần và căng thẳng về thể chất có xu hướng củng cố lẫn nhau, trong khi những gợi ý thôi miên để tưởng tượng đang ở một nơi an toàn và thoải mái cùng với hình dung về các phương tiện kiểm soát căng thẳng thành công có thể làm giảm nhanh chóng các triệu chứng lo âu trong khi dạy kỹ năng đối phó (6).

  • Liệu pháp tâm lý động học tập trung vào cơn hoảng loạn là một liệu pháp tâm lý có cấu trúc, giới hạn thời gian, có chung các đặc điểm với các biện pháp can thiệp khác, mặc dù các buổi trị liệu có xu hướng tập trung vào các yếu tố gây căng thẳng, cảm giác và ý nghĩa cảm xúc của các cơn hoảng loạn (7).

  • Tâm lý trị liệu giữa các cá nhân (IPT) là một liệu pháp tâm lý có cấu trúc, giới hạn thời gian nhằm giải quyết các vấn đề và các mối quan hệ hiện tại. IPT tập trung vào 1 hoặc nhiều hơn trong số 4 lĩnh vực: xung đột trong mối quan hệ, thay đổi cuộc sống, đau buồn hoặc mất mát và các vấn đề trong các mối quan hệ. Thường được sử dụng để điều trị trầm cảm, IPT dường như được dung nạp tốt và hiệu quả đối với một số chứng rối loạn lo âu (8). Trong khi CBT tập trung vào nhận thức và hành vi thì IPT tập trung vào cảm xúc phát triển trong bối cảnh các tình huống giữa các cá nhân.

  • Tâm lý trị liệu hỗ trợ nhằm mục đích hỗ trợ khả năng phòng vệ lành mạnh và hành vi lành mạnh của bệnh nhân thông qua sự đồng cảm, xác nhận và lắng nghe không phán xét. Các kỹ thuật hỗ trợ có xu hướng cải thiện sự liên kết điều trị và giảm tình trạng không tuân thủ điều trị. Tâm lý trị liệu hỗ trợ có thể tự nó mang tính trị liệu và cũng có thể là một phần cơ bản của các liệu pháp tâm lý khác.

Điều trị bằng thuốc

Trị liệu bằng thuốc thường hữu ích trong việc kiểm soát rối loạn lo âu, đặc biệt là khi được sử dụng phối hợp với bất kỳ kỹ thuật trị liệu tâm lý nào ở trên. Nhóm thuốc chống trầm cảm và nhóm thuốc benzodiazepin là 2 nhóm thuốc có cơ sở bằng chứng mạnh mẽ nhất, mặc dù cũng có vai trò của thuốc giải lo âu không benzodiazepine (như là buspirone) và thuốc chống loạn thần không thông thường (9).

Các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) thường được coi là điều trị bước đầu dựa trên hồ sơ hiệu quả và an toàn của các thuốc này. Những loại thuốc “chống trầm cảm” này giải quyết các triệu chứng của rối loạn lo âu bất kể có rối loạn trầm cảm đi kèm hay không.

Thuốc chống trầm cảm SSRI thường được bắt đầu ở liều thấp nhất hiện có để giảm thiểu tác dụng bất lợi. Bệnh nhân lo âu có thể nhạy cảm với những thay đổi của cơ thể và có thể ngừng điều trị nếu bị tác dụng bất lợi ở giai đoạn sớm. Khi bệnh nhân đã dung nạp được liều ban đầu, thuốc chống trầm cảm có thể được tăng dần cho đến khi đạt được liều điều trị hoặc hiệu quả điều trị. Hiệu quả lâm sàng tích cực có thể xảy ra bất cứ lúc nào nhưng thường phải mất từ 6 tuần trở lên mới đạt được.

Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine (SNRI), đặc biệt là duloxetine và venlafaxine, cũng đã chứng minh độ an toàn và hiệu quả trong điều trị rối loạn lo âu.

Các thuốc benzodiazepin có thể được sử dụng để giảm lo âu cấp tính nhưng có thể tạo ra sự phụ thuộc và mong muốn tăng mức độ làm hạn chế tỷ lệ lợi ích/nguy cơ khi sử dụng lâu dài (10). Các thuốc này thường được sử dụng kết hợp với thuốc chống trầm cảm và liệu pháp tâm lý. Thuốc benzodiazepine thường có thể được giảm dần khi các triệu chứng lo âu đã được cải thiện.

Điều trị các chứng bệnh phối hợp

Khi có bệnh phối hợp, các rối loạn do sử dụng chất kích thích và các tình trạng tâm thần khác đi kèm cũng phải được xử trí thích hợp.

Các rối loạn do sử dụng chất kích thích đi kèm thường không được báo cáo một cách tự nhiên (11). Các chất kích thích như là rượu, cần sa và nhóm thuốc benzodiazepin thường được những người mắc chứng rối loạn lo âu sử dụng để tự dùng thuốc. Bệnh nhân có thể miễn cưỡng từ bỏ những chất kích thích này cho đến khi họ tin tưởng rằng bác sĩ lâm sàng có phương pháp điều trị thay thế khả thi. Việc tự dùng thuốc thường dẫn đến một vòng luẩn quẩn. Ví dụ: việc sử dụng rượu làm giảm nhanh chóng lo lắng có thể kéo theo lo lắng tái phát, sau đó là nhu cầu tự dùng thuốc ngày càng cấp bách.

Rối loạn lưỡng cực đi kèm có thể gây ra các khó khăn riêng trong việc kiểm soát. Nhiều người mắc chứng rối loạn lưỡng cực ban đầu bị chẩn đoán sai, đặc biệt là vì họ thường có nhiều giai đoạn trầm cảm hơn là hưng cảm. Điều trị bằng thuốc chống trầm cảm có thể là phương pháp điều trị bước đầu thích hợp cho chứng rối loạn lo âu kèm theo bệnh trầm cảm nặng. Tuy nhiên, đối với một người vừa mắc chứng lo âu vừa mắc chứng rối loạn lưỡng cực, việc lựa chọn thuốc tương tự có thể gây ra giai đoạn hưng cảm bao gồm lo lắng và khó chịu ngày càng tăng. Việc bỏ sót rối loạn lưỡng cực có thể dẫn đến việc điều trị không phù hợp trong nhiều thập kỷ.

Các rối loạn bệnh lý đi kèm cũng có thể khó kiểm soát. Ví dụ: bệnh hen suyễn có thể gây lo lắng về mặt sinh lý, nhưng một số loại thuốc dùng để điều trị bệnh hen suyễn cũng có thể gây ra lo lắng. Lo lắng có thể góp phần làm trầm trọng thêm bệnh hen suyễn và nỗi lo sợ về tình trạng bệnh hen suyễn trầm trọng hơn có thể dẫn đến các hành vi né tránh (ví dụ như giảm hoạt động, không tuân thủ dùng thuốc), từ đó có thể làm trầm trọng thêm bệnh hen suyễn và dẫn đến giảm chất lượng cuộc sống.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Chellappa SL, Aeschbach D: Sleep and anxiety: From mechanisms to interventions. Sleep Med Rev61:101583, 2022. doi: 10.1016/j.smrv.2021.101583

2. Bandelow B, Michaelis S, Wedekind D: Treatment of anxiety disorders. Dialogues Clin Neurosci 19(2):93-107, 2017. doi: 10.31887/DCNS.2017.19.2/bbandelow

3. Cuijpers P, Sijbrandij M, Koole SL, et al: Adding psychotherapy to antidepressant medication in depression and anxiety disorders: a meta-analysis. World Psychiatry, 13(1), 56-67, 2014.doi: 10.1002/wps.20089

4. Szuhany KL, Simon NM: Anxiety disorders: A review. JAMA 328(24):2431-2445, 2022. doi: 10.1001/jama.2022.22744

5. Haller H, Breilmann P, Schröter, M. et al: A systematic review and meta-analysis of acceptance- and mindfulness-based interventions for DSM-5 anxiety disorders. Sci Rep 11(1):20385, 2021.  doi: 10.1038/s41598-021-99882-w

6. Valentine KE, Milling LS, Clark LJ, et al: The efficacy of hypnosis as a treatment for anxiety: A meta-analysis. Int J Clin Exp Hyposis 67(3)336-363, 2019. doi: 10.1080/00207144.2019.1613863

7. Barber JP, Milrod B, Gallop R, et al: Processes of therapeutic change: Results from the Cornell-Penn Study of Psychotherapies for Panic Disorder. J Couns Psychol 67(2):222-231, 2020. doi: 10.1037/cou0000417

8. Markowitz JC, Milrod B, Luyten P, et al: Mentalizing in interpersonal psychotherapy. Am J Psychother 72(4):95-100. 2019. doi: 10.1176/appi.psychotherapy.20190021

9. Slee A, Nazareth I, Bondaronek P, et al: Pharmacological treatments for generalised anxiety disorder: A systematic review and network meta-analysis. Lancet 2019393(10173):768-777. doi: 10.1016/S0140-6736(18)31793-8

10. Balon R, Starcevic V: Role of benzodiazepines in anxiety disorders. Adv Exp Med Biol 1191:367-388, 2020. doi: 10.1007/978-981-32-9705-0_20

11. Anker JJ, Kushner MG: Co-occurring alcohol use disorder and anxiety: Bridging psychiatric, psychological, and neurobiological perspectives. Alcohol Res 40(1):arcr.v40.1.03, 2019. doi: 10.35946/arcr.v40.1.03

Các ám ảnh cụ thể bao gồm những nỗi sợ hãi dai dẳng, vô lý, mãnh liệt (ám ảnh) về các tình huống, hoàn cảnh hoặc đối tượng cụ thể. Những nỗi sợ hãi gây ra lo âu và né tránh. Nguyên nhân của ám ảnh sợ là không rõ ràng. Ám ảnh được chẩn đoán dựa trên tiền sử lâm sàng. Điều trị chủ yếu bằng liệu pháp tiếp xúc hoặc thôi miên.

Ám ảnh cụ thể là nỗi sợ hãi và lo lắng về một tình huống hoặc đối tượng cụ thể ở mức độ vượt quá mức độ nguy hiểm hoặc nguy cơ thực tế. Tình huống hoặc đối tượng thường bị né tránh nếu có thể, nhưng nếu sự tiếp xúc xảy ra, lo âu sẽ phát triển nhanh chóng. Lo âu có thể trở nên dữ dội giống như mức độ của một cơn hoảng sợ. Những người có ám ảnh sợ đặc hiệu thường nhận ra rằng nỗi sợ hãi của họ là không hợp lý và quá mức.

Ám ảnh sợ đặc hiệu là những rối loạn lo âu phổ biến nhất. Một số ám ảnh sợ phổ biến nhất là sự sợ hãi động vật (ám ảnh sợ động vật), độ cao (ảm ảnh sợ độ cao), và cơn bão tố có sấm sét (ám ảnh sợ sấm sét). Các ám ảnh cụ thể ảnh hưởng đến khoảng 8% số phụ nữ và 3% số nam giới trong bất kỳ khoảng thời gian 12 tháng nào (1). Một số ám ảnh sợ đặc hiệu ít gây ra sự phiền phức – như khi người dân thành phố sợ rắn (ám ảnh sợ rắn), trừ khi họ được yêu cầu đi lang thang trong khu vực nơi mà có rắn sinh sống. Tuy nhiên, các ám ảnh khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động chức năng – chẳng hạn như khi những người làm việc ở tầng trên của một tòa nhà chọc trời sợ những nơi kín, chật hẹp (chứng sợ không gian hẹp), chẳng hạn như thang máy. Những người mắc chứng ám ảnh về máu, kim tiêm hoặc chấn thương khác thường là nỗi lo lắng của họ có thể khiến họ ngất xỉu do phản xạ phế vị quá mức, gây ra nhịp tim chậm và hạ huyết áp thế đứng. Ám ảnh cũng có thể ảnh hưởng đến việc chăm sóc trong y khoa, chẳng hạn như khi sợ kim tiêm dẫn đến việc tránh xét nghiệm máu và/hoặc tiêm chủng.

Tài liệu tham khảo chung

1. Wardenaar KJ, Lim CCW, Al-Hamzawi AO, et al: The cross-national epidemiology of specific phobia in the World Mental Health Surveys. Psychol Med 47(10):1744-1760, 2017. doi: 10.1017/S0033291717000174

Bệnh nhân bị ám ảnh sợ cụ thể phát sinh nỗi sợ hãi hoặc lo lắng rõ rệt khi phản ứng với một đối tượng hoặc tình huống cụ thể, sau đó có thể đi kèm với sự né tránh.

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

Để đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán trong DSM-5-TR cho ám ảnh cụ thể, bệnh nhân phải có (1)

  • Nỗi sợ hãi hoặc lo lắng rõ rệt, dai dẳng ( 6 tháng) về một tình huống hoặc đối tượng cụ thể

Ngoài ra, bệnh nhân có tất cả những điều sau đây:

  • Tình hình hoặc đối tượng gần như luôn gây ra lo sợ hoặc lo âu ngay lập tức.

  • Bệnh nhân chủ động né tránh tình huống hoặc đối tượng.

  • Sự lo sợ hoặc lo âu là không phù hợp với nguy hiểm thực tế (có tính đến các chuẩn mực văn hoá xã hội).

  • Lo sợ, lo âu, và/hoặc né tránh này gây ra những căng thẳng đáng kể hoặc làm suy giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp.

Không nên chẩn đoán ám ảnh cụ thể nếu tình trạng lâm sàng được mô tả tốt hơn bằng một chẩn đoán khác. Đáng chú ý là ám ảnh cụ thể thường đi kèm với nhiều tình trạng tâm thần khác, bao gồm các rối loạn lo âu khác, trầm cảm và lưỡng cựcrối loạn liên quan đến chất kích thíchtriệu chứng cơ thể và các rối loạn liên quan và rối loạn nhân cách (đặc biệt là rối loạn nhân cách phụ thuộc).

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 224-229.

  • Liệu pháp phơi nhiễm

  • Kỹ thuật thư giãn và/hoặc thở (ví dụ: thôi miên)

  • Đôi khi sử dụng một cách hạn chế một loại benzodiazepin hoặc beta-blocker

Tiên lượng khá thay đổi với những ám ảnh sợ đặc hiệu không được điều trị vì những tình huống hoặc đối tượng không thường gặp (như rắn, hang động) rất dễ né tránh, trong khi các tình huống hoặc đối tượng khác (như cầu, bão có sấm chớp) rất phổ biến và khó né tránh.

Liệu pháp phơi nhiễm

Liệu pháp tâm lý được nghiên cứu rộng rãi và hiệu quả nhất đối với nỗi ám ảnh cụ thể là liệu pháp tiếp xúc, nhằm mục đích đảo ngược chu kỳ lo lắng và né tránh (1).

Là một phần của liệu pháp tiếp xúc, bệnh nhân và nhà trị liệu sẽ xây dựng một danh sách “tiếp xúc” có thể khơi dậy lo lắng. Ví dụ, một người mắc chứng ám ảnh cụ thể liên quan đến việc đi máy bay có thể lập danh sách trong đó việc đi máy bay nhỏ có thể là nỗi sợ hãi lớn nhất, nhưng có thể có hàng tá hoạt động khác ít gây lo lắng hơn có liên quan đến nỗi sợ đi máy bay. Những điều này có thể bao gồm việc đi vào sân bay mà không có ý định lên máy bay, lái xe ngang qua sân bay mà không dừng lại và nhìn vào bức ảnh chụp một chiếc máy bay. Sau đó, bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân có thể sắp xếp thứ tự danh sách. Hướng dẫn thư giãn, chánh niệm, thở và/hoặc các kỹ thuật thư giãn khác (ví dụ: thôi miên) cũng là một phần của liệu pháp tiếp xúc. Trong khi sử dụng một số kỹ thuật thư giãn mới học được, bệnh nhân có thể bắt đầu với mục ít gây lo lắng nhất trong danh sách (ví dụ: nhìn vào bức ảnh chụp một chiếc máy bay), sau đó tiếp tục xem qua danh sách để cố gắng đảo ngược sự né tránh. Thông qua quá trình tiếp xúc và khử nhạy cảm dần dần này, bệnh nhân sẽ quen với tác nhân gây lo âu.

Một phương pháp điều trị thay thế liên quan đến việc sử dụng thôi miên để giúp bệnh nhân cảm thấy bình tĩnh về thể chất bằng cách hình dung mình đang ở một nơi thoải mái, sau đó tái cấu trúc quan điểm của họ về tình huống sợ hãi dựa trên những gợi ý thôi miên (ví dụ: “cảm thấy mình đang lơ lửng trên máy bay”, “nghĩ về máy bay như một phần mở rộng của cơ thể quý vị giống như một chiếc xe đạp”, “hãy xem xét sự khác biệt giữa khả năng và xác suất”) (2).

Điều trị bằng thuốc

Điều trị ngắn hạn bằng thuốc benzodiazepine (ví dụ: lorazepam) hoặc thuốc chẹn beta (ví dụ: propranolol) có thể hữu ích khi không thể tránh khỏi việc tiếp xúc với một vật thể hoặc tình huống (3). Ví dụ: một người mắc chứng ám ảnh sợ bay cụ thể có thể uống thuốc từ 1 giờ đến 2 giờ trước khi lên máy bay.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Wolitzky-Taylor KB, Horowitz JD, Powers MB, et al: Psychological approaches in the treatment of specific phobias: A meta-analysis. Clin Psychol Rev 28(6):1021-1037, 2008. doi: 10.1016/j.cpr.2008.02.007

2. Spiegel H, Maruffi BL, Spiegel D, et al: Hypnotic responsivity and the treatment of flying phobia. Am J Clin Hypn 23(4):239-247, 1982. https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/25928602/

3. Wilhelm FH, Roth WT: Acute and delayed effects of alprazolam on flight phobics during exposure. Behav Res Ther , 35(9):831-841, 1997. doi: 10.1016/s0005-7967(97)00033-8

Rối loạn lo âu xã hội được đặc trưng bởi sự sợ hãi và lo lắng khi phải đối mặt với một số tình huống xã hội hoặc hoạt động nhất định. Những tình huống này bị né tránh hoặc chịu đựng với lo âu đáng kể. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí lâm sàng. Điều trị bao gồm liệu pháp nhận thức-hành vi, liệu pháp tiếp xúc và đôi khi là liệu pháp dùng thuốc.

Rối loạn lo âu xã hội ảnh hưởng đến khoảng 2,8% số người trong một năm nhất định, với tỷ lệ mắc bệnh suốt đời là khoảng 5% (1). Những tỷ lệ này dường như cao hơn ở Hoa Kỳ. Nam giới cũng có nhiều khả năng mắc chứng rối loạn nhân cách né tránh hơn nữ giới, có thể được coi là một chứng rối loạn lo âu đủ nặng trọng và dai dẳng để ảnh hưởng đến tính cách của người đó.

Nỗi sợ hãi và lo lắng ở bệnh nhân mắc chứng rối loạn lo âu xã hội thường tập trung vào cảm giác xấu hổ hoặc bẽ mặt nếu họ không đáp ứng được kỳ vọng của mọi người hoặc bị người khác soi mói trong các tương tác xã hội. Thông thường, sự lo lắng là về sự lo âu của họ sẽ bị thấy qua việc đổ mồ hôi, đỏ mặt, nôn ói, hoặc run rẩy (đôi khi như tiếng rung) hoặc khả năng để giữ một dòng suy nghĩ hoặc tìm từ ngữ để tự diễn đạt sẽ bị mất. Thông thường, cùng một hoạt động đó khi được thực hiện một mình không gây lo âu.

Các tình huống thường gặp lo âu xã hội bao gồm nói trước công chúng, diễn kịch và chơi nhạc cụ. Các tình huống tiềm ẩn khác bao gồm ăn uống với người khác, gặp người mới, tán ngẫu, ký tài liệu trước nhân chứng, hoặc sử dụng phòng tắm công cộng. Một loại lo âu xã hội tổng quát hơn gây ra lo lắng trong một loạt các tình huống xã hội.

Hầu hết bệnh nhân mắc chứng rối loạn lo âu xã hội đều nhận ra rằng nỗi sợ hãi của họ là vô lý và quá mức.

Tài liệu tham khảo chung

1. Grant BF, Hasin DS, Blanco C, et al: The epidemiology of social anxiety disorder in the United States: Results from the National Epidemiologic Survey on Alcohol and Related Conditions. J Clin Psychiatry66(11):1351-1361, 2005 . doi: 10.4088/jcp.v66n1102

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

Để đáp ứng tiêu chuẩn DSM-5-TR cho chẩn đoán (1), bệnh nhân phải có

  • Nỗi sợ hãi hoặc lo lắng rõ rệt, dai dẳng ( 6 tháng) về một hoặc nhiều tình huống xã hội trong đó họ có thể bị người khác xem xét kỹ lưỡng

Sợ hãi phải bao gồm sự đánh giá tiêu cực từ phía người khác (ví dụ như bệnh nhân sẽ bị làm bẽ mặt, bối rối, hoặc bị từ chối hoặc sẽ làm mất lòng người khác). Ngoài ra, cần phải có tất cả những điều sau đây:

  • Các tình huống xã hội tương tự gần như luôn gây ra lo sợ hoặc lo âu.

  • Bệnh nhân chủ động né tránh tình huống này.

  • Sự lo sợ hoặc lo âu là không phù hợp với mối đe dọa thực tế (có tính đến các chuẩn mực văn hoá xã hội).

  • Lo sợ, lo âu, và/hoặc né tránh này gây ra những căng thẳng đáng kể hoặc làm suy giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp.

Ngoài ra, nỗi sợ hãi và lo lắng không thể được mô tả chính xác hơn như một rối loạn tâm thần khác (ví dụ: chứng sợ khoảng rộngrối loạn hoảng sợrối loạn dị dạng cơ thểrối loạn nhân cách né tránh).

Cũng như các chứng rối loạn lo âu khác, việc xác định vòng xoáy nhận thức thảm khốc khi chẩn đoán chứng rối loạn lo âu xã hội là rất hữu ích; ví dụ: bệnh nhân mắc chứng rối loạn lo âu xã hội có thể lo lắng rằng nếu họ đi dự một bữa tiệc, họ sẽ làm bản thân xấu hổ, bị người lạ chế nhạo và sau đó sẽ phải chạy trốn khỏi bữa tiệc. Thông thường, sự lo lắng này bắt đầu một cách hợp lý nhưng lại chuyển thành nỗi sợ hãi về một thảm họa rất khó xảy ra.

Bệnh nhân mắc chứng rối loạn lo âu xã hội có xu hướng phát triển các chiến lược né tránh, chẳng hạn như từ chối lời mời dự tiệc hoặc gặp gỡ những người mới. Những chiến lược này có thể trở thành bản chất thứ hai, do đó hành vi né tránh có thể không được coi là có liên quan gì đến lo lắng. Ví dụ: ban đầu họ có thể cho biết rằng họ tránh các bữa tiệc vì các bữa tiệc đó “nhàm chán”. Tuy nhiên, tình trạng né tránh như vậy sẽ củng cố thêm lo lắng bằng cách cho phép mối đe dọa phóng đại không bị cản trở và tước đi của họ bất kỳ trải nghiệm tích cực nào trong bối cảnh đáng sợ.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition,Text Revision (DSM-5-TR), American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 229-235.

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

  • Liệu pháp phơi nhiễm

  • Đôi khi là chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI)

Cũng như các rối loạn lo âu khác, rối loạn lo âu xã hội có mức độ nặng khác nhau và tăng giảm theo thời gian. Nhiều người mắc chứng lo âu xã hội không bao giờ tìm cách điều trị mà thay vào đó họ phát triển các chiến lược của riêng họ. Ví dụ: họ có thể giảm thiểu hoặc tránh né các tình huống xã hội, “tự dùng thuốc” bằng các loại ma túy như rượu hoặc cần sa, hoặc chỉ cố gắng thực hiện các nghĩa vụ xã hội một cách khó chịu. Tuy nhiên, có nhiều lựa chọn điều trị dành cho bệnh nhân (1).

Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) liên quan đến việc dạy bệnh nhân nhận biết và kiểm soát suy nghĩ lệch lạc và niềm tin sai lầm của họ cũng như hướng dẫn họ cách sử dụng liệu pháp tiếp xúc (tiếp xúc có kiểm soát với tình huống gây lo lắng).

SSRI và thuốc nhóm benzodiazepin cũng có hiệu quả đối với chứng lo âu xã hội, mặc dù các thuốc benzodiazepin có thể gây nghiện về mặt thể chất và cũng có thể làm suy giảm khả năng suy nghĩ và trí nhớ (1).

Đối với những bệnh nhân gặp khó khăn khi cần biểu diễn ở nơi công cộng, thuốc chẹn beta có thể được kê đơn để giảm nhịp tim tăng, run rẩy và đổ mồ hôi.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Williams T, McCaul M, Schwarzer G, et al: Pharmacological treatments for social anxiety disorder in adults: A systematic review and network meta-analysis. Acta Neuropsychiatr 32(4):169-176, 2020. doi: 10.1017/neu.2020.6

Một cơn hoảng sợ là sự khởi phát đột ngột của một giai đoạn ngắn, rời rạc với các khó chịu căng thẳng, lo âu, hoặc sợ hãi kèm theo các triệu chứng cơ thể và/hoặc triệu chứng nhận thức. Rối loạn hoảng sợ là sự xuất hiện các cơn hoảng loạn lặp đi lặp lại, thường đi kèm với nỗi sợ hãi về các cơn hoảng loạn trong tương lai hoặc những thay đổi hành vi để tránh các tình huống có thể dẫn đến các cơn hoảng loạn. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí lâm sàng. Các cơn hoảng sợ đơn thuần có thể không cần điều trị. Rối loạn hoảng sợ được điều trị bằng liệu pháp dược lý, liệu pháp tâm lý (ví dụ: liệu pháp tiếp xúc, liệu pháp nhận thức-hành vi) hoặc cả hai.

Các cơn hoảng loạn rất phổ biến, ảnh hưởng tới 11% dân số trong một năm (1). Hầu hết mọi người đều hồi phục mà không cần điều trị; một số phát triển chứng rối loạn hoảng sợ.

Rối loạn hoảng sợ ảnh hưởng đến 2% đến 3% dân số trong khoảng thời gian 12 tháng (2). Rối loạn hoảng sợ thường bắt đầu vào cuối vị thành niên hoặc giai đoạn sớm của tuổi trưởng thành và thường ảnh hưởng đến phụ nữ nhiều gấp 2 lần so với nam giới.

Tài liệu tham khảo chung

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition,Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 244

2. Kessler RC,WT Chiu, Jin R, et al: The epidemiology of panic attacks, panic disorder, and agoraphobia in the National Comorbidity Survey Replication. Arch Gen Psychiatry 63(4):415-424, 2006. doi: 10.1001/archpsyc.63.4.415

Một cơn hoảng sợ đòi hỏi sự khởi đầu đột ngột của sự sợ hãi hoặc khó chịu mãnh liệt đi kèm với ít nhất 4 trong số 13 triệu chứng được liệt kê trong bảng Các triệu chứng của một cơn hoảng loạn. Các triệu chứng hoảng loạn có thể kéo dài vài phút đến một giờ. Mặc dù không thoải mái – vào những lúc cực điểm – các cơn hoảng sợ không gây nguy hiểm về mặt y tế.

Các cơn hoảng loạn có thể xảy ra trong bất kỳ rối loạn tâm thần nào, thường là trong các tình huống gắn liền với các đặc điểm cốt lõi của chứng rối loạn đó (ví dụ: một người mắc chứng sợ rắn có thể hoảng sợ khi nhìn thấy rắn). Những cơn hoảng loạn như vậy được gọi là “dự kiến”. Các cơn hoảng sợ không đoán trước là xuất hiện tự phát mà không có bất kỳ yếu tố kích hoạt rõ ràng nào.

Các triệu chứng của một cơn hoảng sợ

Nhận thức

  • Sợ chết
  • Sợ mình sẽ phát điên hoặc mất kiểm soát
  • Cảm giác không bình thường, lạ thường (tri giác sai thực tại), hoặc tách rời bản thân (giải thế nhân cách)

Hoang tưởng cơ thể

  • Đau hoặc khó chịu ở ngực
  • Chóng mặt, cảm thấy mất thăng bằng, hoặc xỉu đi
  • Cảm thấy nghẹt thở
  • Nóng bừng hoặc ớn lạnh
  • Buồn nôn hoặc khó chịu ở bụng
  • Tê cóng hoặc cảm giác kiến bò
  • Trống ngực hoặc nhịp tim nhanh
  • Cảm giác hụt hơi hoặc ngột thở
  • Mồ hôi
  • Rung lên hoặc run

Hầu hết những người mắc chứng rối loạn hoảng sợ đều dự đoán và lo lắng về một cuộc tấn công khác (lo lắng dự đoán) và tránh những địa điểm hoặc tình huống mà trước đó họ đã từng hoảng sợ. Những người mắc chứng rối loạn hoảng sợ thường lo lắng rằng họ mắc chứng rối loạn tim, phổi hoặc thần kinh nguy hiểm và liên tục đến gặp bác sĩ lâm sàng chăm sóc chính hoặc đến khoa cấp cứu để tìm kiếm sự giúp đỡ. Thật không may, trong những đơn vị này, sự chú ý thường tập trung vào các triệu chứng y khoa chung, và đôi khi không đưa ra được chẩn đoán chính xác.

Rối loạn hoảng sợ thường đi kèm với ít nhất một tình trạng bệnh lý khác. Các rối loạn lo âu khác, trầm cảm nặngrối loạn lưỡng cực và rối loạn sử dụng rượu nhẹ là những bệnh tâm thần đi kèm phổ biến nhất. Các tình trạng bệnh lý đi kèm thường gặp bao gồm rối loạn nhịp timcường giáphen suyễn và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD).

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

  • Đánh giá về mặt y khoa để loại trừ tác dụng sinh lý của một chất kích thích hoặc tình trạng bệnh lý chung

Rối loạn hoảng sợ được chẩn đoán sau khi các rối loạn bệnh lý nói chung có thể giống lo lắng được loại bỏ và khi các triệu chứng đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán được quy định trong DSM-5-TR.

Bệnh nhân có các cơn hoảng loạn tái phát (tần số không xác định) trong đó  1 cơn hoảng loạn kèm theo một hoặc cả hai biểu hiện sau trong  1 tháng (1):

  • Lo lắng dai dẳng về việc có thêm các cơn hoảng sợ hoặc lo lắng về hậu quả của chúng (ví dụ, mất kiểm soát, phát điên)

  • Phản ứng hành vi không thích hợp với các cơn hoảng sợ (ví dụ, né tránh các hoạt động thông thường như tập thể dục hoặc các tình huống xã hội để đề phòng các cơn tiếp theo)

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision DSM-5-TR. American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 235-250.

  • Thuốc chống trầm cảm, thuốc benzodiazepin hoặc cả hai

  • Tâm lý trị liệu

Một số bệnh nhân hồi phục mà không cần điều trị, đặc biệt nếu họ tiếp tục gặp phải các tình huống đã xảy ra các cơn bệnh. Đối với những trường hợp khác, đặc biệt là không điều trị, rối loạn hoảng sợ sẽ đến sau các đợt kéo dài lên xuống của triệu chứng.

Bệnh nhân cần được thông báo rằng việc điều trị thường giúp kiểm soát các triệu chứng. Nếu các hành vi né tránh không có, việc làm vững tin, giáo dục về lo âu, và khuyến khích để tiếp tục quay trở lại và ở lại nơi xảy ra các cơn hoảng sợ có thể là tất cả những gì cần phải làm. Tuy nhiên, với một chứng rối loạn kéo dài bao gồm các cơn tấn công và hành vi né tránh thường xuyên, việc điều trị có thể cần đến liệu pháp điều trị bằng thuốc phối hợp với liệu pháp tâm lý chuyên sâu hơn.

Điều trị bằng thuốc

Nhiều loại thuốc có thể ngăn ngừa hoặc làm giảm đáng kể sự lo lắng dự kiến, tránh nỗi sợ hãi cũng như số lượng và cường độ của các cơn hoảng loạn (1):

  • Thuốc chống trầm cảm: Các nhóm khác nhau – Các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI), các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrin (SNRI), các thuốc điều biến serotoninthuốc chống trầm cảm 3 vòng (TCA) và các thuốc ức chế monoamine oxidase (MAOI) – có hiệu quả tương tự nhau. Tuy nhiên, SSRI và SNRI có ưu điểm là ít tác dụng bất lợi tiềm ẩn hơn so với các thuốc chống trầm cảm khác.

  • Benzodiazepin: Những thuốc giải lo âu này hoạt động nhanh hơn thuốc chống trầm cảm nhưng có nhiều khả năng gây ra phụ thuộc về thể chất và các tác dụng phụ như buồn ngủ, mất điều hòa và các vấn đề về trí nhớ. Đối với một số bệnh nhân, việc sử dụng lâu dài nhóm thuốc benzodiazepin có thể thành công mà không có tác dụng bất lợi đáng kể.

  • Các thuốc chống trầm cảm phối hợp thêm các benzodiazepin: Những loại thuốc này ban đầu đôi khi được sử dụng phối hợp; benzodiazepine sẽ được giảm dần sau khi thuốc chống trầm cảm có hiệu quả (mặc dù một số bệnh nhân chỉ đáp ứng với điều trị phối hợp).

Các cơn hoảng loạn thường tái phát khi ngừng dùng thuốc.

Tâm lý trị liệu

Hầu hết các liệu pháp tâm lý nhắm vào chứng rối loạn lo âu, bao gồm cả rối loạn hoảng sợ, đều liên quan đến việc giảng dạy các kỹ thuật thúc đẩy tình trạng thư giãn. Những chiến lược này là một phần quan trọng của trị liệu vì vừa làm giảm lo âu vừa cho phép tiếp tục liệu pháp tâm lý có thể gây lo âu. Các chiến lược thư giãn bao gồm chánh niệm, thiền định, thôi miên, tập thể dục và thở chậm, đều đặn.

Liệu pháp nhận thức-hành vi (CBT) là một thuật ngữ chung dùng để chỉ các liệu pháp trò chuyện tập trung vào rối loạn tư duy (nhận thức) và/hoặc các hành vi rối loạn chức năng. CBT đã được chứng minh là có hiệu quả đối với chứng rối loạn hoảng sợ (2).

Bệnh nhân có thể có chu kỳ suy nghĩ riêng biệt nhưng rối loạn chức năng, có thể gây ra lo lắng và/hoặc hoảng sợ. Ví dụ, một người có thể có mối lo lắng cơ bản về việc bị nhồi máu cơ tim và họ có thể dành quá nhiều thời gian để kiểm tra cơ thể mình để tìm các dấu hiệu của cơn đau tim. Nếu họ cảm thấy đau nhói ở ngực, họ có thể bắt đầu một chu kỳ nhanh chóng dẫn đến niềm tin hoang mang, sai lầm rằng họ sắp chết. CBT liên quan đến việc làm rõ các chu kỳ này và sau đó dạy bệnh nhân nhận biết và kiểm soát suy nghĩ lệch lạc và niềm tin sai lầm của họ. Sau đó, họ có thể sửa đổi hành vi của họ để hành vi đó thích ứng hơn. Ngoài ra, việc điều trị khuyến khích họ dần dần tiếp xúc với những tình huống có thể gây ra hoảng loạn, từ đó làm giảm bớt sự nhạy cảm mà họ giả định về mối liên hệ giữa bối cảnh và các triệu chứng.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Quagliato LA, Freire RC, Nardi AE: Risks and benefits of medications for panic disorder: A comparison of SSRIs and benzodiazepines. Expert Opin Drug Saf 17(3):315-324, 2018 doi: 10.1080/14740338.2018.1429403

2. Papola D, Ostuzzi G, Tedeschi F, et al: Comparative efficacy and acceptability of psychotherapies for panic disorder with or without agoraphobia: Systematic review and network meta-analysis of randomised controlled trials. Br J Psychiatry 221(3):507-519, 2022. doi: 10.1192/bjp.2021.148  

Chứng sợ khoảng rộng là sự lo lắng mãnh liệt và/hoặc né tránh các tình huống (ví dụ: ở trong đám đông hoặc trung tâm mua sắm, lái xe) có thể khó rời đi hoặc không có sẵn sự trợ giúp nếu các triệu chứng giống như hoảng loạn mất khả năng phát triển. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí lâm sàng. Việc điều trị tập trung vào liệu pháp nhận thức-hành vi, cụ thể là liệu pháp tiếp xúc.

Chứng sợ khoảng rộng là hậu quả thường gặp của chứng rối loạn hoảng sợ, nhưng 2 chứng rối loạn này cũng có thể phát triển độc lập.

Chứng sợ khoảng rộng ảnh hưởng đến khoảng 2% dân số trong một năm nhất định và phổ biến hơn ở nữ giới (1). Chứng sợ khoảng rộng thường phát sinh ở tuổi thiếu niên và thanh niên, nhưng tình trạng này cũng có thể phát sinh ở người cao tuổi, đặc biệt là trong bối cảnh lo sợ về sự an toàn và những hạn chế về thể chất của bản thân.

Tài liệu tham khảo chung

1. Roest AM,  de Vries YA,  Lim CCW, et al: A comparison of DSM-5 and DSM-IV agoraphobia in the World Mental Health Surveys. Depress Anxiety36(6):499-510, 2019. doi: 10.1002/da.22885

Các ví dụ phổ biến về tình huống hoặc địa điểm tạo ra nỗi sợ hãi và lo lắng ở bệnh nhân mắc chứng sợ khoảng rộng bao gồm rời khỏi nhà, đứng xếp hàng, ngồi giữa một hàng dài trong rạp hát hoặc lớp học và sử dụng phương tiện giao thông công cộng như xe buýt hoặc máy bay. Một số người phát triển chứng sợ khoảng rộng để phản ứng với các cơn hoảng loạn dẫn đến việc tránh các tác nhân tiềm ẩn gây hoảng loạn. Chứng sợ khoảng rộng có thể tương đối nhẹ nhưng cũng có thể làm cho người đó trở nên suy nhược đến mức họ về cơ bản là phải ở nhà.

Cũng như các chứng rối loạn lo âu khác, các triệu chứng của chứng sợ khoảng rộng có thể giảm dần ở mức độ nặng.

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

Để đáp ứng tiêu chuẩn DSM-5-TR về chứng sợ khoảng rộng, bệnh nhân phải có nỗi sợ hãi hoặc lo lắng rõ rệt, dai dẳng ( 6 tháng) về 2 tình huống trở lên trong số các tình huống sau (1):

  • Sử dụng phương tiện giao thông công cộng

  • Ở trong không gian mở (ví dụ như bãi đậu xe, nơi buôn bán)

  • Ở trong một nơi kín (ví dụ như cửa hàng, nhà hát)

  • Đứng trong hàng hoặc đang ở trong đám đông

  • Ở một mình bên ngoài nhà

Lo sợ phải liên quan đến những suy nghĩ thoát khỏi tình huống có thể là khó khăn hoặc bệnh nhân sẽ không nhận được sự trợ giúp nếu họ trở nên mất khả năng do lo sợ hoặc một cơn hoảng sợ. Ngoài ra, cần phải có tất cả những điều sau đây:

  • Các tình huống tương tự gần như luôn gây ra lo sợ hoặc lo âu.

  • Bệnh nhân chủ động tránh tình huống này và/hoặc yêu cầu sự hiện diện của một người bạn đồng hành.

  • Sự lo sợ hoặc lo âu là không phù hợp với mối đe dọa thực tế (có tính đến các chuẩn mực văn hoá xã hội).

  • Lo sợ, lo âu, và/hoặc né tránh này gây ra những căng thẳng đáng kể hoặc làm suy giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp.

  • Nếu có một tình trạng bệnh lý khác (ví dụ: bệnh viêm ruột, bệnh Parkinson), nỗi sợ hãi, lo lắng và/hoặc sự né tránh rõ ràng là quá mức.

Ngoài ra, nỗi sợ hãi và lo lắng không thể được mô tả rõ hơn như một rối loạn tâm thần khác (ví dụ: rối loạn lo âu xã hộirối loạn dị dạng cơ thể).

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision DSM-5-TR. American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 246-250.

  • Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT)

  • Liệu pháp phơi nhiễm

  • Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI)

Phương pháp điều trị hiệu quả nhất, dựa trên bằng chứng chắc chắn nhất, là liệu pháp tiếp xúc sử dụng các nguyên tắc CBT (1). Chứng sợ khoảng rộng có thể tự khỏi mà không cần điều trị chính thức, có thể do một số người bị ảnh hưởng tiến hành hình thức trị liệu phơi nhiễm của riêng họ và cũng vì các triệu chứng lo âu (và các yếu tố gây căng thẳng) dao động theo thời gian.

Nhiều bệnh nhân mắc chứng sợ khoảng rộng cũng được hưởng lợi từ liệu pháp dùng thuốc bằng một loại SSRI (2).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Carpenter JK, Andrews LA, Witcraft SM, et al: Cognitive behavioral therapy for anxiety and related disorders: A meta-analysis of randomized placebo-controlled trials. Depress Anxiety 35(6):502-514, 2018. doi: 10.1002/da.22728

2. Chawla N, Anothaisintawee T, Charoenrungrueangchai K, et al: Drug treatment for panic disorder with or without agoraphobia: Systematic review and network meta-analysis of randomised controlled trials. BMJ 376:e066084, 2022 doi: 10.1136/bmj-2021-066084

Rối loạn lo âu lan tỏa được đặc trưng bởi sự lo lắng và lo lắng quá mức về một số hoạt động hoặc sự kiện diễn ra nhiều ngày trong thời gian  6 tháng. Nguyên nhân vẫn chưa được biết, mặc dù nó thường xảy ra ở những người rối loạn sử dụng rượutrầm cảm điển hình, hoặc rối loạn hoảng sợ. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí lâm sàng. Điều trị bao gồm can thiệp hành vi, trị liệu tâm lý, trị liệu bằng thuốc hoặc phối hợp.

Rối loạn lo âu lan tỏa (GAD) phổ biến, ảnh hưởng đến khoảng 3% dân số trong khoảng thời gian 1 năm (1). Tỷ lệ mắc bệnh ở nữ giới cao gấp đôi ở nam giới (2). Rối loạn thường bắt đầu ở tuổi trưởng thành nhưng có thể bắt đầu ở mọi lứa tuổi. GAD thường có diễn biến mạn tính và thường liên quan đến tình trạng khuyết tật chức năng đáng kể và chất lượng cuộc sống bị giảm sút.

Tài liệu tham khảo chung

1. Kessler RC,  Chiu WT, Demler O, et al: Prevalence, severity, and comorbidity of 12-month DSM-IV disorders in the National Comorbidity Survey Replication. Arch Gen Psychiatry 62(6):617-627, 2005. doi: 10.1001/archpsyc.62.6.617

2. Wittchen HU, Zhao S, Kessler RC, et al: DSM-III-R generalized anxiety disorder in the National Comorbidity Survey. Arch Gen Psychiatry 1994 May;51(5):355-64. doi: 10.1001/archpsyc.1994.03950050015002

Những người bị GAD có nhiều mối lo lắng và thường thay đổi theo thời gian. Những lo lắng thường gặp bao gồm trách nhiệm với công việc và gia đình, tiền bạc, sức khỏe, sự an toàn, sửa chữa xe và công việc vặt. Trong GAD, trọng tâm không phải là một mối lo lắng duy nhất (ví dụ: xấu hổ ở nơi công cộng hoặc bị ô nhiễm).

Diễn biến thường dao động và man tính. Hầu hết bệnh nhân mắc GAD đều có một hoặc nhiều rối loạn tâm thần kèm theo, bao gồm trầm cảm nặngám ảnh cụ thểrối loạn lo âu xã hội hoặc rối loạn hoảng sợ.

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

Để đáp ứng tiêu chuẩn DSM-5-TR về GAD, bệnh nhân phải lo lắng và lo lắng quá mức về một số hoạt động hoặc sự kiện (ví dụ: hiệu quả công việc và học tập), xảy ra nhiều ngày hơn không trong  6 tháng (1).

Những lo lắng khó kiểm soát và phải liên quan đến  3 trong số các dấu hiệu sau:

  • Cảm giác bồn chồn hoặc căng thẳng hoặc bực dọc

  • Dễ mệt mỏi

  • Khó tập trung

  • Cáu gắt

  • Căng cơ

  • Giấc ngủ bị rối loạn

Các triệu chứng tâm thần phải gây ra đau khổ đáng kể hoặc làm suy giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp. Ngoài ra, sự lo lắng và lo ngại không thể giải thích được do sử dụng chất kích thích hoặc rối loạn bệnh lý nói chung (ví dụ: cường giáp).

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition,Text Revision DSM-5-TR. American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 250-254.

  • Thuốc chống trầm cảm (ví dụ: thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine)

  • Thuốc giải lo âu (ví dụ: benzodiazepin, buspirone)

  • Tâm lý trị liệu

Các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (ví dụ: escitalopram) và các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine (ví dụ: venlafaxine) là những loại thuốc được ưu tiên để điều trị GAD; việc sử dụng các thuốc này thường giúp cải thiện triệu chứng sau 3 tuần đến 6 tuần (1). Liều nhỏ đến trung bình của thuốc benzodiazepin có thể làm giảm lo lắng ngay lập tức, mặc dù việc sử dụng lâu dài có thể dẫn đến sự lệ thuộc về thể chất cũng như nhiều tác dụng bất lợi, bao gồm buồn ngủ, hay quên và vụng về. Một chiến lược điều trị GAD bao gồm việc bắt đầu bằng cả thuốc benzodiazepine và thuốc chống trầm cảm, cũng như liệu pháp tâm lý tập trung vào lo âu (xem bảng Benzodiazepin). Sau đó, khi các triệu chứng GAD đã có thể kiểm soát được, thuốc benzodiazepine có thể giảm dần và tiếp tục ở liều thấp hơn hoặc ngừng sử dụng.

Benzodiazepine

Thuốc

Bắt đầu/Thời gian

Alprazolam*

Trung bình/trung bình

Chlordiazepoxide*

Trung bình/dài

Clonazepam

Trung bình/dài

Clorazepate*

Nhanh/dài

Diazepam*

Nhanh/dài

Lorazepam

Trung bình/ngắn

Oxazepam

Chậm/ngắn

Nói chung, những loại thuốc này không được khuyến cáo cho bệnh nhân cao tuổi vì thời gian bán hủy dài.

Buspirone cũng có thể có hiệu quả (2), mặc dù các triệu chứng thường không giảm cho đến khi tăng dần liều đến mức khuyến nghị trên.

Trị liệu tâm lý, thường là liệu pháp nhận thức-hành vi, có thể vừa hỗ trợ vừa tập trung vào vấn đề (3). Các kỹ thuật thư giãn, thôi miên, tập thể dục, cải thiện giấc ngủ và giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm cũng thường hữu ích.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Kapczinski F,  Lima MS, Souza JS, et al: Antidepressants for generalized anxiety disorder. Cochrane Database Syst Rev (2):CD003592, 2003. doi: 10.1002/14651858.CD003592

2. Chessick CA, Allen MH,  Thase M, et al: Azapirones for generalized anxiety disorder. Cochrane Database Syst Rev 2006(3):CD006115, 2006. doi: 10.1002/14651858.CD006115

3. DeMartini J, Patel G, Fancher TL: Generalized anxiety disorder. Ann Intern Med 170(7):ITC49-ITC64, 2019 doi: 10.7326/AITC201904020

Hầu hết các chẩn đoán tâm thần được nhóm lại theo triệu chứng cốt lõi. Các rối loạn liên quan đến chấn thương và liên quan đến yếu tố gây căng thẳng là không phổ biến vì các rối loạn này được nhóm lại theo nguyên nhân rõ ràng: tất cả các rối loạn này phát triển sau khi tiếp xúc với một sự kiện chấn thương hoặc căng thẳng. Các rối loạn này thường được thảo luận trong bối cảnh rối loạn lo âu, nhưng các rối loạn liên quan đến chấn thương và căng thẳng có thể biểu hiện kèm theo chứng khó nuốt, khó chịu, phân ly, sử dụng chất kích thích hoặc mất ngủ cùng với (hoặc thay vì) lo lắng.

Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, Tái bản lần thứ 5, Sửa đổi Văn bản (DSM-5-TR) phân loại các rối loạn sau đây là các rối loạn liên quan đến chấn thương và căng thẳng:

  • Rối loạn phản ứng gắn bó (chỉ được chẩn đoán ở trẻ em)

  • Rối loạn tham gia xã hội bị ức chế (chỉ được chẩn đoán ở trẻ em)

  • Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD)

  • Rối loạn căng thẳng cấp tính

  • Rối loạn điều chỉnh

  • Rối loạn đau buồn kéo dài

  • Các rối loạn liên quan đến chấn thương và liên quan đến yếu tố gây căng thẳng xác định khác

Rối loạn căng thẳng cấp tính (ASD) và rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) tương tự nhau ngoại trừ ASD thường bắt đầu ngay sau chấn thương và kéo dài từ 3 ngày đến 1 tháng, trong khi PTSD có thể bắt đầu như một sự tiếp nối của ASD hoặc là một sự xuất hiện riêng biệt bắt đầu một tháng hoặc hơn sau chấn thương. Nó cũng có thể bắt đầu với biểu hiện chậm trễ từ 6 tháng trở lên sau chấn thương. ASD và PTSD ở trẻ em và thanh thiếu niên sẽ được thảo luận ở phần khác.

Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) là một chứng rối loạn khuyết tật phát triển sau khi trải qua một sự kiện đau thương. Nó được đặc trưng bởi những suy nghĩ xâm nhập, ác mộng và hồi tưởng; tránh nhắc nhở về chấn thương; nhận thức và tâm trạng tiêu cực; tăng cảnh giác và rối loạn giấc ngủ. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí lâm sàng. Điều trị bao gồm liệu pháp tâm lý và đôi khi là liệu pháp dược lý bổ trợ.

Tỷ lệ hiện mắc PTSD trong suốt cuộc đời là khoảng 9%, với tỷ lệ hiện mắc trong 12 tháng là khoảng 4% (1).

Chiến đấu, tấn công tình dục, và thiên tai tự nhiên hoặc do con người gây ra là những nguyên nhân phổ biến của PTSD. PTSD có thể dẫn đến rối loạn chức năng xã hội, nghề nghiệp và cá nhân nghiêm trọng.

Trong khi chứng rối loạn căng thẳng cấp tính (ASD) chỉ có thể được chẩn đoán trong vòng tháng đầu tiên sau chấn thương thì PTSD chỉ có thể được chẩn đoán ít nhất 1 tháng sau chấn thương. ASD có thể phát triển trực tiếp thành PTSD, hoặc PTSD có thể phát triển nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm sau chấn thương mà không có vấn đề gì rõ ràng trước đó.

Tài liệu tham khảo chung

1. Goldstein RB, Smith SM, Chou SP, et al: The epidemiology of DSM-5 posttraumatic stress disorder in the United States: Results from the National Epidemiologic Survey on Alcohol and Related Conditions-III. Soc Psychiatry Psychiatr Epidemiol 51(8):1137-1148, 2016. doi: 10.1007/s00127-016-1208-5

Các triệu chứng của PTSD có thể được chia thành 4 loại:

  • Xâm nhập

  • Né tránh

  • Những thay đổi tiêu cực trong nhận thức và tâm trạng

  • Thay đổi về kích động và phản ứng

Xâm nhập: Xâm nhập là những ký ức hoặc cơn ác mộng không mong muốn tái hiện lại sự kiện kích hoạt. Xâm nhập có thể ở dạng “hồi tưởng”, có thể được kích hoạt bởi hình ảnh, âm thanh, mùi hoặc các kích thích khác. Ví dụ: một tiếng động lớn có thể khơi dậy ký ức về một vụ hành hung, khiến người đó hoảng sợ ném mình xuống đất.

Né tránh: Những người bị PTSD có thể tránh những lời nhắc nhở về chấn thương tâm lý, chẳng hạn như các khu vực cụ thể trong thị trấn hoặc các hoạt động yêu thích trước đây.

Những thay đổi tiêu cực trong nhận thức và tâm trạng: Những thay đổi về nhận thức và tâm trạng bao gồm sự thờ ơ và thờ ơ, nhận thức sai lệch, mất hứng thú, tự trách móc bản thân không phù hợp và trầm cảm.

Thay đổi về kích động và phản ứng: Những người bị PTSD có thể biểu hiện sự kích động, khó chịu và phản ứng quá mức hoặc họ có thể tỏ ra tê liệt và xa cách.

Một phân nhóm phân ly của PTSD đã được công nhận. Điều này bao gồm tất cả các triệu chứng được đề cập ở trên, cộng với sự phi nhân cách hóa (cảm giác tách rời khỏi bản thân hoặc cơ thể của một người) và/hoặc vô thực hóa (trải nghiệm thế giới như không thực hoặc giống như một giấc mơ).

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th Edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

Để đáp ứng tiêu chuẩn DSM-5-TR để chẩn đoán PTSD, bệnh nhân phải tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với một sự kiện chấn thương tâm lý và có các triệu chứng thuộc từng loại sau trong khoảng thời gian  1 tháng (1).

Triệu chứng xâm nhập ( 1 trong các triệu chứng sau):

  • Có những ký ức đau buồn tái diễn, không mong muốn, mang tính thâm nhập

  • Có những giấc mơ gây đau buồn xảy ra thường xuyên (ví dụ, cơn ác mộng) về sự kiện

  • Hành động hoặc cảm thấy như thể sự kiện đang xảy ra lần nữa, có thể từ việc có những hồi tưởng đến hoàn toàn mất đi nhận biết về môi trường hiện tại xung quanh

  • Cảm thấy căng thẳng về tâm lý hoặc sinh lý khi bị nhắc nhở về sự kiện đó (ví dụ: vào ngày kỷ niệm của nó, bởi những âm thanh tương tự như những âm thanh được nghe trong sự kiện đó)

Các triệu chứng tránh né ( 1 trong số các triệu chứng sau):

  • Né tránh các suy nghĩ, cảm xúc, hoặc ký ức liên quan đến sự kiện

  • Né tránh các hoạt động, địa điểm, cuộc trò chuyện hoặc những người gây kích hoạt ký ức về sự kiện

Tác động tiêu cực đến nhận thức và tâm trạng ( 2 trong số những điều sau):

  • Mất trí nhớ về các phần quan trọng của sự kiện (quên phân ly)

  • Những kì vọng hoặc niềm tin tiêu cực dai dẳng và bị phóng đại về bản thân, những người khác hoặc trên giới

  • Những suy nghĩ lệch lạc dai dẳng về nguyên nhân hoặc hậu quả của sang chấn dẫn đến đổ lỗi cho bản thân hay người khác

  • Tình trạng cảm xúc tiêu cực dai dẳng (ví dụ như lo sợ, ghê rợn, tức giận, tội lỗi, xấu hổ)

  • Giảm đáng kể sự quan tâm hoặc tham gia vào các hoạt động quan trọng

  • Cảm thấy mất gắn kết hoặc xa lạ với người khác

  • Liên tục mất khả năng trải nghiệm các cảm xúc tích cực (ví dụ như hạnh phúc, sự hài lòng, cảm nhận yêu thương)

Thay đổi kích thích và phản ứng ( 2 trong số những điều sau):

  • Khó ngủ

  • Dễ bị kích thích hoặc tức giận dữ dội

  • Hành vi tự hủy hoại hoặc liều lĩnh

  • Vấn đề tập trung

  • Tăng phản ứng giật mình

  • Tăng cảnh giác

Ngoài ra, các biểu hiện phải gây ra tình trạng đau khổ đáng kể hoặc làm suy giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp và không có liên quan đến các ảnh hưởng sinh lý của một chất hoặc bệnh nội khoa khác.

Loại phụ phân ly của PTSD được chẩn đoán khi, ngoài tất cả các triệu chứng nêu trên, còn có bằng chứng về sự mất nhân cách (cảm giác tách rời khỏi bản thân hoặc cơ thể) và/hoặc mất thực tế (trải nghiệm thế giới như không thực hoặc giống như mơ).

PTSD thường bị bỏ qua. Chấn thương có thể không rõ ràng đối với bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân có thể không có động lực để thảo luận về một chủ đề khó. Chấn thương có thể dẫn đến một vòng xoáy phức tạp của các triệu chứng nhận thức, tình cảm, hành vi và cơ thể. Việc chẩn đoán thường phức tạp hơn do có rối loạn trầm cảm xảy ra đồng thời, rối loạn lo âu và/hoặc rối loạn sử dụng chất kích thích.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 301-313.

  • Tự chăm sóc

  • Tâm lý trị liệu

  • Điều trị bằng thuốc

Tự chăm sóc

Tự chăm sóc là rất quan trọng trong và sau một cuộc khủng hoảng hoặc chấn thương. Tự chăm sóc bao gồm:

  • An toàn cá nhân

  • Sức khỏe thể chất

  • Để đầu óc trống rỗng

An toàn cá nhân là nền tảng. Sau một chấn thương, mọi người có khả năng xử lý trải nghiệm tốt hơn khi họ biết rằng họ và những người thân yêu của họ được an toàn. Tuy nhiên, có thể rất khó để có được sự an toàn hoàn toàn trong các cuộc khủng hoảng đang diễn ra như bạo hành gia đình, chiến tranh hoặc đại dịch. Trong những khó khăn liên tục như vậy, mọi người nên tìm kiếm sự hướng dẫn của các chuyên gia về cách họ và người thân của họ có thể an toàn nhất có thể.

Sức khỏe thể chất có thể gặp nguy hiểm trong và sau khi trải nghiệm chấn thương. Càng nhiều càng tốt, người có nguy cơ nên cố gắng duy trì một lịch trình ăn, ngủ và tập thể dục lành mạnh. Các chất và thuốc có tác dụng an thần (ví dụ: nhóm thuốc benzodiazepin) và gây say (ví dụ: rượu) cần phải được sử dụng một cách chừng mực, nếu có.

Phương pháp chánh niệm để chăm sóc bản thân nhằm mục đích giảm bớt căng thẳng, buồn chán, tức giận, buồn bã và cô lập mà những người bị tổn thương thường gặp phải. Nếu hoàn cảnh cho phép, những người có nguy cơ nên lập và tuân theo lịch trình bình thường hàng ngày, tiếp tục tham gia với gia đình và cộng đồng, đồng thời thực hiện những sở thích quen thuộc (hoặc phát triển những sở thích mới).

Sẽ rất hữu ích nếu hạn chế lượng thời gian dành cho tin tức và thay vào đó chuyển sang các hoạt động khác (ví dụ: đọc tiểu thuyết, giải câu đố, vẽ tranh, làm bánh quy cho người hàng xóm ở nhà).

Tâm lý trị liệu

Liệu pháp nhận thức-hành vi tập trung vào chấn thương (CBT) có bằng chứng mạnh mẽ nhất về hiệu quả đối với hầu hết những người mắc PTSD (1). Đối với chứng rối loạn căng thẳng cấp tính (ASD), hình thức trị liệu tâm lý này bao gồm giáo dục bệnh nhân, tái cấu trúc nhận thức và tiếp xúc trị liệu với những hồi ức về trải nghiệm đau thương. Liệu pháp xử lý nhận thức là một loại CBT bao gồm việc trò chuyện về những tác động của trải nghiệm đau thương và đưa những suy nghĩ tiêu cực về bản thân cũng như những trải nghiệm đau thương vào quan điểm, coi chúng khác với chấn thương thực tế.

Tiếp xúc kéo dài là một liệu pháp tâm lý hiệu quả khác bao gồm việc giải quyết một loạt ký ức đau thương trong khi quản lý phản ứng tâm sinh lý đối với chúng bằng các kỹ thuật như kiểm soát hơi thở, từ đó làm giảm dần tác động của ký ức.

Khử nhạy cảm và tái xử lý chuyển động của mắt (EMDR) là một hình thức trị liệu phơi nhiễm cũng có thể được sử dụng (2). Đối với liệu pháp này, bệnh nhân được yêu cầu nhìn theo ngón tay di chuyển của nhà trị liệu trong khi họ tưởng tượng bị tiếp xúc với sang chấn. Trong khi một số chuyên gia cho rằng bản thân chuyển động của mắt giúp khử nhạy cảm, những người khác cho rằng hiệu quả của nó chủ yếu là do tiếp xúc hơn là chuyển động của mắt.

Phong cách trị liệu rất quan trọng trong điều trị PTSD (3). Tình cảm ấm áp, trấn an và đồng cảm là một số yếu tố không đặc hiệu có thể cực kỳ quan trọng khi làm việc với những người mắc các triệu chứng PTSD cốt lõi như xấu hổ, né tránh, cảnh giác quá mức và thờ ơ.

Điều trị bằng thuốc

Bằng chứng về liệu pháp dùng thuốc trong PTSD kém mạnh mẽ hơn so với liệu pháp tâm lý tập trung vào chấn thương (4). Thông thường, thuốc được sử dụng để điều trị các rối loạn tâm thần đồng thời hoặc các triệu chứng PTSD đặc biệt nổi bật, chẳng hạn như trầm cảm hoặc lo lắng.

Các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) có thể làm giảm lo lắng và/hoặc trầm cảm (5). Prazosin có vẻ hữu ích trong việc làm giảm ác mộng (6). Một đợt dùng thuốc an thần ngắn có thể giúp giảm chứng mất ngủ. Nhiều loại thuốc khác đang được sử dụng với bằng chứng ngày càng rõ ràng về hiệu quả; các loại thuốc này bao gồm các thuốc ổn định tâm trạng (ví dụ: axit valproic), thuốc chống loạn thần không điển hình (ví dụ: aripiprazole) và thuốc gây ảo giác (như là MDMA, ketamine và psilocybin) (7).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Bisson J, Andrew M: Psychological treatment of post-traumatic stress disorder (PTSD). Cochrane Database Syst Rev  (3):CD003388, 2007. doi: 10.1002/14651858.CD003388.pub3

2. Wilson G, Farrell D, Barron I, et al: The use of eye-movement desensitization reprocessing (EMDR) therapy in treating post-traumatic stress disorder—A systematic narrative review. Front Psychol;9:923, 2018. doi: 10.3389/fpsyg.2018.00923

3. Howard R, Berry K, Haddock G: Therapeutic alliance in psychological therapy for posttraumatic stress disorder: A systematic review and meta-analysis. Clin Psychol Psychother 29(2):373-399, 2022. doi: 10.1002/cpp.2642

4. Wright LA, Sijbrandij M, Sinnerton R, et al: Pharmacological prevention and early treatment of post-traumatic stress disorder and acute stress disorder: A systematic review and meta-analysis. Transl Psychiatry 9(1):334, 2019. doi: 10.1038/s41398-019-0673-5

5. Stein DJ, Ipser JC, Seedat S: Pharmacotherapy for post traumatic stress disorder (PTSD). Cochrane Database Syst Rev 22006(1):CD002795, 2006 doi: 10.1002/14651858.CD002795.pub2

6. Khachatryan D,  Groll D, Booij L: Prazosin for treating sleep disturbances in adults with posttraumatic stress disorder: a systematic review and meta-analysis of randomized controlled trials. Gen Hosp Psychiatry 39:46-52, 2016. doi: 10.1016/j.genhosppsych.2015.10.007

7. Krediet E, Bostoen T, Breeksema J, et al: Reviewing the potential of psychedelics for the treatment of PTSD. Int J Neuropsychopharmacol. 23(6):385-400, 2020. doi: 10.1093/ijnp/pyaa018

Rối loạn stress cấp là một khoảng thời gian ngắn xuất hiện các hồi tưởng mang tính thâm nhập xảy ra trong vòng 4 tuần chứng kiến hoặc trải qua một sự kiện sang chấn rất mạnh. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí lâm sàng. Điều trị tập trung vào việc tự chăm sóc và trị liệu tâm lý. Điều trị bằng thuốc có vai trò hạn chế.

Rối loạn căng thẳng cấp tính (ASD) liên quan đến các phản ứng căng thẳng cấp tính phát triển trong vòng 1 tháng sau khi tiếp xúc với một sự kiện đau thương. Những phản ứng căng thẳng này bao gồm những ký ức xâm lấn về chấn thương, tránh các tác nhân kích thích nhắc nhở bệnh nhân về chấn thương, tâm trạng tiêu cực, các triệu chứng phân ly (bao gồm mất trí nhớ và mất trí nhớ), tránh nhắc nhở và tăng hưng phấn. Nếu các triệu chứng đáng kể kéo dài hơn 1 tháng, nên xem xét chẩn đoán rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD).

ASD mô tả một nhóm người bị đau khổ đáng kể sau trải nghiệm đau thương vượt xa điều đó phù hợp với chứng rối loạn điều chỉnh.

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

Để đáp ứng tiêu chuẩn DSM-5-TR trong chẩn đoán rối loạn căng thẳng cấp tính, bệnh nhân phải tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với một sự kiện sang chấn và  9 trong số các triệu chứng sau đây thuộc bất kỳ loại nào trong 5 loại (xâm nhập, tâm trạng tiêu cực, phân ly, tránh né và kích thích) phải tồn tại trong khoảng thời gian từ 3 ngày đến 1 tháng (1):

Các triệu chứng xâm nhập

  • Lặp lại, không chủ ý, và mang tính thâm nhập của những kí ức gây căng thẳng về sự kiện

  • Giấc mơ gây đau buồn tái diễn về sự kiện

  • Phản ứng phân ly (ví dụ: hồi tưởng trong đó bệnh nhân cảm thấy như thể sự kiện đau buồn đang tái diễn)

  • Đau khổ tâm lý hoặc sinh lý mãnh liệt khi bị nhắc nhở về sự kiện này (ví dụ: khi đi vào một địa điểm tương tự, bởi những âm thanh tương tự như những âm thanh được nghe trong sự kiện đó)

Tâm trạng tiêu cực

  • Liên tục mất khả năng trải nghiệm các cảm xúc tích cực (ví dụ như hạnh phúc, sự hài lòng, cảm nhận yêu thương)

Triệu chứng phân ly

  • Một thay đổi cảm nhận về thực tại (ví dụ, cảm thấy sững sờ, thời gian chậm lại, tri giác thay đổi)

  • Không thể nhớ một phần quan trọng của sự kiện sang chấn

Triệu chứng né tránh

  • Những nỗ lực để né tránh những ký ức, suy nghĩ và cảm nhận đau buồn liên quan đến sự kiện

  • Các nỗ lực để né tránh những gợi nhớ từ bên ngoài (những người, địa điểm, cuộc trò chuyện, hoạt động, đối tượng, tình huống) liên quan đến sự kiện

Triệu chứng kích thích

  • Rối loạn giấc ngủ

  • Dễ bị kích thích hoặc tức giận dữ dội

  • Tăng cảnh giác

  • Khó tập trung

  • Phản ứng giật mình quá mức

Ngoài ra, những triệu chứng này phải gây ra đau khổ đáng kể hoặc làm suy giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp. Các triệu chứng không nên được quy cho các tác động sinh lý của rối loạn liên quan đến chất kích thích hoặc bệnh lý khác.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition,Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 313-319.

  • An toàn và tự chăm sóc

  • Tâm lý trị liệu

  • Vai trò hạn chế của dược trị liệu

An toàn và tự chăm sóc là điều quan trọng để phục hồi thành công sau chứng rối loạn căng thẳng cấp tính (ASD). Có thể khó vượt qua ASD nếu trải nghiệm đau thương tái diễn và điều kiện xung quanh vẫn không an toàn. Chú ý đến nhu cầu thể chất và ngủ đủ giấc sẽ rất hữu ích.

Ngoài ra, liệu pháp tâm lý tập trung vào việc giải quyết hậu quả cảm xúc của chấn thương có thể có hiệu quả. Những tác động bất lợi của trải nghiệm đau buồn bất ngờ có thể bao gồm sự xấu hổ và cảm giác tội lỗi không phù hợp, có thể được điều chỉnh bằng sự bảo vệ và hỗ trợ về mặt cảm xúc.

Tự chăm sóc

Tự chăm sóc là rất quan trọng trong và sau một cuộc khủng hoảng hoặc chấn thương. Tự chăm sóc có thể được chia thành 3 phần:

  • An toàn cá nhân

  • Sức khỏe thể chất và hỗ trợ thiết thực

  • Để đầu óc trống rỗng

An toàn cá nhân là nền tảng. Sau một giai đoạn đau buồn, mọi người có khả năng xử lý trải nghiệm tốt hơn khi họ biết rằng họ và những người thân yêu của họ được an toàn. Tuy nhiên, có thể rất khó để có được sự an toàn hoàn toàn trong các cuộc khủng hoảng đang diễn ra như bạo hành gia đình, chiến tranh hoặc đại dịch. Trong những khó khăn liên tục như vậy, mọi người nên tìm kiếm sự hướng dẫn của các chuyên gia về cách họ và người thân của họ có thể an toàn nhất có thể.

Sức khỏe thể chất có thể gặp nguy hiểm trong và sau khi trải nghiệm chấn thương. Càng nhiều càng tốt, người có nguy cơ nên cố gắng duy trì một lịch trình ăn, ngủ và tập thể dục lành mạnh. Các loại thuốc và chất kích thích có tác dụng an thần (ví dụ: benzodiazepin) và gây say (ví dụ: rượu) nên được sử dụng một cách tiết kiệm, nếu có. Hỗ trợ thiết thực bao gồm hỗ trợ về nhà ở, hỗ trợ pháp lý, bảo hiểm và các vấn đề khác cần được giải quyết nhưng có thể quá sức.

Một chánh niệm tiếp cận chăm sóc bản thân nhằm giảm căng thẳng, buồn chán, tức giận, buồn bã và cô lập mà những người bình thường gặp phải. Nếu hoàn cảnh cho phép, những người có nguy cơ nên lập và tuân theo lịch trình hàng ngày bình thường.

Sự tham gia của cộng đồng có thể rất quan trọng, ngay cả khi việc duy trì kết nối của con người là khó khăn trong cuộc khủng hoảng.

Nó rất hữu ích để thực hành những sở thích quen thuộc cũng như các hoạt động nghe có vẻ vui và gây mất tập trung: vẽ một bức tranh, xem một bộ phim, nấu ăn.

Kéo dãn và tập thể dục có lợi, nhưng các kỹ thuật tự xoa dịu như đếm hơi thở, thiền định hoặc tự thôi miên cũng có thể hữu ích. Kết nối xã hội với gia đình và bạn bè cũng được khuyến khích.

Khi bị căng thẳng, con người có thể trở nên nóng nảy, ngay cả với những người họ quan tâm. Bạn bè và gia đình có thể đặc biệt hữu ích trong việc tiếp cận và bày tỏ sự quan tâm cũng như an ủi. Gửi một lời nhắn hay, làm bánh quy cho ai đó và nở một nụ cười có thể không chỉ là một bất ngờ thú vị cho người nhận mà những hành động như vậy có thể làm giảm đi sự tuyệt vọng và xấu hổ thường là một phần của trải nghiệm chấn thương.

Tâm lý trị liệu

Liệu pháp nhận thức-hành vi tập trung vào chấn thương (CBT) là phương pháp điều trị CBT có giới hạn thời gian, có cơ sở bằng chứng mạnh mẽ nhất để điều trị ASD và phòng ngừa PTSD (1). Liệu pháp tâm lý này bao gồm 3 phần:

  • Giáo dục bệnh nhân là bước khởi đầu quan trọng. Việc bình thường hóa và giải thích về phản ứng căng thẳng thường hữu ích, đồng thời là lời nhắc nhở rằng các triệu chứng sẽ được cải thiện.

  • Tái cấu trúc nhận thức giúp điều chỉnh những suy nghĩ không thích hợp mà bệnh nhân có thể có về chấn thương hoặc phản ứng cá nhân đối với chấn thương.

  • Tiếp xúc với những ký ức đau thương hoặc những lời nhắc nhở an toàn về những trải nghiệm đau thương là một phần quan trọng – dù khó khăn – của liệu pháp tâm lý. Thông qua việc trải nghiệm lại, bệnh nhân có khả năng xử lý cảm xúc tốt hơn những tài liệu mà trước đây họ từng trải qua là choáng ngợp.

CBT tập trung vào chấn thương thường bị trì hoãn ít nhất 2 tuần sau chấn thương. Khoảng thời gian này cho phép hầu hết các tình huống bình tĩnh lại và giúp bệnh nhân tránh xa các vấn đề cấp tính liên quan đến các biến chứng như nguy hiểm, đau đớn, phẫu thuật và di chuyển về mặt địa lý. Vì bản thân CBT tập trung vào chấn thương có thể gây căng thẳng nên việc điều trị có thể bị trì hoãn trong nhiều tháng trong khi bác sĩ lâm sàng xác định các yếu tố có thể làm phức tạp việc điều trị. Những yếu tố phức tạp này bao gồm ý muốn tự tử, phân ly, đau buồn, tức giận, rối loạn tâm thần hoặc các triệu chứng PTSD có ý nghĩa lâm sàng do chấn thương trước đó.

Phỏng vấn là một hình thức trị liệu tâm lý không được khuyến khích vì nó chưa được chứng minh là có hiệu quả; tuy nhiên, nó vẫn được thực hành rộng rãi. Đối với sự can thiệp này, bệnh nhân được yêu cầu cung cấp mô tả chi tiết về chấn thương trong vòng 72 giờ đầu tiên.

Điều trị bằng thuốc

Không có loại thuốc nào được hỗ trợ bởi bằng chứng đầy đủ để khuyến nghị sử dụng thường xuyên để giảm các triệu chứng của ASD hoặc ngăn ngừa sự phát triển của PTSD (2).

Sử dụng thuốc benzodiazepin trong thời gian ngắn có thể hữu ích cho những bệnh nhân bị mất ngủ, lo lắng và kích động, nhưng việc sử dụng kéo dài dường như cản trở quá trình phục hồi. Mặc dù có thể có một số bệnh nhân mắc ASD cảm thấy nhẹ nhõm khi dùng các loại thuốc như thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI), propranolol hoặc morphine, nhưng các nghiên cứu vẫn chưa chứng minh được hiệu quả mạnh mẽ. Một nghiên cứu hồi cứu của quân đội Hoa Kỳ cho rằng việc sử dụng morphin trong giai đoạn cấp tính của chấn thương thể chất nghiêm trọng làm giảm nguy cơ phát triển PTSD sau đó (3); cách tiếp cận này chưa được nghiên cứu khác.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Carpenter JK, Andrews LA, Witcraft SM, et al: Cognitive behavioral therapy for anxiety and related disorders: A meta-analysis of randomized placebo-controlled trials. Depress Anxiety 35(6):502-514, 2018. doi: 10.1002/da.22728

2. Wright LA, Sijbrandij M, Sinnerton R, et al: Pharmacological prevention and early treatment of post-traumatic stress disorder and acute stress disorder: a systematic review and meta-analysis. Transl Psychiatry 9(1):334, 2019. doi: 10.1038/s41398-019-0673-5

3. Holbrook TL, Galarneau MR, Dye JL, et al: Morphine use after combat injury in Iraq and post-traumatic stress disorder N Engl J Med 362(2):110-117, 2010. doi: 10.1056/NEJMoa0903326.

Rối loạn điều chỉnh liên quan đến các triệu chứng cảm xúc và/hoặc hành vi để phản ứng với một yếu tố gây căng thẳng có thể xác định được. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí lâm sàng. Điều trị tập trung vào việc tự chăm sóc bản thân; tâm lý trị liệu và dược lý có thể có một vai trò.

Rối loạn điều chỉnh là phổ biến và hiện diện ở khoảng 5% đến 20% bệnh nhân đến khám sức khỏe tâm thần ngoại trú (1).

Yếu tố gây căng thẳng dẫn đến rối loạn điều chỉnh có thể là một sự kiện đơn lẻ, riêng biệt (ví dụ: mất việc), nhiều sự kiện (ví dụ: một loạt vấn đề tài chính hoặc thất bại trong chuyện tình cảm), một cột mốc phát triển chung (ví dụ: trở thành cha mẹ), hoặc một loạt vấn đề đang diễn ra (ví dụ: chăm sóc một thành viên gia đình khuyết tật). Tác nhân gây căng thẳng có thể chỉ tác động đến một cá nhân, cả gia đình hoặc một nhóm lớn người.

Cái chết của một người thân yêu có thể là một kết quả của một rối loạn điều chỉnh. Tuy nhiên, các bác sĩ lâm sàng phải tính đến nhiều loại phản ứng đau buồn được coi là điển hình ở các nền văn hóa khác nhau và chỉ chẩn đoán rối loạn nếu phản ứng tang chế vượt quá những gì được mong đợi hoặc không được phân loại tốt hơn là rối loạn đau buồn kéo dài.

Tài liệu tham khảo chung

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition,Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 320-323.

Các triệu chứng của rối loạn điều chỉnh thường bắt đầu trong vòng vài ngày sau sự kiện căng thẳng và giải quyết trong vòng 6 tháng kể từ khi tác nhân gây căng thẳng chấm dứt và hậu quả của nó. Có 3 loại triệu chứng rối loạn điều chỉnh: tâm trạng chán nản, lo lắng và rối loạn hành vi. Một số bệnh nhân có thể biểu hiện một trong những triệu chứng này đặc biệt nổi bật (ví dụ, cảm thấy lo lắng và bồn chồn sau khi bị hành hung; cư xử hung hăng không bình thường trong bối cảnh cha mẹ ly hôn), nhưng hầu hết bệnh nhân đều có nhiều triệu chứng hỗn hợp.

Tiêu chuẩn về rối loạn điều chỉnh ít cụ thể hơn so với rối loạn căng thẳng cấp tính hoặc rối loạn căng thẳng sau chấn thương và đây là chẩn đoán phổ biến ở cả bệnh nhân nội trú và bệnh nhân tâm thần ngoại trú. Mặc dù đôi khi được các bác sĩ lâm sàng coi là một chẩn đoán tâm thần “nhẹ”, rối loạn điều chỉnh có thể liên quan đến tình trạng đau khổ và/hoặc khuyết tật đáng kể.

Bệnh nhân mắc chứng rối loạn điều chỉnh cũng có nguy cơ cao hơn trong việc toan tự tử và tự sát thành công (1). (Xem thêm Hành vi tự sát.)

Tài liệu tham khảo về các dấu hiệu và triệu chứng

1. Casey P, Jabbar F, O’Leary E,et al: Suicidal behaviours in adjustment disorder and depressive episode. J Affect Disord 2015 Mar 15;174:441-6. doi: 10.1016/j.jad.2014.12.003

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th Edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

Theo tiêu chuẩn DSM-5-TR, bệnh nhân phải có (1)

  • Các triệu chứng cảm xúc hoặc hành vi trong vòng 3 tháng sau khi tiếp xúc với tác nhân gây stress

Các triệu chứng phải có ý nghĩa lâm sàng được thể hiện bằng một hoặc cả hai điều sau đây:

  • Đau khổ đáng kể không phù hợp với yếu tố gây stress (xem xét các yếu tố văn hóa và các yếu tố khác)

  • Các triệu chứng làm suy giảm đáng kể các lĩnh vực hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc quan trọng khác

Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) và rối loạn căng thẳng cấp tính (ASD) là một phần của chẩn đoán phân biệt, nhưng các rối loạn này có khung thời gian khác nhau và mô tả cụ thể hơn về các yếu tố gây căng thẳng cũng như đáp ứng của bệnh nhân.

Các rối loạn điều chỉnh thường đi kèm với các tình trạng khác và DSM-5-TR thường khuyến khích đưa vào tất cả các chẩn đoán thích hợp. Ví dụ: nếu một người đáp ứng các tiêu chuẩn về rối loạn điều chỉnh cũng như rối loạn ám ảnh cưỡng chế thì nên thực hiện cả hai chẩn đoán. Mặt khác, nếu bệnh nhân phát triển các triệu chứng trầm cảm do hậu quả của một yếu tố gây căng thẳng, bác sĩ lâm sàng được khuyến khích xem xét các tiêu chuẩn chẩn đoán cụ thể và đưa ra đánh giá xem liệu việc chẩn đoán bệnh nhân chỉ với một trong các căng thẳng có thể chính xác và hữu ích hơn về mặt lâm sàng hay không. cơn trầm cảm lớn.

Thuật ngữ rối loạn điều chỉnh thường bị các bác sĩ lâm sàng sử dụng sai như một thuật ngữ chung cho một bệnh cảnh lâm sàng không đặc hiệu và tương đối nhẹ. Do đó, DSM-5-TR đã đưa rối loạn điều chỉnh vào chương về chấn thương để làm nổi bật thực tế rằng các triệu chứng đó hẳn là phản ứng với một tác nhân gây căng thẳng. Tuy nhiên, hình ảnh lâm sàng thường không đồng nhất (ví dụ: với các triệu chứng lo âu, trầm cảm và/hoặc các vấn đề về hành vi) và chẩn đoán vẫn là một trong những chẩn đoán phổ biến nhất ở cả bệnh nhân nội trú và ngoại trú. Mặc dù sự không đồng nhất như vậy có thể hợp lý về mặt lâm sàng nhưng nó làm phức tạp cách tiếp cận điều trị.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 319-322.

  • Tự chăm sóc

  • Tâm lý trị liệu

  • Điều trị bằng thuốc

An toàn và tự chăm sóc là rất quan trọng để phục hồi thành công sau chứng rối loạn điều chỉnh. Việc điều trị sẽ khó khăn nếu trải nghiệm đau thương tái diễn và nếu điều kiện xung quanh vẫn không an toàn. Các biện pháp can thiệp khác có nhiều khả năng hữu ích hơn nếu bệnh nhân mắc chứng rối loạn điều chỉnh đang sống trong một gia đình nguyên vẹn và một hệ thống xã hội lành mạnh. Bệnh nhân thường hồi phục sau chứng rối loạn điều chỉnh theo thời gian và với sự giúp đỡ của bạn bè và gia đình.

Mặc dù liệu pháp tâm lý và thuốc có thể được sử dụng nhưng dữ liệu chứng minh hiệu quả của cách điều trị này còn hạn chế.

Tự chăm sóc

Tự chăm sóc là rất quan trọng trong và sau một cuộc khủng hoảng hoặc chấn thương. Tự chăm sóc bao gồm

  • An toàn cá nhân

  • Sức khỏe thể chất

  • Để đầu óc trống rỗng

An toàn cá nhân là nền tảng. Sau một chấn thương, mọi người có khả năng xử lý trải nghiệm tốt hơn khi họ biết rằng họ và những người thân yêu của họ được an toàn. Tuy nhiên, có thể rất khó để có được sự an toàn hoàn toàn trong các cuộc khủng hoảng đang diễn ra như bạo hành gia đình, chiến tranh hoặc đại dịch. Trong những khó khăn liên tục như vậy, mọi người nên tìm kiếm sự hướng dẫn của các chuyên gia về cách họ và người thân của họ có thể an toàn nhất có thể.

Sức khỏe thể chất có thể gặp nguy hiểm trong và sau khi trải nghiệm chấn thương. Càng nhiều càng tốt, người có nguy cơ nên cố gắng duy trì một lịch trình ăn, ngủ và tập thể dục lành mạnh. Các chất và thuốc có tác dụng an thần (ví dụ: nhóm thuốc benzodiazepin) và gây say (ví dụ: rượu) cần phải được sử dụng một cách chừng mực, nếu có.

Phương pháp chánh niệm để chăm sóc bản thân nhằm mục đích giảm bớt căng thẳng, buồn chán, tức giận, buồn bã và cô lập mà những người bị tổn thương thường gặp phải. Nếu hoàn cảnh cho phép, những người có nguy cơ nên lập và tuân theo lịch trình bình thường hàng ngày, tiếp tục tham gia với gia đình và cộng đồng, đồng thời thực hiện những sở thích quen thuộc (hoặc phát triển những sở thích mới).

Sẽ rất hữu ích nếu hạn chế lượng thời gian dành cho tin tức và thay vào đó chuyển sang các hoạt động khác (ví dụ: đọc tiểu thuyết, giải câu đố, vẽ tranh, làm bánh quy cho người hàng xóm ở nhà).

Tâm lý trị liệu

Bằng chứng hỗ trợ việc sử dụng liệu pháp tâm lý cho rối loạn điều chỉnh còn hạn chế (1), một phần do tính không đồng nhất của rối loạn. Tuy nhiên, dữ liệu cho thấy lợi ích của các liệu pháp tâm lý cá nhân và nhóm khác nhau trong các nhóm bệnh nhân mắc chứng rối loạn điều chỉnh. Những can thiệp này bao gồm liệu pháp nhận thức-hành vi, liệu pháp tâm lý động học, liệu pháp gia đình, liệu pháp cá nhân và liệu pháp tâm lý hỗ trợ. Một số phương pháp điều trị nhắm vào các yếu tố cụ thể của rối loạn điều chỉnh, chẳng hạn như đau buồn, chấn thương và chuyển đổi vai trò, trong khi các phương pháp khác dường như mang tính tổng quát hơn. Nếu sử dụng liệu pháp tâm lý, việc có một bác sĩ lâm sàng nhạy cảm, am hiểu về chấn thương dường như sẽ hữu ích.

Điều trị bằng thuốc

Giống như liệu pháp tâm lý, bằng chứng liên quan đến việc sử dụng liệu pháp dược lý cho các rối loạn điều chỉnh còn hạn chế (1). Thuốc chống trầm cảm đã được sử dụng với một số thành công. Tuy nhiên, các loại thuốc như thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc sẽ có nhiều khả năng hiệu quả hơn nếu các triệu chứng đáp ứng các tiêu chuẩn của chứng lo âu hoặc rối loạn trầm cảm đi kèm. Các thuốc benzodiazepin thường được sử dụng để điều trị các triệu chứng cụ thể như mất ngủ và lo âu trong rối loạn điều chỉnh, nhưng bằng chứng về hiệu quả còn chưa rõ ràng. Hơn nữa, việc sử dụng benzodiazepine có thể dẫn đến lệ thuộc và sử dụng sai, đồng thời có thể làm suy giảm nhận thức một cách sâu sắc. Nhiều loại thuốc và chất bổ sung khác đã được thử nghiệm mà không có bằng chứng về hiệu quả của phương pháp điều trị này.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. O’Donnell ML, Metcalf O, Watson L, et al: A systematic review of psychological and pharmacological treatments for adjustment disorder in adults. J Trauma Stress Jun;31(3):321-331, 2018. doi: 10.1002/jts.22295

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)

Rối loạn phân ly

Nhiều người thỉnh thoảng không thể tích hợp tự động bình thường ký ức, nhận thức, nhận dạng danh tính và ý thức. Ví dụ: người ta có thể lái xe đi đâu đó và sau đó nhận ra rằng họ không nhớ nhiều khía cạnh của chuyến đi vì họ bận tâm đến những mối quan tâm cá nhân, một chương trình trên radio hoặc cuộc trò chuyện với hành khách. Thông thường, sự thất bại như vậy, được gọi là sự phân ly phi bệnh lý, không làm gián đoạn các hoạt động hàng ngày.

Ngược lại, những bệnh nhân với rối loạn phân ly có thể quên hoàn toàn một chuỗi các hành vi kéo dài khoảng vài phút, vài giờ, vài ngày, hoặc vài tuần và có thể cảm giác rằng họ bị mất một khoảng thời gian những gì họ đã trải qua. Trong rối loạn phân ly, sự hợp nhất bình thường của ý thức, trí nhớ, tri giác, nhân dạng, cảm xúc, thể hiện cơ thể, kiểm soát vận động và hành vi bị gián đoạn, và tính liên tục của bản thân bị mất.

Những người có rối loạn phân ly có thể gặp những điều sau đây:

  • Xâm nhập tự ý vào nhận thức với việc mất tính liên tục của trải nghiệm, bao gồm cảm giác tách rời khỏi bản thân (phi nhân cách hóa) và/hoặc môi trường xung quanh (phi thực tế hóa) và phân mảnh bản dạng

  • Mất trí nhớ thông tin cá nhân quan trọng (mất trí nhớ phân ly)

Rối loạn phân ly thường phát sinh sau khi căng thẳng quá mức (1). Các căng thẳng như vậy có thể được tạo ra bởi các sự kiện sang chấn hoặc bởi xung đột nội tâm không thể dung nạp được. Rối loạn phân ly có liên quan đến các rối loạn liên quan đến chấn thương và các rối loạn liên quan đến căng thẳng (rối loạn căng thẳng cấp tính và rối loạn căng thẳng sau chấn thương [PTSD]), có thể bao gồm các triệu chứng phân ly (ví dụ: mất trí nhớ, hồi tưởng, tê liệt, phi nhân cách hóa/phi thực tế hóa). Một phân nhóm PTSD phân ly đã được thiết lập để phân loại những bệnh nhân đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn chẩn đoán PTSD nhưng cũng trải qua quá trình giải thể nhân cách, phi thực tế hóa hoặc cả hai.

Nghiên cứu về não trên động vật và con người đã bắt đầu xác định các cấu trúc và chức năng não cụ thể theo tình trạng phân ly. Đặc biệt là, trong quá trình phân ly, hoạt động nhịp nhàng xảy ra ở vùng sau trung gian sâu, bao gồm vỏ não đai sau, bị ngắt kết nối với các vùng vỏ não cao hơn chịu trách nhiệm về suy nghĩ và lập kế hoạch (2). Tương tự như vậy, trong quá trình thôi miên, có sự ngắt kết nối tương đối giữa các vùng kiểm soát cao hơn đó với một phần phía sau não (vỏ não đai sau) có liên quan đến quá trình tự phản ánh (3). Ngoài ra, sự phân ly liên quan đến chấn thương dường như liên quan đến việc tăng cường kích hoạt vùng bụng vỏ não thùy trán trước và giảm khả năng kết nối với tiểu não và vỏ não trán ổ mắt (4).

Tài liệu tham khảo chung

1. Rafiq S, Campodonico C, Varese F: The relationship between childhood adversities and dissociation in severe mental illness: A meta-analytic review. Psychiatr Scand. 138(6):509-525, 2018. doi: 10.1111/acps.12969

2. Vesuna S, Kauvar IV, Richman E, et al: Deep posteromedial cortical rhythm in dissociation. Nature 586(7827):87-94, 2020 doi: 10.1038/s41586-020-2731-9

3. Jiang H, White MP, Greicius MD, et al: Brain activity and functional connectivity associated with hypnosis. Cereb Cortex 27(8):4083-4093, 2017 doi: 10.1093/cercor/bhw220

4. Lebois LAM, Harnett NG, Rooij SJH, et al: Persistent dissociation and its neural correlates in predicting outcomes after trauma exposure. Am J Psychiatry 179(9):661-671, 2022. doi: 10.1176/appi.ajp.21090911

Rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại là một loại rối loạn phân ly bao gồm cảm giác bị tách rời (tách rời) khỏi cơ thể hoặc các quá trình tinh thần của một người dai dẳng hoặc tái phát, thường là cảm giác trở thành người quan sát bên ngoài cuộc sống của một người (giải thể nhân cách) hoặc bị tách rời khỏi môi trường xung quanh (phi thực tế hóa). Rối loạn này thường được khởi phát bởi căng thẳng nặng. Chẩn đoán dựa trên các triệu chứng sau khi các nguyên nhân khả thi khác được loại trừ. Điều trị bao gồm liệu pháp tâm lý cộng với thuốc cho bất kỳ bệnh trầm cảm và/hoặc lo lắng nào kèm theo.

Khoảng 50% số quần thể nói chung đã có ít nhất một trải nghiệm thoáng qua về rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại trong cuộc đời của họ. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 2% số người từng đáp ứng các tiêu chuẩn mắc rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại.

Giải thể nhân cách hoặc tri giác sai thực tại có thể xảy ra như một triệu chứng trong nhiều rối loạn tâm thần khác cũng như trong các bệnh lý cơ thể khác như các rối loạn co giật (liên quan tới co giật hoặc sau co giật). Khi giải thể nhân cách hoặc tri giác sai thực tại xảy ra độc lập với các rối loạn tâm thần hoặc bệnh lý cơ thể khác, liên tục hoặc tái phát, và gây suy giảm chức năng, khi đó là hiện diện của rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại.

Rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại có thể xảy ra tương đồng giữa nam và nữ. Độ tuổi khởi phát trung bình là 16 năm. Rối loạn này có thể bắt đầu trong giai đoạn sớm hoặc giữa thời thơ ấu; chỉ có 5% số trường hợp bắt đầu sau 25 tuổi và rối loạn hiếm khi bắt đầu sau 40 tuổi 1).

Tài liệu tham khảo chung

1. Simeon D, Knutelska M, Nelson D, et al: Feeling unreal: A depersonalization disorder update of 117 cases. J Clin Psychiatry 64:990-997, 2003. doi: 10.4088/jcp.v64n0903

Bệnh nhân có rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại thường trải qua các căng thẳng nghiêm trọng, ví dụ như sau:

  • Bị lạm dụng tình cảm hoặc bị bỏ rơi trong thời thơ ấu (một nguyên nhân phổ biến nhất)

  • Bị lạm dụng thể chất

  • Chứng kiến bạo lực trong gia đình

  • Có bố mẹ bị bệnh lý gây suy giảm chức năng hoặc bệnh lý tâm thần nặng nề

  • Có một người trong gia đình hoặc người bạn thân chết bất ngờ

Các giai đoạn có thể được khởi phát bởi các căng thẳng giữa các cá nhân, tài chính hoặc nghề nghiệp; trầm cảmlo âu; hoặc sử dụng các loại chất bất hợp pháp, đặc biệt là cần saketamin, hoặc các chất gây ảo giác.

Các triệu chứng của rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại thường mang tính chất từng giai đoạn và dao động về cường độ. Các giai đoạn có thể kéo dài chỉ vài giờ hoặc vài ngày hoặc vài tuần, vài tháng, hoặc đôi khi vài năm. Nhưng ở một số bệnh nhân, các triệu chứng liên tục xuất hiện với cường độ không đổi trong nhiều năm hoặc nhiều thập kỷ.

Triệu chứng giải thể nhân cách bao gồm

  • Cảm giác tách ra khỏi cơ thể, tâm trí, cảm xúc và/hoặc cảm giác của một người

Bệnh nhân cảm thấy như một người quan sát bên ngoài cuộc sống của họ. Nhiều bệnh nhân cũng nói rằng họ cảm thấy không thực hoặc giống như một con robot hoặc tự động (không kiểm soát những gì họ làm hoặc nói). Họ có thể cảm thấy tình cảm và thể chất tê liệt hoặc cảm thấy tách ra, với ít cảm xúc. Một số bệnh nhân không thể nhận ra hoặc mô tả cảm xúc của họ (chứng mù cảm xúc). Họ thường cảm thấy bị ngắt kết nối khỏi ký ức và không thể nhớ rõ ràng.

Các triệu chứng tri giác sai thực tại bao gồm

  • Cảm giác bị tách rời khỏi môi trường xung quanh (ví dụ, người, đồ vật, mọi thứ), có vẻ như không thực tế

Bệnh nhân có thể cảm thấy như thể đang ở trong một giấc mơ hoặc sương mù hoặc như thể một bức tường bằng kính hoặc tấm màn chia tách họ ra khỏi môi trường xung quanh. Thế giới dường như vô hồn, không màu hoặc giả tạo. Sự méo mó chủ quan về thế giới là phổ biến. Ví dụ, vật thể có thể xuất hiện mờ hoặc không rõ ràng như thường lệ; chúng dường như bằng phẳng hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn bản thân chúng. Âm thanh có vẻ như to hơn hoặc nhẹ nhàng hơn; thời gian dường như trôi quá chậm hoặc quá nhanh.

Triệu chứng hầu như luôn gây khó chịu, và khi nặng nề, không thể dung nạp được. Lo âu và trầm cảm thường phổ biến. Một số bệnh nhân lo sợ rằng họ bị tổn thương não không hồi phục hoặc họ bị loạn thần. Những người khác thì ám ảnh về việc liệu họ có thực sự tồn tại hoặc liên tục kiểm tra để xác định liệu tri giác của họ là có thật hay không. Tuy nhiên, bệnh nhân luôn giữ được nhận thức rằng những trải nghiệm không thực tế của họ là không có thực mà chỉ là cách mà họ cảm thấy (nghĩa là họ vẫn còn nguyên vẹn khả năng kiểm tra thực tế). Sự nhận biết này giúp phân biệt rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại với các rối loạn loạn thần, trong đó sự thấu hiểu bên trong là luôn thiếu.

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

  • Khám nội khoa và tâm thần để loại trừ các nguyên nhân khác

Chẩn đoán rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại là lâm sàng, dựa trên sự hiện diện của các tiêu chuẩn sau đây trong DSM-5-TR:

  • Bệnh nhân có các giai đoạn kéo dài hoặc tái phát giải thể nhân cách, tri giác thai thực tại, hoặc cả hai.

  • Bệnh nhân biết rằng những trải nghiệm phân ly của họ là không có thực (nghĩa là họ vẫn có một cảm giác về thực tế nguyên vẹn).

  • Các triệu chứng gây ra tình trạng đau khổ đáng kể hoặc làm suy giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp.

Ngoài ra, các triệu chứng không thể được giải thích tốt hơn bởi một bệnh lý hoặc rối loại tâm thần khác (ví dụ: động kinh, rối loạn sử dụng chất kích thích liên tục, rối loạn hoảng sợ, rối loạn trầm cảm nặng, một rối loạn phân ly khác).

MRI và điện não đồ (EEG) được thực hiện để loại trừ các nguyên nhân cấu trúc, đặc biệt là nếu các triệu chứng hoặc tiến triển không điển hình (ví dụ: nếu các triệu chứng bắt đầu sau 40 tuổi). Xét nghiệm độc tính trong nước tiểu cũng có thể được chỉ định.

Các thử nghiệm tâm lý và các cuộc phỏng vấn và bảng câu hỏi có cấu trúc đặc biệt, chẳng hạn như Bản kiểm kê đa chiều về sự phân ly (1), rất hữu ích.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Simeon D, Knutelska M: The Multidimensional Inventory of Dissociation (MID) in Depersonalization Disorder: General Findings with a clinical emphasis on memory and identity disturbances. J Trauma Dissociation 24:185-196, 2023 doi: 10.1080/15299732.2022.2119634

  • Tâm lý trị liệu

Việc điều trị rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại phải giải quyết tất cả các căng thẳng liên quan đến sự khởi phát của rối loạn cũng như các căng thẳng trước đó (ví dụ: lạm dụng hoặc bỏ bê thời thơ ấu), điều này có thể khiến bệnh nhân dễ bị rối loạn giải thể nhân cách và/hoặc tri giác sai thực tại muộn.

Các liệu pháp tâm lý khác nhau thành công đối với một số bệnh nhân:

  • Kỹ thuật nhận thức có thể giúp chặn các suy nghĩ ám ảnh về trạng thái không thực.

  • Kỹ thuật hành vi có thể giúp bệnh nhân tham gia vào các nhiệm vụ làm họ tách khỏi giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại.

  • Kỹ thuật tiếp đất sử dụng 5 giác quan (ví dụ, bằng cách chơi nhạc lớn hoặc đặt một miếng băng trong tay) để giúp bệnh nhân cảm thấy kết nối hơn với bản thân và thế giới và cảm thấy thực hơn trong những thời khắc đó.

  • Liệu pháp tâm động giúp bệnh nhân đối phó với những cảm xúc tiêu cực, những mâu thuẫn bên dưới, hoặc những trải nghiệm mà gây ra tình trạng không thể dung nạp với bản thân và từ đó bị phân ly.

  • Theo dõi thời điểm và ghi nhãn tác động và phân ly trong các buổi trị liệu có hiệu quả tốt cho một số bệnh nhân.

Nhiều loại thuốc đã được sử dụng, nhưng không có loại thuốc nào có hiệu quả rõ ràng. Một số bệnh nhân có thể được hưởng lợi từ các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI), lamotrigine, thuốc đối kháng opioid, thuốc giải lo âu hoặc các chất kích thích. Tuy nhiên, những loại thuốc này có thể hoạt động chủ yếu bằng cách nhắm mục tiêu vào các rối loạn tâm thần khác (ví dụ: lo lắngtrầm cảm) thường liên quan đến hoặc kết thúc bằng rối loạn giải thể nhân cách và/hoặc tri giác sai thực tại.

Các bệnh nhân với rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại thường cải thiện mà không cần can thiệp. Việc hồi phục hoàn toàn thì khả dĩ đối với nhiều bệnh nhân, đặc biệt là nếu các triệu chứng là kết quả của những căng thẳng điều trị được hoặc thoáng qua hoặc không kéo dài. Ở những người khác, giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại trở thành mạn tính và kháng trị.

Thậm chí các triệu chứng giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại kéo dài hoặc tái phát chỉ gây suy giảm ở mức độ tối thiểu nếu bệnh nhân có thể tách bản thân họ khỏi những cảm giác chủ quan bằng việc giữ cho tâm trí họ luôn bận rộn và tập trung vào các suy nghĩ và hoạt động khác. Một số bệnh nhân trở nên tàn tật do cảm giác xa lánh mạn tính, do có lo âu hoặc trầm cảm kèm theo hoặc cả hai.

Quên phân ly là một dạng của rối loạn phân ly liên quan tới sự mất khả năng tái hiện lại được các thông tin cá nhân quan trọng mà thường không bị mất đi trong việc quên bình thường. Nó thường gây ra bởi sang chấn hoặc căng thẳng. Chẩn đoán dựa trên tiền sử sau khi loại bỏ hết các nguyên nhân gây mất trí. Điều trị bằng liệu pháp tâm lý, đôi khi kết hợp với phương pháp thôi miên hoặc các cuộc phỏng vấn được tạo điều kiện thuận lợi bằng thuốc.

Trong quên phân ly, thông tin bị mất thường là một phần của nhận thức có ý thức và sẽ được mô tả như bộ nhớ tự truyện.

Mặc dù thông tin bị lãng quên có thể không thể tiếp cận với ý thức, nhưng đôi khi nó vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến hành vi (ví dụ như một phụ nữ bị cưỡng hiếp trong thang máy từ chối đi thang máy mặc dù cô không nhớ được vụ cưỡng hiếp).

Có khả năng phát hiện chứng hay quên phân ly. Tỷ lệ hiện hành không được thiết lập rõ ràng, nhưng ước tính nằm trong khoảng từ 0,2% đến 7,3% (1).

Việc quên dường như được gây ra bởi việc trực tiếp trải qua hay chứng kiến các trải nghiệm mang tính chất sang chấn hoặc căng thẳng (ví dụ, lạm dụng thể chất và tình dục, hiếp dâm, đánh nhau, diệt chủng, thảm họa tự nhiên, chết người mình yêu thương, các vấn đề tài chính nghiêm trọng) hoặc bởi các xung đột nội tâm to lớn (ví dụ, sự hỗn loạn trên các xung đột hoặc hành động mang mặc cảm tội lỗi, các khó khăn tương tác cá nhân hầu như không thể giải quyết, hành vi phạm tội).

Tài liệu tham khảo chung

1. Staniloiu A, Markowitsch HJ: Dissociative amnesia. Lancet Psychiatry 1(3):226-241, 2014. doi: 10.1016/S2215-0366(14)70279-2

Triệu chứng chính của chứng hay quên phân ly là mất trí nhớ mà không phù hợp với sự lãng quên bình thường. Chứng hay quên có thể xảy ra trong một khoảng thời gian riêng biệt, đối với một số loại trải nghiệm hoặc trong phần lớn thời thơ ấu.

  • Cục bộ hóa

  • Chọn lọc

  • Lan tỏa

Hiếm khi, quên phân ly được đi kèm với đi du lịch có mục đích hoặc đi lang thang không phương hướng, được gọi là trốn nhà (bắt nguồn từ tiếng Latinh fugere là “trốn chạy”).

Quên cục bộ liên quan đến việc không thể nhớ lại một sự kiện hoặc những sự kiện cụ thể hoặc một khoảng thời gian cụ thể; những khoảng trống trong trí nhớ này thường liên quan đến sang chấn hoặc căng thẳng. Ví dụ, bệnh nhân có thể quên đi những tháng hoặc những năm bị lạm dụng khi còn là một đứa trẻ hoặc những ngày trong lúc chiến đấu căng thẳng. Việc quên này có thể không biểu lộ hàng giờ, hàng ngày hoặc lâu hơn sau khoảng thời gian sang chấn. Thông thường, khoảng thời gian bị quên, có thể từ vài phút đến hàng thập kỷ, có phân cách rõ ràng. Thông thường, bệnh nhân trải qua một hoặc nhiều giai đoạn mất trí nhớ.

Quên chọn lọc liên quan đến việc quên chỉ một số sự kiện trong một thời gian nhất định hoặc chỉ là một phần của một sự kiện sang chấn. Bệnh nhân có thể có cả chứng quên cục bộ và chọn lọc.

Trong chứng hay quên lan tỏa, bệnh nhân quên bản dạng và tiểu sử của mình – ví dụ, họ là ai, họ đã đi đâu, họ đã nói chuyện với ai, và những gì họ làm, nói, suy nghĩ, trải nghiệm và cảm thấy. Một số bệnh nhân không còn khả năng thực hiện các kỹ năng đã được học kĩ càng và mất đi các thông tin đã hình thành về thế giới. Chứng hay quên phân ly lan tỏa rất hiếm; nó phổ biến hơn ở các cựu chiến binh đánh trận, những người đã bị tấn công tình dục, và những người trải qua các căng thẳng tột độ hoặc xung đột. Khởi phát thường là đột ngột.

Trong quên có hệ thống, bệnh nhân quên thông tin về một phạm trù cụ thể, chẳng hạn như tất cả thông tin về một người cụ thể hoặc về gia đình họ.

Trong quên liên tục, bệnh nhân quên mỗi sự kiện mới khi nó xảy ra.

Hầu hết các bệnh nhân đều một phần hay hoàn toàn không biết rằng họ có những khoảng trống trong ký ức của họ. Họ chỉ biết được khi nhân dạng cá nhân bị mất hoặc khi hoàn cảnh làm họ biết-ví dụ như khi những người khác nói hoặc hỏi họ về các sự kiện mà họ không thể nhớ.

Bệnh nhân dường như trở nên rối bời ngay sau khi họ bị quên. Một số người thì rất đau khổ; có những người lại không để ý. Nếu những người không nhận ra được việc quên của mình để tìm đến sự giúp đỡ chuyên khoa tâm thần, thì họ cũng làm vậy vì các lí do khác.

Bệnh nhân gặp khó khăn trong việc hình thành và duy trì mối quan hệ.

Một số bệnh nhân nói rằng họ có những hồi tưởng, như xảy ra trong rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD); những hồi tưởng có thể luân phiên với quên bằng các nội dung của chúng. Một số bệnh nhân phát triển PTSD sau đó, đặc biệt là khi họ nhận ra những sự kiện sang chấn hoặc căng thẳng đã gây ra chứng quên của họ.

Các triệu chứng trầm cảm và thần kinh chức năng khá phổ biến, cũng như hành vi tự sát và các hành vi tự huỷ hoại khác. Nguy cơ có các hành vi tự sát có thể tăng lên khi việc quên đột ngột được giải quyết và bệnh nhân bị choáng ngợp bởi những ký ức về sang chấn.

Trốn nhà phân ly

Trốn nhà phân ly là một hiện tượng không thường thấy mà đôi khi xảy ra trong quên phân ly. Nó được phân loại là một loại chứng hay quên phân ly trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, Phiên bản thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR), vì chứng hay quên là một triệu chứng nổi bật và chứng điên bỏ nhà đi tương đối hiếm gặp.

Trốn nhà phân ly thường biểu hiện như

  • Đột ngột, bất ngờ, cố ý đi xa nhà có mục đích

  • Đi lang thang không có phương hướng

Bệnh nhân, bị mất nhân dạng tập quán của họ, rời bỏ gia đình và công việc. Một cơn trốn nhà có thể kéo dài từ vài giờ đến vài tháng, đôi khi lâu hơn. Nếu cơn trốn nhà ngắn, họ có thể xuất hiện chỉ đơn giản là đã bỏ lỡ một số công việc hoặc về nhà muộn. Nếu cơn trốn nhà kéo dài vài ngày hoặc lâu hơn, họ có thể đi xa nhà, tự giả định một cái tên và nhân dạng mới, và bắt đầu một công việc mới, không nhận biết được bất cứ sự thay đổi nào trong cuộc đời của họ.

Nhiều bệnh nhân bị chứng điên bỏ nhà đi dường như đại diện cho việc thỏa mãn ước nguyện trá hình hoặc cách duy nhất được phép để thoát khỏi tình trạng đau khổ hoặc bối rối nghiêm trọng, đặc biệt là đối với những người có gia đình hoặc xung đột giữa các cá nhân mà họ không thể giải quyết. Ví dụ: một giám đốc điều hành đang căng thẳng đối mặt với những đảo ngược trong kinh doanh đã rời bỏ cuộc sống bận rộn ở thành phố và sống như một nông dân ở nông thôn.

Trong thời gian trốn nhà, bệnh nhân có thể xuất hiện và hoạt động bình thường hoặc chỉ rối bời chút ít. Tuy nhiên, khi cơn trốn nhà kết thúc, bệnh nhân nói đột ngột nhận thấy mình trong tình huống mới và không có ký ức về cách họ đến để có mặt ở đó hoặc những gì họ đang làm. Họ thường cảm thấy xấu hổ, khó chịu, đau buồn, và/hoặc trầm cảm. Một số sợ hãi, đặc biệt là nếu họ không thể nhớ những gì đã xảy ra trong thời gian trốn nhà. Những biểu hiện này có thể đưa họ đến việc suy nghĩ về các cơ quan y tế hoặc pháp luật. Hầu hết mọi người có thể nhớ lại được nhân dạng và cuộc sống của họ, mặc dù việc nhớ lại có thể là một quá trình kéo dài; một số ít thì không hoặc hầu như không về quá khứ mập mờ của mình.

Thông thường, một cơn trốn nhà không được chẩn đoán cho đến khi bệnh nhân đột ngột quay trở lại nhân dạng của họ trước khi trốn nhà và đang đau khổ khi nhận thấy mình trong những hoàn cảnh không quen thuộc. Chẩn đoán thường được thực hiện hồi cứu, dựa trên các tài liệu về hoàn cảnh trước khi đi, bản thân việc đi, và việc thiết lập một cuộc sống khác.

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

  • Khám nội khoa và tâm thần để loại trừ các nguyên nhân khác

Chẩn đoán chứng hay quên phân ly dựa trên lâm sàng, dựa trên sự hiện diện của các tiêu chuẩn sau trong DSM-5-TR:

  • Bệnh nhân không thể nhớ lại những thông tin cá nhân quan trọng (thường liên quan đến sang chấn hoặc căng thẳng) mà thường không bị mất khi quên bình thường.

  • Các triệu chứng gây ra tình trạng đau khổ đáng kể hoặc làm suy giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp.

Ngoài ra, các triệu chứng không thể được giải thích tốt hơn do tác dụng của thuốc hoặc rối loạn khác (ví dụ: sa sút trí tuệco giật phức hợp cục bộrối loạn sử dụng chất kích thíchchấn thương sọ nãorối loạn căng thẳng sau chấn thương, một rối loạn phân ly khác).

Chẩn đoán đòi hỏi việc thăm khám thể chất và tâm thần để loại trừ các nguyên nhân có thể khác. Đánh giá ban đầu nên bao gồm

  • MRI để loại trừ các nguyên nhân về cấu trúc

  • Điện não đồ (EEG) để loại trừ rối loạn co giật

  • Xét nghiệm máu và nước tiểu để loại trừ các nguyên nhân độc, chẳng hạn như sử dụng ma túy bất hợp pháp

Thử nghiệm tâm lý có thể giúp mô tả tốt hơn bản chất của những trải nghiệm phân ly.

  • Để phục hồi trí nhớ, một môi trường hỗ trợ và đôi khi thôi miên hoặc trạng thái bán thôi miên do thuốc

  • Liệu pháp tâm lý để giải quyết các vấn đề liên quan đến những ký ức về sang chấn hoặc sự kiện căng thẳng được hồi phục

Nếu ký ức chỉ của một khoảng thời gian rất ngắn bị mất, việc điều trị hỗ trợ chứng quên phân ly thường là tương xứng thỏa đáng, đặc biệt nếu bệnh nhân không cần phải hồi phục lại ký ức về một số sự kiện đau lòng.

Điều trị mất trí nhớ nghiêm trọng hơn bắt đầu bằng việc tạo ra một môi trường an toàn và hỗ trợ. Chỉ riêng biện pháp này thường dẫn đến việc phục hồi dần dần những ký ức bị mất.

Khi một môi trường hỗ trợ không mang lại kết quả cải thiện hoặc khi nhu cầu khôi phục ký ức là cấp bách, việc đặt câu hỏi cho bệnh nhân khi họ đang bị thôi miên hoặc hiếm khi ở trạng thái bán thôi miên do thuốc (barbiturate hoặc benzodiazepine) có thể thành công. Những chiến lược này phải được thực hiện nhẹ nhàng bởi vì các bối cảnh sang chấn gây nên mất trí hầu như chắc chắn có thể nhớ lại và rất đau buồn. Người hỏi phải cẩn thận diễn đạt các câu hỏi để không gợi ý sự tồn tại của một sự kiện và tránh nguy cơ tạo ra một trí nhớ sai. Bệnh nhân bị lạm dụng, đặc biệt là trong thời thơ ấu, có thể mong đợi các nhà trị liệu để khai thác hoặc lạm dụng chúng và để áp đặt những kỷ niệm khó chịu hơn là giúp họ nhớ lại những ký ức thực sự (chấn thương).

Tính chính xác của ký ức đã được hồi phục bằng những chiến lược như thế chỉ có thể xác định bằng cách xác nhận từ bên ngoài. Tuy nhiên, bất kể mức độ chính xác của tiền sử, lấp vào các khoảng trống đó càng nhiều càng tốt thường có ích trong điều trị phục hồi tính liên tục về nhân dạng của bệnh nhân và cảm nhận của bản thân và trong việc tạo ra một câu chuyện đời sống gắn kết.

Một khi chứng quên được dỡ bỏ, điều trị giúp ích với những điều sau đây:

  • Đưa ra ý nghĩa cho sang chấn bên dưới hoặc xung đột cơ bản

  • Giải quyết các vấn đề liên quan đến giai đoạn quên

  • Cho phép bệnh nhân tiếp tục cuộc sống của họ

Nếu bệnh nhân đã bị chứng điên bỏ nhà ra đi phân ly, tâm lý trị liệu, đôi khi kết hợp với thôi miên hoặc phỏng vấn được tạo điều kiện thuận lợi bằng thuốc, có thể được sử dụng để cố gắng khôi phục trí nhớ; những nỗ lực này không phải lúc nào cũng thành công. Bất chấp điều đó, tâm lý trị liệu có thể hữu ích cho bệnh nhân trong việc khám phá cách họ xử lý các loại tình huống, xung đột và cảm xúc đã dẫn đến chứng điên bỏ nhà ra đi đó và do đó phát triển đáp ứng tốt hơn với những sự kiện đó và giúp ngăn ngừa tái diễn chứng điên bỏ nhà ra đi.

Đôi khi những ký ức trở lại nhanh chóng, điều có thể xảy ra khi bệnh nhân được đưa ra khỏi tình trạng sang chấn hoặc căng thẳng (ví dụ, chiến đấu). Trong những trường hợp khác, sự quên, đặc biệt ở những bệnh nhân trốn nhà phân ly, tồn tại trong một thời gian dài. Khả năng phân ly có thể giảm theo tuổi tác.

Hầu hết bệnh nhân hồi phục những ký ức bị mất của họ, và chứng quên được giải quyết. Tuy nhiên, một số không bao giờ có thể tái cấu trúc lại quá khứ bị mất của họ.

Tiên lượng được xác định chủ yếu bằng những điều sau:

  • Hoàn cảnh sống của bệnh nhân, đặc biệt là các căng thẳng và xung đột liên quan đến chứng quên

  • Điều chỉnh tâm lý tổng thể của bệnh nhân

Rối loạn rối loạn đa nhân cách, trước đây được gọi là rối loạn đa nhân cách, là một loại rối loạn phân ly đặc trưng bởi  2 trạng thái nhân cách (hay còn gọi là người thay đổi, trạng thái tự thân, hoặc nhân dạng) thay đổi. Rối loạn bao gồm việc không có khả năng nhớ lại các sự kiện hàng ngày, thông tin cá nhân quan trọng, và/hoặc các sự kiện sang chấn hoặc căng thẳng, tất cả đều không bị mất khi quên bình thường. Những người bị ảnh hưởng có thể bị gián đoạn đột ngột trong lời nói, ảnh hưởng và hành vi. Nguyên nhân gần như luôn áp đảo chấn thương thời thơ ấu. Chẩn đoán dựa vào bệnh sử, đôi khi bằng thôi miên hoặc phỏng vấn được tạo điều kiện thuận lợi thuốc. Điều trị bằng liệu pháp tâm lý lâu dài, đôi khi bằng thuốc điều trị trầm cảm và/hoặc lo lắng kèm theo.

Mức độ công khai của các nhân dạng khác nhau là khác nhau. Họ có khuynh hướng trở nên công khai rõ ràng hơn khi mọi người đang bị căng thẳng quá mức. Sự phân mảnh của danh tính thường dẫn đến chứng hay quên không đối xứng, trong đó những gì được biết bởi một danh tính có thể được biết hoặc có thể không được biết bởi một danh tính khác; tức là, một danh tính có thể bị mất trí nhớ đối với các sự kiện mà danh tính khác trải qua. Một số nhân dạng dường như biết và tương tác với nhân dạng khác trong một thế giới nội tâm phức tạp, và một số nhân dạng tương tác nhiều hơn những nhân dạng.

Trong một nghiên cứu cộng đồng nhỏ ở Hoa Kỳ, tỷ lệ bị chứng rối loạn bản dạng phân ly trong 12 tháng là 1,5%, nam giới và nữ giới bị ảnh hưởng gần như ngang nhau. (1). Rối loạn này có thể bắt đầu ở bất kỳ độ tuổi, từ trẻ thơ đến cuối đời.

Rối loạn nhân dạng phân ly có các dạng sau:

  • Chiếm hữu

  • Không chiếm hữu

Trong hình thức chiếm hữu, các nhân dạng thường biểu hiện như thể họ là một tác nhân bên ngoài, thường là một người hay linh hồn siêu nhiên (nhưng đôi khi là một người khác), người đã kiểm soát được cơ thể người, khiến người đó phải nói và hành động theo một cách rất khác. Trong các trường hợp như vậy, các nhân dạng khác nhau là rất rõ ràng (dễ nhận thấy bởi những người khác). Ở nhiều nền văn hoá, các trạng thái chiếm hữu tương tự là một phần bình thường của thực tiễn văn hoá hoặc tinh thần và không bị coi là rối loạn nhân dạng phân ly. Hình thức chiếm hữu xảy ra trong rối loạn nhân dạng phân ly khác với nhân dạng thay thế là nó xảy ra không mong muốn và xảy ra vô tình, gây ra tình trạng đau khổ và suy yếu đáng kể, và nó biểu hiện ở những thời điểm và địa điểm mà xâm phạm các chuẩn mực văn hoá và/hoặc tôn giáo.

Các hình thức không chiếm hữu có xu hướng ít công khai hơn. Người có thể cảm thấy một sự thay đổi đột ngột trong cảm nhận của họ về bản thân, cảm giác như thể họ là những người quan sát những lời nói, cảm xúc và hành động của họ, hơn là một tác nhân. Nhiều người cũng có quên phân ly tái diễn.

Tài liệu tham khảo chung

1. Johnson JG, Cohen P, Kasen S, et al: Dissociative disorders among adults in the community, impaired functioning, and axis I and II comorbidity. J Psychiatr Res 40(2):131-140, 2006. doi: 10.1016/j.jpsychires.2005.03.003

Rối loạn nhân dạng phân ly thường xảy ra ở những người bị căng thẳng hoặc sang chấn quá mức trong thời thơ ấu.

Trẻ em không được sinh ra với một ý thức về một nhân dạng thống nhất; nó phát triển từ nhiều nguồn và kinh nghiệm. Ở những trẻ bị lấn át, nhiều phần mà lẽ ra phải có sự hoà hợp vào với nhau thì vẫn bị tách biệt. Lạm dụng lâu dài và nghiêm trọng (thể chất, tình dục hoặc tình cảm) và bị bỏ bê trong thời thơ ấu thường được báo cáo và ghi nhận ở những bệnh nhân mắc chứng rối loạn bản dạng phân ly (ở Hoa Kỳ, Canada và Châu Âu, khoảng 90% số bệnh nhân). Một số bệnh nhân không bị lạm dụng nhưng đã trải qua một sự mất mát sớm quan trọng (như tử vong của bố mẹ), bệnh nặng, hoặc các sự kiện căng thẳng mạnh mẽ khác.

Trái với hầu hết những đứa trẻ có được sự đánh giá liên tục, phức tạp về bản thân và những người khác, những đứa trẻ bị ngược đãi nặng nề có thể đi qua các giai đoạn mà ở đó các tri giác, ký ức và cảm xúc về các trải nghiệm của chúng bị tách biệt. Điều này càng trầm trọng hơn khi cha mẹ hoặc những người chăm sóc khác có hành vi không nhất quán (ví dụ: luân phiên giữa các hành vi yêu thương và hành vi lạm dụng) trong một mô hình được gọi là chấn thương tâm lý do phản bội. (1). Theo thời gian, những đứa trẻ đó có thể phát triển khả năng thoát khỏi sự ngược đãi bằng cách “bỏ đi” – nghĩa là tách rời khỏi môi trường khắc nghiệt của chúng – hoặc bằng cách rút lui vào tâm trí của mình. Mỗi giai đoạn phát triển hoặc trải nghiệm sang chấn có thể được dùng để tạo ra một nhân dạng khác nhau.

Trong các thử nghiệm tiêu chuẩn, những người mắc chứng rối loạn này có điểm số cao về khả năng bị thôi miên và phân ly (khả năng tách rời ký ức, nhận thức hoặc danh tính của một người khỏi nhận thức có ý thức).

Tài liệu tham khảo nguyên nhân gây bệnh

1. Gobin RL, Freyd J: Do participants detect Sexual abuse depicted in a drawing? Investigating the impact of betrayal trauma exposure on state dissociation and betrayal awareness. J Child Sex Abus 26(3):233-245, 2017. doi: 10.1080/10538712.2017.1283650

Một số triệu chứng là đặc trưng của rối loạn nhân dạng phân ly.

Đa nhân dạng

Trong hình thái bị chiếm hữu, nhiều nhân dạng xuất hiện một cách rõ ràng đối với các thành viên trong gia đình và đồng nghiệp. Bệnh nhân nói và hành động theo một cách rõ ràng khác biệt, như thể một người hoặc một sinh vật đã tiếp quản. Nhân dạng mới có thể là của một người khác (thường là người đã chết, có lẽ trong một giai đoạn kịch tính) hoặc của một linh hồn siêu nhiên (thường là một con quỷ hoặc thần), những người có thể yêu cầu sự trừng phạt cho các hành động trong quá khứ.

Ở dạng không sở hữu, những người quan sát thường không thấy rõ các bản dạng khác nhau, mặc dù người đó có thể thể hiện sự thay đổi đột ngột về ảnh hưởng hoặc cách cư xử giữa các cá nhân. Một số bệnh nhân trải qua cảm giác rối loạn giải thể nhân cách; tức là họ cảm thấy không có thực, bị loại bỏ khỏi bản thân và tách rời khỏi các quá trình thể chất và tinh thần của họ. Bệnh nhân nói rằng họ cảm thấy như một người quan sát cuộc sống của họ, như thể họ đang xem mình trong một bộ phim mà họ không kiểm soát được (mất tác dụng cá nhân). Họ có thể nghĩ rằng cơ thể của họ cảm thấy khác nhau (ví dụ, giống như của một đứa trẻ nhỏ hoặc người khác giới) và không thuộc về họ. Họ có thể có những suy nghĩ, xung động và cảm xúc bất ngờ mà dường như không thuộc về họ và có thể biểu hiện dưới dạng các luồng tư tưởng khó hiểu hoặc như tiếng nói. Một số biểu hiện có thể nhận ra được bởi người quan sát. Ví dụ, thái độ, quan điểm và sở thích của bệnh nhân (ví dụ như về thực phẩm, quần áo, hoặc sở thích) có thể đột nhiên thay đổi, sau đó thay đổi lại.

Những người có rối loạn nhân dạng phân ly cũng gặp phải sự xâm phạm vào các hoạt động hàng ngày của họ khi có sự thay đổi về nhân dạng hoặc sự can thiệp của một trạng thái nhân dạng trong hoạt động của nhân dạng khác. Ví dụ, trong công việc, một nhân dạng tức giận có thể bất ngờ la lớn vào một đồng nghiệp hoặc sếp.

Chứng mất trí nhớ

Bệnh nhân rối loạn giải thể nhân cách phân ly thường bị chứng hay quên phân ly. Nó thường biểu hiện dưới dạng

  • Khoảng trống trong ký ức về các sự kiện cá nhân trong quá khứ (ví dụ, thời gian trong thời thơ ấu hoặc thanh thiếu niên, tử vong của người họ hàng)

  • Nhầm lẫn trong các ký ức có căn cứ tin cậy (ví dụ, những gì đã xảy ra ngày hôm nay, kỹ năng học tốt như cách sử dụng máy tính)

  • Khám phá bằng chứng về những điều họ đã làm hoặc nói nhưng không có ký ức về việc làm và/hoặc dường như không giống với chính họ

Bệnh nhân báo cáo khoảng thời gian mà họ có thể đã mất.

Bệnh nhân có thể khám phá các đồ vật trong túi mua sắm của họ hoặc các mẫu chữ viết tay mà họ không có hoặc nhận ra. Họ cũng có thể thấy mình ở những nơi khác nhau từ nơi mà họ nhớ lần cuối và không có ý tưởng tại sao hoặc làm thế nào họ đến đó. Không giống như những bệnh nhân rối loạn căng thẳng sau sang chấn, bệnh nhân rối loạn nhân dạng phân ly quên đi những sự kiện hàng ngày cũng như những sự kiện căng thẳng hoặc sang chấn.

Bệnh nhân thay đổi nhận thức của họ về sự quên. Một số cố gắng che giấu nó. Việc quên có thể được nhận ra bởi những người khác khi bệnh nhân không thể nhớ những điều họ đã nói và làm hoặc thông tin cá nhân quan trọng, chẳng hạn như tên của họ.

Các triệu chứng khác

Ngoài việc nghe thấy tiếng nói, bệnh nhân có rối loạn nhân dạng phân ly có thể có ảo giác thị giác, xúc giác, khứu giác và vị giác. Do đó, bệnh nhân có thể bị chẩn đoán sai bằng một rối loạn loạn thần. Tuy nhiên, các triệu chứng ảo giác này khác với những ảo giác điển hình của rối loạn loạn thần như tâm thần phân liệt. Bệnh nhân bị rối loạn bản thể phân ly có các triệu chứng này như thể đến từ một bản thể khác (ví dụ: như thể ai đó muốn khóc khi nhìn vào mắt họ, nghe thấy giọng nói của một bản thể khác đang chỉ trích họ).

Trầm cảm, lo lắng, lạm dụng chất kích thích, tự gây thương tổn, tự cắt xẻo bản thân, co giật không do động kinh và hành vi tự tử là phổ biến, cũng như rối loạn chức năng tình dục.

Việc chuyển đổi các nhân dạng và các rào chắn thuộc về quên giữa chúng thường dẫn đến cuộc sống hỗn độn. Nói chung, bệnh nhân cố gắng giấu hoặc giảm thiểu các triệu chứng và ảnh hưởng của họ đối với người khác.

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

  • Các cuộc phỏng vấn chi tiết, đôi khi có thôi miên hoặc được tạo điều kiện thuận lợi bằng thuốc

Chẩn đoán rối loạn bản dạng phân ly dựa trên lâm sàng, dựa trên sự hiện diện của các tiêu chuẩn sau trong DSM-5-TR:

  • Bệnh nhân có  2 trạng thái nhân cách hoặc nhân dạng (sự gián đoạn nhân dạng), với sự gián đoạn đáng kể trong cảm giác về bản thân cũng cảm giác chủ thể.

  • Bệnh nhân có những khoảng trống ký ức của họ về các sự kiện hàng ngày, thông tin cá nhân quan trọng, và các sự kiện sang chấn – thông tin thường không bị mất khi quên bình thường.

  • Các triệu chứng gây ra tình trạng đau khổ đáng kể hoặc làm suy giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp.

Ngoài ra, các triệu chứng không thể giải thích hợp lý hơn bởi rối loạn khác (ví dụ như cơn co giật cục bộ phức tạp, rối loạn lưỡng cực, rối loạn căng thẳng sau sang chấn, rối loạn phân ly khác), bởi ảnh hưởng của ngộ độc rượu, bởi các hoạt động tôn giáo hoặc văn hóa được chấp nhận rộng rãi hoặc ở trẻ em, bằng cách chơi tưởng tượng (ví dụ, một người bạn tưởng tượng).

Việc chẩn đoán đòi hỏi kiến thức và các câu hỏi cụ thể về các hiện tượng phân ly. Các cuộc phỏng vấn kéo dài, thôi miên hoặc phỏng vấn được tạo điều kiện thuận lợi bằng thuốc (barbiturat hoặc benzodiazepine) đôi khi được sử dụng và bệnh nhân có thể được yêu cầu ghi nhật ký giữa các lần khám. Tất cả các biện pháp này liên quan đến việc nỗ lực để mang đến việc thay nhân dạng trong quá trình đánh giá. Bác sĩ lâm sàng có thể nỗ lực vạch ra các nhân dạng khác nhau và mối quan hệ của chúng. Có thể sử dụng các cuộc phỏng vấn và bảng câu hỏi có cấu trúc được thiết kế đặc biệt, đặc biệt đối với các bác sĩ lâm sàng ít kinh nghiệm về rối loạn này.

Bác sĩ lâm sàng cũng có thể cố gắng liên hệ trực tiếp với các nhân dạng khác bằng cách yêu cầu nói về phần tâm trí liên quan đến những hành vi mà bệnh nhân không thể nhớ hoặc có vẻ như được làm bởi người. Thôi miên có thể giúp các bác sĩ lâm sàng tiếp cận các trạng thái bị phân ly của bệnh nhân và các nhân dạng khác và giúp bệnh nhân kiểm soát tốt hơn sự chuyển đổi giữa các trạng thái bị phân ly.

Giả bệnh (cố tình giả vờ các triệu chứng thể chất hoặc tâm lý do động cơ bên ngoài khuyến khích) nên được xem xét nếu các lợi lộc có thể là động cơ (ví dụ như để tránh trách nhiệm giải trình cho các hành động hoặc trách nhiệm). Tuy nhiên, những người giả bệnh có xu hướng báo cáo quá mức các triệu chứng được biết phổ biến của rối loạn (ví dụ, chứng quên phân ly) và báo cáo không đúng mức về các triệu chứng khác. Họ cũng có khuynh hướng tạo ra những nhân dạng thay thế định hình. Trái ngược với bệnh nhân có rối loạn, người giả bệnh thường có vẻ như thích thú với ý tưởng bị rối loạn; ngược lại, những bệnh nhân có rối loạn nhân dạng phân ly thường cố gắng che giấu nó. Khi các bác sĩ lâm sàng nghi ngờ rằng chứng rối loạn này là giả, việc kiểm tra chéo thông tin từ nhiều nguồn có thể phát hiện ra những điểm không nhất quán khiến việc chẩn đoán bị loại trừ.

  • Điều trị hỗ trợ, bao gồm cả thuốc khi cần thiết cho các triệu chứng liên quan

  • Liệu pháp tâm lý tập trung vào việc hợp nhất lâu dài các trạng thái nhân dạng khi có thể

Hợp nhất các trạng thái nhân dạng là kết quả mong muốn nhất của việc điều trị chứng rối loạn nhân dạng phân ly. Thuốc được sử dụng rộng rãi để giúp kiểm soát các triệu chứng trầm cảm, lo âu, bốc đồng và rối loạn sử dụng chất kích thích nhưng không làm giảm sự phân ly về bản chất.

Điều trị để đạt được sự hợp nhất nằm ở trung tâm về trị liệu tâm lý. Đối với những bệnh nhân không thể hoặc sẽ không đấu tranh để hợp nhất, điều trị nhằm mục đích tạo thuận lợi cho việc cùng hoạt động và hợp tác giữa các nhân dạng và để giảm triệu chứng.

Ưu tiên hàng đầu của liệu pháp tâm lý là để ổn định bệnh nhân và đảm bảo sự an toàn, trước khi đánh giá những trải nghiệm sang chấn và khám phá những nhân dạng có vấn đề và lý do của sự phân ly. Một số bệnh nhân được hưởng lợi từ việc nằm viện, trong đó việc hỗ trợ liên tục và giám sát được cung cấp khi những ký ức đau đớn được giải quyết. Các nhà trị liệu nên thận trọng trong việc giúp những bệnh nhân như vậy tránh được việc tái bị ngược đãi.

Thôi miên có thể giúp tiếp cận các bản dạng, tạo điều kiện giao tiếp giữa các bản dạng, ổn định và diễn giải các bản dạng đó. Một số nhà trị liệu tham gia và tương tác trực tiếp với các trạng thái nhân dạng bị phân ly trong một nỗ lực nhằm tạo điều kiện cho sự hòa nhập của các trạng thái nhân dạng (1).

Các kỹ thuật phơi nhiễm đã được cải tiến có thể được sử dụng để giải mẫn cảm bệnh nhân về những ký ức đau thương, đôi khi chỉ được dung nạp trong những mảnh ký ức nhỏ.

Vì các lý do của sự phân ly đã được giải quyết và được thực hiện, liệu pháp có thể tiến tới kết nối, hòa nhập và khôi phục lại những bản thân thay thế, mối quan hệ và chức năng xã hội của bệnh nhân. Một số hòa nhập xảy ra tự phát trong quá trình điều trị. Sự hòa nhập có thể được khuyến khích bằng cách đàm phán và sắp xếp sự thống nhất các nhân dạng hoặc có thể được tạo thuận lợi bằng cách sử dụng các ám thị thôi miên và hình ảnh có hướng dẫn.

Những bệnh nhân bị sang chấn, đặc biệt là trong thời thơ ấu, có thể mong muốn bị lạm dụng thêm trong quá trình điều trị và phát sinh các phản ứng chuyển đổi phức tạp với nhà trị liệu của họ. Thảo luận về những cảm giác dễ hiểu này là một thành phần quan trọng của liệu pháp tâm lý hiệu quả (2).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Myrick AC, Webermann AR, Loewenstein RJ, et al: Six-year follow-up of the treatment of patients with dissociative disorders study. Eur J Psychotraumatol 8(1):1344080, 2017. doi: 10.1080/20008198.2017.1344080

2. Brand B, Loewenstein RJ: Does phasic trauma treatment make patients with dissociative identity disorder treatment more dissociative? J Trauma Dissociation 15(1):52-65, 2014. doi: 10.1080/15299732.2013.828150

Sự suy giảm trong rối loạn nhân dạng phân ly thay đổi rất đa dạng. Nó có thể là tối thiểu ở những bệnh nhân có chức năng hoạt động cao; ở những bệnh nhân này, các mối quan hệ (ví dụ như với con cái, vợ/chồng, bạn bè) có thể bị suy giảm nhiều hơn chức năng nghề nghiệp. Bằng việc điều trị, chức năng quan hệ, xã hội và nghề nghiệp có thể cải thiện, nhưng một số bệnh nhân đáp ứng rất chậm với điều trị và có thể cần điều trị hỗ trợ dài hạn.

Các triệu chứng dao động tự phát, nhưng rối loạn nhân dạng phân ly không tự hết. Bệnh nhân có thể được chia thành các nhóm dựa trên các triệu chứng của họ:

  • Triệu chứng chủ yếu là phân ly và sau sang chấn. Những bệnh nhân này nói chung hoạt động tốt và hồi phục hoàn toàn với điều trị.

  • Các triệu chứng phân ly được kết hợp với các triệu chứng nổi bật của các rối loạn khác, chẳng hạn như rối loạn nhân cách, rối loạn tâm trạng, rối loạn ăn uống và rối loạn sử dụng chất kích thích. Những bệnh nhân này cải thiện chậm hơn, và điều trị có thể ít thành công hoặc lâu hơn và bị lôi cuốn vào khủng hoảng nhiều hơn.

  • Bệnh nhân không chỉ có các triệu chứng nghiêm trọng do rối loạn tâm thần cùng tồn tại mà còn có thể dính kèm về mặt cảm xúc sâu sắc với người lạm dụng của họ. Những bệnh nhân này có thể là một thử thách để điều trị, thường đòi hỏi các phương pháp điều trị lâu hơn mà thường nhằm mục đích giúp kiểm soát các triệu chứng hơn là để đạt được sự hợp thành thể thống nhất.

Chẩn đoán phân nhóm phân ly của rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) được thực hiện ở những bệnh nhân đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn chẩn đoán PTSD và cũng trải qua các triệu chứng phân ly dai dẳng hoặc tái phát (cụ thể là giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại) khi có phản ứng với tác nhân gây căng thẳng. Chẩn đoán dựa trên tiền sử. Điều trị bao gồm liệu pháp tâm lý và thuốc men.

Một số bệnh nhân PTSD có các triệu chứng phân ly nổi bật. Phân ly đề cập đến sự tích hợp không đầy đủ các khía cạnh của bản dạng, trí nhớ và ý thức, đồng thời có liên quan đến việc nuôi dạy con cái thiếu trách nhiệm và sang chấn tâm lý, cũng như với PTSD (1).

Cũng như PTSD, sự phân ly thường xảy ra sau khi tiếp xúc với chấn thương, việc này có thể bao gồm việc trực tiếp trải qua chấn thương, chứng kiến chấn thương thể chất do người khác trải qua, biết chấn thương mà những người thân yêu phải gánh chịu, hoặc có liên quan đến hậu quả của chấn thương do người khác gây ra (ví dụ: theo yêu cầu của những người ứng cứu khẩn cấp). Chấn thương phức tạp, đặc biệt là chấn thương xảy ra trong giai đoạn đầu của cuộc đời và liên quan đến mối quan hệ mật thiết (ví dụ: với người chăm sóc), làm tăng khả năng bệnh nhân phát sinh PTSD với các triệu chứng phân ly (2, 3).

Ngoài tiền sử bị lạm dụng tình dục và làm dụng thể chất thời thơ ấu, các yếu tố khác liên quan đến các triệu chứng phân ly sau này trong cuộc sống bao gồm bạo lực thể xác, xấu hổ và tội lỗi (3).

Một khảo sát dựa trên dân số từ 16 quốc gia đã báo cáo rằng gần 15% số người bị PTSD cũng có các triệu chứng phân ly của giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại (4). Bệnh nhân có các triệu chứng phân ly và PTSD đặc trưng bởi mức độ tái trải nghiệm các triệu chứng cao hơn, khởi phát PTSD ở thời thơ ấu, tiếp xúc nhiều với chấn thương và nghịch cảnh thời thơ ấu (trước khi khởi phát PTSD), suy giảm vai trò nghiêm trọng (ví dụ: khó khăn trong việc thực hiện trách nhiệm công việc và hoàn thành công việc quanh nhà) và có ý định tự tử.

Các cơ chế thần kinh của các phản ứng khác nhau đối với chấn thương đang được nghiên cứu. Trải qua chấn thương thể chất đột ngột hoặc mối đe dọa của nó sẽ làm rối loạn điều hòa cảm xúc, gây ra phản ứng tăng nhạy cảm quá độ của thần kinh thực vật và phá vỡ tính liên tục của trải nghiệm và kỳ vọng của một người về tương lai. Một phân tích về kết quả chụp MRI chức năng (fMRI) và PET ở các bệnh nhân cho thấy loại PTSD tăng nhạy cảm quá độ phổ biến hơn liên quan đến việc tăng amygdala và hoạt động của thùy đảo phía trước và giảm hoạt động của đai thùy trước trán giữa và hoạt động của đai mỏ trước (5). Kết quả là, nhận thức bị ảnh hưởng lấn át. Trong phân nhóm phân ly của PTSD, các kích hoạt bị đảo ngược, dẫn đến việc kìm nén cảm xúc quá mức phù hợp với rối loạn giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại.

Mặc dù không phải tất cả những người đáp ứng các tiêu chuẩn của PTSD đều có mức độ phân ly cao, nhưng hầu hết các bệnh nhân có triệu chứng phân ly ở mức độ cao đều đáp ứng các tiêu chuẩn của PTSD (6).

Tài liệu tham khảo chung

1. Ginzburg K, Koopman C, Butler LD, et al: Evidence for a dissociative subtype of post-traumatic stress disorder among help-seeking childhood sexual abuse survivors. J Trauma Dissociation 7(2):7-27, 2006. doi: 10.1300/J229v07n02_02

2. Dorahy MJ, Corry M, Shannon M, et al: Complex trauma and intimate relationships: The impact of shame, guilt and dissociation. J Affect Disord 147(1-3):72-79, 2013. doi: 10.1016/j.jad.2012.10.010

3. Dorahy MJ, Middleton W, Seager L, et al: Dissociation, shame, complex PTSD, child maltreatment and intimate relationship self-concept in dissociative disorder, chronic PTSD and mixed psychiatric groups.  J Affect Disord 172:195-203, 2015. doi: 10.1016/j.jad.2014.10.008

4. Stein DJ, Koenen KC, Friedman MJ, et al: Dissociation in posttraumatic stress disorder: Evidence from the world mental health surveys. Biol Psychiatry 15;73(4):302-312, 2013. doi: 10.1016/j.biopsych.2012.08.022

5. Lanius RA, Vermetten E, Loewenstein RJ, et al: Emotion modulation in PTSD: Clinical and neurobiological evidence for a dissociative subtype. Am J Psychiatry 167(6):640-647, 2010. doi: 10.1176/appi.ajp.2009.09081168

6. Wolf EJ, Miller MW, Reardon AF, et al: A latent class analysis of dissociation and posttraumatic stress disorder: Evidence for a dissociative subtype. Arch Gen Psychiatry 69(7):698-705, 2012. doi: 10.1001/archgenpsychiatry.2011.1574

Phân nhóm phân ly của rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) bao gồm tất cả các triệu chứng của PTSD cũng như giải thể nhân cách và/hoặc tri giác sai thực tại.

Các triệu chứng của PTSD bao gồm các triệu chứng xâm nhập như là ký ức không tự nguyện, giấc mơ hoặc hồi tưởng phân ly. Nhiều người cố gắng tránh ghi nhớ các sự kiện hoặc lời nhắc về các sự kiện đó. Họ có thể phát sinh những thay đổi tiêu cực trong nhận thức, bao gồm chứng hay quên phân ly, cảm thấy tách biệt hoặc xa lạ với người khác, tự trách bản thân một cách không phù hợp và không có khả năng trải nghiệm những cảm xúc tích cực. Cảnh giác cao, cáu kỉnh, khó tập trung và rối loạn giấc ngủ cũng xảy ra.

Các triệu chứng phân ly bao gồm rối loạn bản dạng, trí nhớ và ý thức (cụ thể là giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại):

  • Giải thể nhân cách: Cảm giác tách rời khỏi các quá trình tinh thần hoặc cơ thể của một người dai dẳng hoặc lặp đi lặp lại (ví dụ: như thể một người là người quan sát bên ngoài trải nghiệm của một người; cảm thấy như thể một người đang ở trong một giấc mơ; cảm thấy bản thân hoặc cơ thể không có thực hoặc thời gian trôi chậm).

  • Tri giác sai thực tại: Trải nghiệm dai dẳng hoặc lặp đi lặp lại về tính không thực của môi trường xung quanh (ví dụ: thế giới xung quanh cá nhân được trải nghiệm là không thực, mơ mộng, xa vời hoặc bị bóp méo).

  • Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn Tâm thần, phiên bản thứ năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR) tiêu chuẩn của PTSD kèm theo sự hiện diện của các triệu chứng phân ly (cụ thể là giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại)

  • Khám nội khoa và tâm thần để loại trừ các nguyên nhân khác

Để đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán cho PTSD “với các triệu chứng phân ly”, một cá nhân phải đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán cho PTSD và cũng phải có các triệu chứng dai dẳng hoặc tái phát của rối loạn giải thể nhân cách hoặc tri giác sai thực tại để đáp ứng với tác nhân gây căng thẳng.

  • Cách tiếp cận sửa đổi đối với liệu pháp tâm lý được sử dụng cho PTSD

Điều trị cần phải được sửa đổi từ các liệu pháp phổ biến và hiệu quả thường được sử dụng cho PTSD tăng nhạy cảm quá độ (tiếp xúc kéo dài và xử lý nhận thức); tiếp xúc trực tiếp có thể gây ra tình trạng phân ly hơn nữa. Phương pháp trị liệu được khuyến nghị là liệu pháp tâm lý theo giai đoạn liên quan đến việc tiếp xúc dần dần; xác định triệu chứng phân ly; ổn định, làm rõ và thảo luận về các triệu chứng phân ly; khám phá các yếu tố gây căng thẳng có thể dẫn đến các giai đoạn phân ly; và kiểm soát nguy cơ tái trở thành nạn nhân (1, 2). Tuy nhiên, dữ liệu là nghiên cứu hỗn hợp và nghiên cứu tiếp theo đã gợi ý rằng các yếu tố thiết yếu của liệu pháp tâm lý tái xử lý nhận thức và dựa trên phơi nhiễm có hiệu quả đối với PTSD cũng có thể có tác dụng tốt với những người có các triệu chứng phân ly nổi bật (3, 4).

Thôi miên cũng có thể hữu ích để giúp bệnh nhân chứa đựng và xử lý lại những ký ức đau buồn. Nó có thể giúp bệnh nhân duy trì sự thoải mái về thể chất, do đó sử dụng sự phân ly để bảo vệ họ khỏi những kích thích không mong muốn trong khi thay đổi quan điểm của họ về những trải nghiệm chấn thương (ví dụ: giúp họ nhận ra những gì họ đã làm để bảo vệ bản thân hoặc những người khác trong thời gian chấn thương). Kỹ thuật này có thể cho phép họ tái cấu trúc trải nghiệm giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại, đồng thời học cách kiểm soát nhu cầu phân ly của họ (5, 6).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Cloitre M, Petkova E, Wang J, et al: An examination of the influence of a sequential treatment on the course and impact of dissociation among women with PTSD related to childhood abuse. Depress Anxiety29(8):709-717, 2012. doi: 10.1002/da.21920

2. Resick PA, Suvak MK,  Johnides BD, et al: The impact of dissociation on PTSD treatment with cognitive processing therapy. Depress Anxiety29(8):718-730, 2012. doi: 10.1002/da.21938

3. Burton MS, Feeny NC, Connell AM, et al: Exploring evidence of a dissociative subtype in PTSD: Baseline symptom structure, etiology, and treatment efficacy for those who dissociate. J Consult Clin Psychol ;86(5):439-451, 2018. doi: 10.1037/ccp0000297

4. Zoet HA, Wagenmans A, van Minnen A, et al: Presence of the dissociative subtype of PTSD does not moderate the outcome of intensive trauma-focused treatment for PTSD. Eur J Psychotraumatol 9(1):1468707, 2018. doi: 10.1080/20008198.2018.1468707

5. D Brom, R J Kleber, P B Defares: Brief psychotherapy for posttraumatic stress disorders. J Consult Clin Psychol 57(5):607-612, 1989. doi: 10.1037//0022-006x.57.5.607

6. Spiegel D: The use of hypnosis in the treatment of PTSD. Psychiatr Med10(4):21-30, 1992. PMID: 1289959

Có phân ly làm phức tạp thêm việc tiên lượng và điều trị loại PTSD phụ này vì nhiều người trong số này tránh xa việc đối mặt với những ảnh hưởng của chấn thương, khiến việc điều trị trở nên khó khăn hơn (1).

Tài liệu tham khảo về tiên lượng

1. Koopman C, Classen C, Spiegel D: Predictors of posttraumatic stress symptoms among survivors of the Oakland/Berkeley, Calif., firestorm. Am J Psychiatry 151(6):888-894, 1994. doi: 10.1176/ajp.151.6.888

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)

Rối loạn ăn uống

Rối loạn ăn uống bao gồm một rối loạn liên tục về việc ăn uống hoặc hành vi liên quan đến việc ăn uống mà

  • Thay đổi sự tiêu thụ hoặc hấp thu thực phẩm

  • Gây suy giảm đáng kể sức khỏe thể chất và/hoặc chức năng tâm lý xã hội

Các rối loạn ăn uống bao gồm

  • Chứng chán ăn tâm thần

  • Rối loạn né tránh/hạn chế tiếp nhận thức ăn

  • Rối loạn ăn uống vô độ

  • Ăn vô độ tâm thần

  • Ăn bẩn

  • Ri loạn nhai lại

Chán ăn tâm thần được đặc trưng bởi sự theo đuổi không ngừng một cách cực đoan về hình thể mỏng manh, nỗi sợ hãi về bị béo phì, hình ảnh cơ thể bị méo mó, và hạn chế ăn vào so với nhu cầu, dẫn đến trọng lượng cơ thể thấp tới mức sức khỏe bị đe dọa. Rối loạn này có thể hoặc không bao gồm tẩy rửa (ví dụ, tự gây ra nôn ói).

Rối loạn ăn uống tránh/hạn chế được đặc trưng bởi việc tránh ăn hoặc hạn chế lượng thức ăn dẫn đến giảm cân đáng kể, thiếu dinh dưỡng, phụ thuộc vào hỗ trợ dinh dưỡng, và/hoặc rối loạn chức năng tâm lý xã hội. Nhưng không giống như chán ăn tâm thần và ăn vô độ tâm thần, rối loạn này không bao gồm mối quan tâm về hình dạng hoặc trọng lượng cơ thể.

Rối loạn ăn uống vô độ có đặc trưng là các giai đoạn tiêu thụ một lượng lớn thực phẩm lặp đi lặp và người đó cảm thấy như thể họ mất kiểm soát. Các tập không được theo sau bởi hành vi bù đắp không thích hợp (ví dụ, nôn ói do tự gây ra).

Ăn vô độ tâm thần đặc trưng bởi những giai đoạn lặp lại việc cuồng ăn và theo sau bởi hành vi bù trừ không thích hợp như tự gây nôn, lạm dụng thuốc nhuận tràng hoặc lợi tiểu, nhịn ăn hoặc tập thể dục.

Dị thực là liên tục ăn các nguyên liệu không có dinh dưỡng, không phù hợp với thực phẩm (ví dụ, dị thực không được chẩn đoán ở trẻ em < 2 tuổi) và không phải là một phần của truyền thống văn hóa.

Rối loạn nhai được lặp đi lặp lại việc ăn lại sau khi ăn.

Rối loạn ăn uống phổ biến hơn ở phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ trẻ, hơn nam giới.

Xem Hướng dẫn Thực hành của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ : Treatment of Patients With Eating Disorders, 3rd Edition and guidelines from the National Institute for Clinical Excellence [NICE], December, 2020.

Chán ăn tâm thần được đặc trưng bởi sự theo đuổi không ngừng một cách cực đoan về hình thể mỏng manh, nỗi sợ hãi về bị béo phì, hình ảnh cơ thể bị méo mó, và hạn chế ăn vào so với nhu cầu, dẫn đến trọng lượng cơ thể thấp. Chẩn đoán là lâm sàng. Hầu hết điều trị là với một số hình thức trị liệu tâm lý. Sự tham gia của gia đình là rất quan trọng đối với việc chăm sóc bệnh nhân trẻ tuổi. Olanzapin có thể giúp tăng cân.

Chán ăn tâm thần xảy ra chủ yếu ở trẻ em gái và phụ nữ trẻ. Khởi phát thường ở giai đoạn thanh thiếu niên và hiếm khi sau 40 tuổi.

Hai loại chán ăn tâm thần được nhận diện:

  • Kiểu hạn chế: Bệnh nhân hạn chế lượng thức ăn ăn vào nhưng không thường xuyên có hành vi cuồng ăn và tự đào thải thức ăn; một số bệnh nhân tập thể dục quá mức.

  • Kiểu rối loại cuồng ăn/tự đào thải thức ăn: Người bệnh thường xuyên cuồng ăn và/hoặc nôn ra và/hoặc lạm dụng thuốc nhuận tràng, thuốc lợi niệu, hoặc rửa ruột.

Cuồng ăn được định nghĩa là tiêu thụ một lượng thức ăn lớn hơn nhiều so với hầu hết mọi người ăn trong một khoảng thời gian và bối cảnh tương tự kèm với mất kiểm soát, nghĩa là không thể chống lại hoặc ngừng ăn.

Căn nguyên của chứng chán ăn tâm thần vẫn chưa được biết rõ.

Ngoại trừ là nữ giới thì chỉ có rất ít yếu tố được xác định là yếu tố nguy cơ. Trong một số nền văn hóa, béo phì được coi là không hấp dẫn và không lành mạnh, và mong muốn trở nên gầy mỏng là phổ biến, ngay cả ở trẻ em. Hơn 50% số trẻ gái trước tuổi dậy thì ở Hoa Kỳ có chế độ ăn kiêng khem hoặc dùng các phương thức khác để kiểm soát cân nặng của mình. Quá lo lắng về cân nặng hoặc tiền sử ăn kiêng dường như cho thấy nguy cơ gia tăng và có khuynh hướng di truyền, và các nghiên cứu trên toàn bộ bộ gen đã bắt đầu xác định các locus cụ thể có liên quan đến tăng nguy cơ.

Các yếu tố gia đình và xã hội có thể đóng vai trò. Nhiều bệnh nhân thuộc tầng lớp trung lưu hoặc thượng lưu, họ quá tỉ mỉ và cưỡng ép, có trí thông minh trung bình và có tiêu chuẩn cao về thành tích và thành đạt.

Bất thường nội tiết là phổ biến trong chán ăn tâm thần; chúng bao gồm

  • Nồng độ hormone tuyến sinh dục thấp

  • Giảm nhẹ mức thyroxine (T4) và triiodothyronine (T3)

  • Tăng tiết cortisol

Thường bị mất kinh nguyệt, nhưng việc mất kinh nguyệt không còn là một tiêu chuẩn chẩn đoán nữa. Mật độ xương giảm. Ở những bệnh nhân suy dinh dưỡng nặng, hầu như mọi hệ thống cơ quan lớn đều có thể bị ảnh hưởng. Tính nhạy cảm với nhiễm trùng thường không tăng lên.

Sự mất nước và kiềm chuyển hóa có thể xảy ra, K và/hoặc Na huyết tương có thể thấp; tất cả đều trầm trọng bởi nôn ói và thuốc nhuận tràng hoặc thuốc lợi tiểu.

Khối lượng cơ tim, kích thước buồng tim và lượng máu bơm ra đều giảm, sa van hai lá thường được phát hiện. Một số bệnh nhân khoảng QT kéo dài (ngay cả khi được nhịp tim đã được hiệu chỉnh), trong đó, cùng với các rối loạn điện giải có thể dẫn đến nhịp tim nhanh và bất thường. Đột tử, hầu hết là do nhịp thất nhanh và bất thường, có thể xảy ra.

Chứng chán ăn tâm thần có thể nhẹ và thoáng qua hoặc nghiêm trọng và lâu dài.

Mặc dù nhẹ cân, hầu hết bệnh nhân lo ngại rằng họ nặng quá mức hoặc các vùng cơ thể cụ thể (ví dụ, đùi, mông) quá béo. Họ cố gắng giảm cân mặc dù có sự trấn an và cảnh báo từ bạn bè và thành viên trong gia đình rằng họ rất gầy hoặc thậm chí còn thiếu cân, và họ cho rằng bất kỳ sự tăng cân nào đều là sự thất bại không thể chấp nhận được trong việc tự kiểm soát. Sự bận tâm và lo lắng về tăng cân ngay cả khi đã xuất hiện biểu hiện hốc hác.

Chán ăn là một sự nhầm lẫn trong việc sử dùng từ vì sự thèm ăn thường kéo dài cho đến khi bệnh nhân trở nên suy mòn. Bệnh nhân bận tâm với thức ăn:

  • Họ nghiên cứu chế độ ăn uống và năng lượng.

  • Họ tích trữ, giấu giếm và lãng phí thức ăn.

  • Họ thu thập các công thức nấu ăn.

  • Họ chuẩn bị các món ăn công phu cho người khác.

Bệnh nhân thường phóng đại lượng thức ăn của họ và hành vi che giấu, ví dụ như gây nôn. Cuồng ăn/tự đào thải thức ăn xảy ra ở 30 đến 50% số bệnh nhân. Những người khác chỉ đơn giản hạn chế lượng thức ăn của họ.

Nhiều bệnh nhân chán ăn tâm thần cũng tập thể dục quá mức để kiểm soát trọng lượng. Ngay cả những bệnh nhân xuất hiện gầy mòn vẫn có xu hướng hoạt động rất tích cực (bao gồm theo đuổi các chương trình tập luyện mạnh mẽ).

Các than phiền về đầy bụng, khó chịu ở bụng, và táo bón là phổ biến. Hầu hết phụ nữ mắc chứng biếng ăn tâm thần đều ngừng kinh nguyệt. Bệnh nhân thường mất quan tâm đến tình dục. Trầm cảm xảy ra một cách thường xuyên.

Những triệu chứng cơ thể thường gặp bao gồm nhịp tim chậm, hạ huyết áp, hạ thân nhiệt, xuất hiện lông tơ (lông mềm, mịn thường chỉ có ở trẻ sơ sinh) hoặc rậm lông nhẹ, và phù nề. Mỡ cơ thể giảm đáng kể. Bệnh nhân nôn ói có thể bị ăn mòn men răng, tăng kích thước tuyến nước bọt nhưng không đau và/hoặc thực quản bị viêm.

  • Tiêu chuẩn lâm sàng

Không nhận ra sự nghiêm trọng của trọng lượng cơ thể thấp và ăn uống hạn chế là những đặc điểm nổi bật của chứng chán ăn tâm thần. Bệnh nhân chống lại việc đánh giá và điều trị; họ thường được các thành viên trong gia đình đưa đến sự chú ý của bác sĩ hoặc do bệnh tật liên tục.

Tiêu chuẩn lâm sàng cho chẩn đoán chứng biếng ăn tâm thần (1) bao gồm như sau:

  • Hạn chế tiếp nhận thức ăn dẫn đến trọng lượng cơ thể thấp

  • Nỗi sợ bị thừa cân hay béo phì (được khẳng định bởi bệnh nhân hoặc biểu hiện dưới dạng hành vi gây trở ngại cho sự tăng cân)

  • Rối loạn về hình ảnh bản thân (nhận thức sai về trọng lượng và/hoặc diện mạo) hoặc phủ định sự nghiêm trọng của bệnh tật

Ở người lớn, trọng lượng cơ thể thấp được định nghĩa bằng cách sử dụng chỉ số khối cơ thể (BMI). BMI < 17 kg/m2 được coi là thấp đáng kể; BMI 17 đến < 18,5 kg/m2 có thể thấp đáng kể tùy thuộc vào mức điểm xuất phát của bệnh nhân.

Đối với trẻ em và thanh thiếu niên, bách phân vị chỉ số BMI theo lứa tuổi được sử dụng; phần trăm thứ 5 thường được coi là điểm cắt. Tuy nhiên, trẻ em trên bách phân vị thứ 5 không duy trì quỹ đạo tăng trưởng dự kiến cũng có thể được coi là đáp ứng các tiêu chuẩn cân nặng cơ thế thấp; bách phân vị BMI đối với bảng độ tuổi và biểu đồ tăng trưởng chuẩn có sẵn từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (xem Biểu đồ tăng trưởng CDC). Máy tính BMI riêng biệt có sẵn cho trẻ em và thanh thiếu niên.

Bệnh nhân có thể xuất hiện tốt và có ít, nếu có, bất thường trong xét nghiệm máu. Chìa khóa để chẩn đoán là xác định những nỗ lực không ngừng để tránh tăng cân và nỗi sợ béo mãnh liệt không giảm đi khi giảm cân.

Chẩn đoán phân biệt

Một rối loạn tâm thần khác, chẳng hạn như tâm thần phân liệt hoặc trầm cảm nguyên phát, có thể gây ra giảm cân và miễn cưỡng ăn, nhưng những bệnh nhân mắc các rối loạn này không có hình ảnh cơ thể bị lệch lạc.

Hiếm khi, một rối loạn thể chất nghiêm trọng không được phát hiện cũng có thể làm giảm cân đáng kể. Các rối loạn cần xem xét bao gồm hội chứng giảm hấp thu (ví dụ, do bệnh viêm ruột hoặc bệnh celiac), bệnh tiểu đường type 1 khởi phát sớm, suy tuyến thượng thận và ung thư. Lạm dụng Amphetamin có thể gây ra các triệu chứng tương tự.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, Bản sửa đổi văn bản phiên bản thứ năm, DSM-5-TRTM, Rối loạn cho ăn và rối loạn ăn uống.

Tỉ lệ tử vong cao, tới 10% mỗi thập kỷ trong số những người bị bệnh tìm đến y tế; bệnh nhẹ mà không được nhận ra có lẽ ít khi dẫn đến tử vong. Với điều trị, tiên lượng như sau:

  • Một nửa số bệnh nhân lấy lại được phần lớn hoặc tất cả số cân bị mất, và bất kỳ các biến chứng nội tiết và các biến chứng khác đều hồi phục.

  • Khoảng một phần tư có kết quả ở mức trung gian và có thể tái phát.

  • Một phần tư còn lại có kết quả kém, bao gồm tái phát và các biến chứng về thể chất và tâm thần liên tục

Trẻ em và thanh thiếu niên được điều trị chứng chán ăn tâm thần có kết quả tốt hơn người lớn.

  • Bổ sung dinh dưỡng

  • Liệu pháp tâm lý (ví dụ: liệu pháp hành vi nhận thức)

  • Đối với trẻ em và thanh thiếu niên, điều trị dựa trên gia đình

  • Đôi khi thuốc chống loạn thần thế hệ 2

Việc điều trị chán ăn tâm thần có thể đòi hỏi can thiệp ngắn hạn duy trì mạng sống để hồi phục lại cân nặng cơ thể. Khi mất cân nặng ở mức trầm trọng hoặc nhanh hoặc khi trọng lượng giảm xuống dưới 75% trọng lượng thông thường thì việc khôi phục lại trọng lượng sẽ trở nên rất quan trọng và cần cân nhắc điều trị ở bệnh viện. Nếu có bất kì nghi ngờ, bệnh nhân nên được nhập viện.

Điều trị ngoại trú có thể bao gồm sự hỗ trợ và giám sát khác nhau và thường bao gồm một nhóm những người hỗ trợ.

Bổ sung dinh dưỡng thường được sử dụng với liệu pháp hành vi có mục tiêu phục hồi trọng lượng rõ ràng. Bổ sung dinh dưỡng, bắt đầu bằng khoảng 30 đến 40 kcal/kg/ngày, có thể tăng cân lên đến 1,5 kg/tuần trong thời gian chăm sóc nội trú và 0,5 kg/tuần trong thời gian chăm sóc ngoại trú. Cho ăn bằng thức ăn đặc là tốt nhất; nhiều kế hoạch phục hồi cân nặng cũng sử dụng thực phẩm chức năng dạng lỏng. Những bệnh nhân kém sức đề kháng, suy dinh dưỡng đôi khi cần cho ăn bằng ống thông mũi dạ dày.

Canxi 1200 đến 1500 mg/ngày và vitamin D 600 đến 800 IU/ngày thường được kê cho tình trạng mất xương.

Một khi tình trạng dinh dưỡng, dịch và điện giải đã được ổn định, bắt đầu điều trị dài hạn. Tâm lý trị liệu ngoại trú là nền tảng của điều trị. Các phương pháp điều trị nên nhấn mạnh đến các kết quả về hành vi như ăn uống bình thường và cân nặng. Điều trị nên tiếp tục trong một năm sau khi cân nặng được phục hồi. Kết quả tốt nhất ở trẻ vị thành niên bị rối loạn < 6 tháng.

Liệu pháp gia đình, đặc biệt là sử dụng mô hình Maudsley (còn được gọi là điều trị dựa vào gia đình), rất hữu ích cho thanh thiếu niên. Mô hình này có 3 giai đoạn:

  • Các thành viên trong gia đình được dạy cách cho trẻ vị thành niên ăn trở lại (ví dụ, thông qua bữa ăn gia đình được giám sát) và do đó khôi phục trọng lượng của thanh thiếu niên (ngược với cách tiếp cận trước đó, mô hình này không đổ lỗi cho gia đình hoặc thanh thiếu niên).

  • Kiểm soát việc ăn uống dần dần được đưa trở lại cho trẻ vị thành niên.

  • Sau khi trẻ vị thành niên có thể duy trì trọng lượng đã phục hồi, liệu pháp tập trung vào việc tạo ra một nhân dạng trẻ vị thành niên khỏe mạnh.

Điều trị chán ăn tâm thần là vấn đề phức tạp bởi người bệnh ghê sợ việc tăng cân và phủ định bệnh tật. Bác sĩ nên cố gắng tạo ra một mối quan hệ từ tốn, quan tâm và ổn định trong khi vẫn khuyến khích tiếp nhận thức ăn một cách hợp lý.

Điều trị cũng bao gồm theo dõi thường xuyên và thường là một nhóm các bác sĩ chăm sóc sức khỏe, bao gồm một chuyên gia dinh dưỡng, người có thể cung cấp các kế hoạch bữa ăn cụ thể hoặc thông tin về lượng calo cần thiết để khôi phục lại trọng lượng bình thường.

Mặc dù tâm lý trị liệu là chính, nhưng thuốc đôi khi cũng có hiệu quả. Olanzapine lên đến 10 mg đường uống x 1 lần/ngày có thể giúp tăng cân.

  • Bệnh nhân chán ăn tâm thần có một sự sợ hãi mãnh liệt về việc tăng cân hoặc trở nên béo vẫn tồn tại mặc dù có bằng chứng ngược lại.

  • Ở nhóm hạn chế ăn, bệnh nhân hạn chế ăn uống và đôi khi tập thể dục quá mức nhưng không thường xuyên có việc cuồng ăn hay tự đào thải thức ăn.

  • Ở loại cuồng ăn/tự đào thải thức ăn, bệnh nhân thường xuyên cuồng ăn và/hoặc gây nôn và/hoặc lạm dụng thuốc nhuận tràng, thuốc lợi tiểu, hoặc rửa ruột trong nỗ lực tẩy sạch thức ăn.

  • Ở người lớn, BMI thấp đáng kể (thường là BMI < 17 kg/m2), và ở thanh thiếu niên, phân vị BMI thấp (thường < phân vị thứ 5) hoặc không tăng như mong đợi đối với sự phát triển bình thường.

  • Các bất thường về nội tiết hoặc điện giải hoặc rối loạn nhịp tim có thể phát triển và có thể tử vong.

  • Điều trị bằng bổ sung dinh dưỡng, tâm lý trị liệu (ví dụ: liệu pháp nhận thức-hành vi), và đối với thanh thiếu niên, liệu pháp dựa vào gia đình; olanzapine có thể có hiệu quả.

Ăn vô độ tâm thần được đặc trưng bởi các giai đoạn cuồng ăn lặp đi lặp lại, theo sau là một số hành vi bù trừ như tự đào thải thức ăn (tự gây ra nôn ói, thuốc nhuận tràng hoặc thuốc lợi tiểu), tập thể dục, nhịn ăn, hoặc tập thể dục; các giai đoạn phải xảy ra ít nhất 1 lần/tuần trong 3 tháng. Chẩn đoán dựa trên bệnh sử và thăm khám. Điều trị bằng liệu pháp tâm lý và thuốc chống trầm cảm.

Tỷ lệ mắc chứng cuồng ăn suốt đời là khoảng 0,5% ở nữ giới và 0,1% ở nam giới (1). Những người bị bệnh thường bận tâm một cách dai dẳng và quá mức về hình thể và cân nặng. Không giống như những bệnh nhân bị chứng biếng ăn tâm thần, những người bị ăn vô độ tâm thần có trọng lượng bình thường hoặc cao hơn bình thường.

Tài liệu tham khảo chung

1. Udo T, Grilo CM: Prevalence and correlates of DSM-5–defined eating disorders in a nationally representative sample of U.S. adults. Biol Psychiatry 1;84(5):345-354, 2018. doi: 10.1016/j.biopsych.2018.03.014.

Rối loạn nghiêm trọng về dịch và điện giải, đặc biệt là hạ kali huyết, đôi khi xảy ra. Rất hiếm khi, trong giai đoạn cuồng ăn hoặc tự đào thải thức ăn có rách dạ dày hay thực quản, dẫn đến các biến chứng nguy hiểm đến tính mạng.

Bởi vì sự giảm cân đáng kể không xảy ra nên không có những biến chứng thể chất nghiêm trọng khác xảy ra với chứng biếng ăn tâm thần. Tuy nhiên, bệnh cơ tim có thể là do lạm dụng lâu dài siro ipecac để gây nôn.

Những bệnh nhân mắc chứng cuồng ăn thường mô tả hành vi thanh trừng. Các cơn cuồng ăn liên quan đến việc ăn nhanh một lượng thực phẩm lớn hơn nhiều so với hầu hết mọi người sẽ ăn trong một khoảng thời gian tương tự dưới những hoàn cảnh tương tự nhau (ví dụ, số lượng được coi là quá mức cho bữa ăn bình thường so với bữa ăn ngày lễ có thể khác nhau) kèm theo cảm giác mất kiểm soát.

Bệnh nhân có xu hướng ăn các thực phẩm ngọt, nhiều chất béo (ví dụ, kem, bánh). Lượng thức ăn tiêu thụ trong một cơn cuồng ăn rất đa dạng, đôi khi có thể đến hàng ngàn calo. Cuồng ăn có xu hướng thành từng giai đoạn, thường bị khởi phát bởi căng thẳng tâm lý xã hội, có thể xảy ra thường xuyên vài lần trong ngày, và thường được thực hiện trong bí mật.

Cuồng ăn được đi kèm với các hành vi bù trừ: tự gây nôn, sử dụng thuốc nhuận tràng hoặc thuốc lợi tiểu, tập thể dục quá mức, và/hoặc nhịn ăn.

Bệnh nhân thường có cân nặng bình thường; chỉ một số ít bệnh nhân bị thừa cân hoặc béo phì. Tuy nhiên, bệnh nhân quá quan tâm đến trọng lượng cơ thể và/hoặc hình dáng của họ; họ thường không hài lòng với cơ thể của họ và nghĩ rằng họ cần phải giảm cân.

Bệnh nhân mắc chứng ăn vô độ tâm thần có khuynh hướng nhìn nhận hoặc ăn năn hối lỗi hoặc bị tội về hành vi của họ so với những người có chứng chán ăn tâm thần và có nhiều khả năng thừa nhận mối quan tâm của họ khi được hỏi bởi một bác sĩ có sự thông cảm. Họ cũng ít bị cô lập về mặt xã hội và dễ có hành vi sung động, lạm dụng ma túy và rượu, và trầm cảm. Trầm cảm, lo âu (ví dụ liên quan đến cân nặng và/hoặc tình huống xã hội) và các rối loạn lo âu phổ biến hơn ở những bệnh nhân này.

Các biến chứng

Hầu hết các triệu chứng và các biến chứng về thể chất của chứng cuồng ăn là kết quả của việc tự đào thải thức ăn. Tự nôn ói có thể dẫn đến sự ăn mòn men răng cửa, tăng kích thước tuyến nước bọt nhưng không đau, và thực quản bị viêm. Các dấu hiệu thể chất bao gồm

  • Tuyến nước bọt bị sưng

  • Sẹo ở mặt mu bàn tay (do nôn nhiều lần bằng cách sử dụng ngón tay để kích hoạt phản xạ nôn)

  • Mòn men răng

  • Tiêu chuẩn lâm sàng

Tiêu chuẩn lâm sàng (1) để chẩn đoán bao gồm:

  • Các đợt ăn uống vô độ lặp đi lặp lại (tiêu thụ không kiểm soát một lượng lớn thực phẩm một cách bất thường) đi kèm với cảm giác mất kiểm soát đối với việc ăn uống và xảy ra trung bình ít nhất 1 lần/tuần trong 3 tháng

  • Hành vi bù đắp không phù hợp tái diễn gây ảnh hưởng đến trọng lượng cơ thể (trung bình, ít nhất 1 lần/tuần trong 3 tháng)

  • Những quan tâm về hình dáng cơ thể và cân nặng ảnh hưởng tới việc tự đánh giá bản thân quá mức

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, Bản sửa đổi văn bản phiên bản thứ năm, DSM-5-TRTM, Rối loạn cho ăn và rối loạn ăn uống.

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

  • Liệu pháp tâm lý tương tác cá nhân

  • Các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI)

Liệu pháp nhận thức-hành vi là phương pháp điều trị được lựa chọn cho chứng cuồng ăn bulimia. Liệu pháp thường bao gồm 16 đến 20 buổi riêng lẻ từ 4 đến 5 tháng, mặc dù nó cũng có thể được thực hiện dưới dạng liệu pháp nhóm. Điều trị nhằm mục đích

  • Tăng động lực cho sự thay đổi

  • Thay thế ăn uống thất thường bằng cách ăn uống linh hoạt

  • Giảm sự quan tâm không đáng có với hình dạng và trọng lượng cơ thể

  • Ngăn ngừa tái phát

Liệu pháp hành vi nhận thức giúp loại bỏ tình trạng ăn uống vô độ và tháo rửa ở khoảng 30% đến 50% số bệnh nhân. Nhiều người khác cho thấy sự cải thiện; một số từ bỏ điều trị hoặc không đáp ứng. Cải thiện thường được duy trì dài hạn tốt.

Trong liệu pháp tâm lý giữa các cá nhân, mục tiêu là giúp bệnh nhân xác định và thay đổi các vấn đề liên quan đến giao tiếp, tương tác cá nhân hiện tại mà có thể có thể là yếu tố duy trì rối loạn ăn uống. Việc điều trị vừa không trực tiếp vừa không diễn giải và không tập trung trực tiếp vào các triệu chứng của rối loạn ăn uống. Tâm lý trị liệu giữa các cá nhân có thể được coi là một giải pháp thay thế khi liệu pháp nhận thức-hành vi không khả dụng.

Sử dụng đơn độc các SSRI làm giảm tần suất cuồng ăn và nôn ói, mặc dù các kết quả lâu dài không được biết rõ. SSRI cũng có hiệu quả trong điều trị chứng lo âu và trầm cảm đồng diễn. Fluoxetine được phê duyệt để điều trị chứng cuồng ăn bulimia; khuyến nghị dùng 1 liều 60 mg, đường uống x 1 lần/ngày (liều này cao hơn liều thường được sử dụng cho bệnh trầm cảm).

  • Ăn vô độ tâm thần liên quan đến những giai đoạn lặp lại việc cuồng ăn và theo sau bởi hành vi bù trừ không thích hợp như tự gây nôn, lạm dụng thuốc nhuận tràng hoặc lợi tiểu, nhịn ăn hoặc tập thể dục quá mức.

  • Không giống như bệnh nhân chán ăn tâm thần, bệnh nhân hiếm khi bị giảm cân nhiều hoặc xuất hiện thiếu hụt dinh dưỡng.

  • Thường xuyên tự gây nôn ói có thể ăn mòn men răng và/hoặc gây viêm thực quản.

  • Rối loạn nghiêm trọng về dịch và điện giải, đặc biệt là hạ kali huyết, đôi khi xảy ra.

  • Vỡ thực quản hoặc dạ dày hoặc bệnh cơ tim là những biến chứng hiếm gặp.

  • Điều trị bằng liệu pháp nhận thức-hành vi và đôi khi là SSRI.

Rối loạn ăn uống vô độ được đặc trưng bởi các đợt tiêu thụ một lượng lớn thức ăn tái diễn với cảm giác mất kiểm soát. Sau cuồng ăn không phải là hành vi bù trừ, như tự gây nôn hoặc lạm dụng các thuốc nhuận tràng. Chẩn đoán là lâm sàng. Điều trị bằng liệu pháp hành vi nhận thức hoặc đôi khi liệu pháp tâm lý giữa các cá nhân hoặc thuốc (thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin [SSRIs] hoặc lisdexamfetamine).

Rối loạn cuồng ăn ảnh hưởng đến khoảng 3,5% số phụ nữ và 2% số nam giới trong dân số nói chung trong suốt cuộc đời của họ. Không giống như chứng cuồng ăn bulimia, chứng rối loạn ăn uống vô độ xảy ra phổ biến nhất ở những người thừa cân hoặc béo phì và góp phần vào việc hấp thụ quá nhiều calo; nó có thể xuất hiện ở  30% số bệnh nhân trong một số chương trình giảm cân. So với những người mắc chán ăn tâm thần hoặc chứng cuồng ăn bulimia, những người mắc chứng rối loạn ăn uống vô độ lớn tuổi hơn và có nhiều khả năng là nam giới.

Trong một giai đoạn cuồng ăn, bệnh nhân tiêu thụ một lượng thức ăn lớn hơn nhiều so với hầu hết mọi người ăn trong một khoảng thời gian và bối cảnh tương tự. Trong và sau khi say, mọi người cảm thấy như mất kiểm soát. Cuồng ăn không đi kèm với các hành vi thanh lọc (bằng cách tự gây nôn, lạm dụng thuốc nhuận tràng, thuốc lợi tiểu hoặc thụt), tập thể dục quá mức hoặc nhịn ăn. Cuồng ăn xảy ra trong các đợt; nó không liên quan đến việc ăn quá nhiều (“ăn thả cửa”).

Những người mắc chứng rối loạn ăn uống vô độ rất đau khổ vì nó. Trầm cảm nhẹ đến trung bình và mối bận tâm về hình dáng cơ thể, cân nặng hoặc cả hai đều phổ biến hơn ở những người béo phì mắc chứng rối loạn ăn uống vô độ so với những người có cùng cân nặng nhưng không ăn vô độ.

  • Tiêu chuẩn lâm sàng

Tiêu chuẩn lâm sàng để chẩn đoán rối loạn cuồng ăn (1) cần phải có

  • Ăn vô độ xảy ra trung bình ít nhất một lần một tuần trong 3 tháng

  • Bệnh nhân có cảm giác ăn uống thiếu kiểm soát

Ngoài ra, phải có  3 điểm sau:

  • Ăn nhiều, nhanh hơn bình thường

  • Ăn cho đến khi cảm thấy quá no một cách không thoải mái

  • Ăn nhiều thức ăn khi không cảm thấy đói

  • Ăn một mình vì xấu hổ

  • Cảm thấy chán ghét, trầm cảm, hoặc có tội sau khi ăn quá nhiều

Rối loạn ăn uống vô độ được phân biệt với chứng cuồng ăn bulimia (cũng liên quan đến ăn uống vô độ) do không có các hành vi bù đắp (ví dụ: tự gây nôn, sử dụng thuốc nhuận tràng hoặc thuốc lợi tiểu, tập thể dục quá mức, nhịn ăn).

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, Bản sửa đổi văn bản phiên bản thứ năm, DSM-5-TRTM, Rối loạn cho ăn và rối loạn ăn uống.

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

  • Đôi khi liệu pháp tương tác cá nhân

  • Cân nhắc điều trị bằng thuốc, thường là thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) hoặc lisdexamfetamine

Liệu pháp nhận thức hành vi là phương pháp điều trị được nghiên cứu nhiều nhất và hỗ trợ tốt nhất cho chứng rối loạn cuồng ăn, nhưng liệu pháp tâm lý giữa các cá nhân có vẻ hiệu quả không kém. Cả hai kết quả đều dẫn đến tỷ lệ thuyên giảm  60%, và sự cải thiện thường được duy trì tốt trong thời gian dài. Những phương pháp điều trị này không làm giảm cân đáng kể ở bệnh nhân béo phì.

Điều trị hành vi giảm cân theo truyền thống có hiệu quả ngắn hạn trong việc giảm bớt cuồng ăn, nhưng bệnh nhân có xu hướng tái phát. Thuốc chống trầm cảm (ví dụ SSRI) cũng có hiệu quả ngắn hạn trong việc loại bỏ việc cuồng ăn, nhưng hiệu quả lâu dài vẫn chưa được biết rõ. Lisdexamfetamine được phê duyệt để điều trị chứng rối loạn ăn uống vô độ từ trung bình đến nặng. Nó có thể làm giảm số ngày say và giảm cân nhẹ, nhưng hiệu quả lâu dài của nó là không rõ ràng. Thuốc ức chế sự thèm ăn (ví dụ, topiramate) hoặc thuốc giảm cân (ví dụ orlistat) có thể hữu ích.

  • Những người mắc chứng rối loạn ăn uống vô độ có các giai đoạn tiêu thụ một lượng lớn thức ăn, không bù lại được bằng cách nôn mửa hoặc nôn mửa, và có xu hướng thừa cân hoặc béo phì.

  • Chẩn đoán chứng rối loạn ăn uống vô độ dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng (bao gồm ăn uống vô độ, trung bình ít nhất 1 lần/tuần trong 3 tháng, kèm theo cảm giác ăn uống thiếu kiểm soát).

  • Điều trị bằng liệu pháp hành vi nhận thức hoặc tâm lý trị liệu giữa các cá nhân và đôi khi dùng thuốc (ví dụ: SSRI, lisdexamfetamine).

Rối loạn ăn/hạn chế ăn (ARFID) được đặc trưng bởi hạn chế ăn; nó không bao gồm việc có một hình ảnh cơ thể méo mó hoặc bị bận tâm với hình ảnh cơ thể (ngược với chứng biếng ăn tâm thần và chứng cuồng ăn).

Rối loạn ăn uống hạn chế/hạn chế thường bắt đầu trong thời thơ ấu nhưng có thể phát triển ở mọi lứa tuổi. Nguyên nhân chính xác của rối loạn chưa được biết rõ, nhưng nó có thể có các thành phần di truyền và tâm lý xã hội, bao gồm chấn thươnglo âutự kỷ và khuyết tật phát triển. ARFID thường có thể bắt đầu trong thời thơ ấu và ban đầu có thể giống với việc kén ăn rất phổ biến trong thời thơ ấu – khi trẻ không ăn các loại thực phẩm nhất định hoặc thức ăn có màu nhất đinh, một loại thức ăn kéo dài, hoặc có mùi. Tuy nhiên, kiểu ăn uống như vậy, không giống như rối loạn né tránh/hạn chế tiếp nhận hức ăn, thường chỉ bao gồm một vài loại thực phẩm, và sự thèm ăn, lượng thức ăn tổng thể, tăng trưởng và phát triển là bình thường.

Bệnh nhân có lượng thức ăn tránh/hạn chế có thể không ăn vì họ không thích ăn hoặc vì họ sợ rằng ăn sẽ dẫn đến hậu quả nguy hiểm như nghẹt thở hoặc nôn. Họ có thể tránh một số thực phẩm nhất định vì đặc điểm cảm giác của họ (ví dụ như màu sắc, tính nhất quán, mùi).

Bệnh nhân mắc chứng rối loạn ăn kiêng/hạn chế ăn uống tránh ăn thức ăn và hạn chế ăn đến mức họ có  1 trong những điều sau:

  • Giảm cân một cách đáng kể, hoặc ở trẻ em, không phát triển như mong đợi

  • Sự thiếu hụt dinh dưỡng đáng kể

  • Phụ thuộc vào nuôi dưỡng đường ruột (ví dụ, thông qua xông ăn) hoặc bổ sung dinh dưỡng đường miệng

  • Rối loạn chức năng tâm lý xã hội một cách đáng kể

Thiếu hụt dinh dưỡng có thể đe dọa tính mạng, và hoạt động xã hội (ví dụ như tham gia các bữa ăn gia đình, dành thời gian cho bạn bè trong các tình huống có thể xảy ra khi ăn) có thể bị suy giảm rõ rệt.

  • Tiêu chuẩn lâm sàng

Tiêu chuẩn về chứng rối loạn ăn uống tránh/hạn chế (1) bao gồm những điều sau:

  • Hạn chế thực phẩm dẫn đến giảm cân đáng kể, không tăng trưởng như mong đợi ở trẻ em, thiếu hụt dinh dưỡng đáng kể, phụ thuộc vào hỗ trợ dinh dưỡng, và/hoặc rối loạn chức năng tâm lý xã hội

  • Việc hạn chế thực phẩm không phải do thực phẩm không có sẵn, tập quán văn hóa (ví dụ như ăn chay theo tôn giáo), bệnh thể chất, điều trị y tế (ví dụ, xạ trị, hóa trị), hoặc rối loạn ăn uống khác — đặc biệt là chán ăn tâm thần hoặc ăn vô độ

  • Không có bằng chứng về một nhận thức bị xáo trộn về trọng lượng hoặc hình dạng cơ thể.

Tuy nhiên, những bệnh nhân mắc rối loạn thể chất, gây ra việc giảm lượng thức ăn, nhưng lại duy trì lượng thức ăn giới hạn ở mức dài hơn so với dự kiến và tới mức đòi hỏi phải có một can thiệp cụ thể có thể cân nhắc có rối loạn né tránh/hạn chế tiếp nhận thức ăn.

Khi bệnh nhân đến khám lần đầu, bác sĩ lâm sàng phải loại trừ các bệnh lý cơ thể cũng như các rối loạn tâm thần khác làm giảm sự thèm ăn và/hoặc tiếp nhận thức ăn, bao gồm các rối loạn ăn uống khác, trầm cảmtâm thần phân liệt, rối loạn giả bệnh lên người khác (rối loạn giả bệnh uy quyền).

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, Bản sửa đổi văn bản phiên bản thứ năm, DSM-5-TRTM, Rối loạn cho ăn và rối loạn ăn uống.

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

Liệu pháp hành vi nhận thức thường được sử dụng để giúp bệnh nhân bình thường hóa việc ăn uống của họ. Nó cũng có thể giúp họ cảm thấy bớt lo lắng về những gì họ ăn.

  • Trong rối loạn né tránh/hạn chế tiếp nhận thức ăn có thể gây sụt cân đáng kể và sự thiếu hụt dinh dưỡng có thể đe dọa tính mạng, và các chức năng xã hội (ví dụ tham gia vào các bữa ăn gia đình) có thể bị suy giảm đáng kể.

  • Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí cụ thể, đặc biệt là phân biệt rối loạn ăn uống hạn chế chán ăn tâm thần hoặc tâm thần kinh.

  • Điều trị bằng liệu pháp hành vi nhận thức, nhằm mục đích bình thường hóa việc ăn uống của bệnh nhân.

Dị thực là việc ăn các những thứ không có dinh dưỡng, không phải là thực phẩm liên tục  1 tháng khi không thích hợp với tuổi phát triển (ví dụ, dị thực không được chẩn đoán ở trẻ em < 2 tuổi) và cũng không phải là một phần của truyền thống văn hoá (ví dụ, y học dân gian, nghi thức tôn giáo, hoặc thực tế thông thường, chẳng hạn như ăn đất sét (kaolin) ở Georgia Piedmont).

Bệnh nhân có xu hướng ăn các vật liệu không độc hại (ví dụ, giấy, đất sét, bụi bẩn, tóc, phấn, dây, len). Đối với trẻ < 2 tuổi, hành vi này không được coi là không phù hợp về mặt phát triển; trẻ < 2 tuổi thường xuyên ngậm miệng và ăn nhiều đồ vật. Ăn bẩn cũng phổ biến trong thời kì mang thai.

Mọc răng không gây sốt cao. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có các biến chứng như

  • Tắc ruột bởi vật liệu bị va đập

  • Ngộ độc chì ăn khoai tây chiên

  • Nhiễm ký sinh trùng (đặc biệt là bệnh do giardia).

Bản thân dị thực hiếm khi làm suy giảm chức năng xã hội, nhưng nó thường xảy ra ở những người có rối loạn tâm thần khác gây suy giảm chức năng (ví dụ như tự kỷ, khuyết tật trí tuệtâm thần phân liệt). Nuốt nhiều vật để nỗ lực gây những tổn hại bản thân hoặc giả tạo bệnh không được coi là ăn bẩn.

Pica có thể kéo dài vài tháng, sau đó tự biến mất, đặc biệt ở trẻ em.

  • Tiêu chuẩn lâm sàng (1)

Pica được chẩn đoán khi

  • Một bệnh nhân liên tục ăn không có chất dinh dưỡng, không phải thực phẩm trong thời gian  1 tháng.

  • Việc nuốt phải các chất liệu này không phù hợp với trình độ phát triển của bệnh nhân.

  • Nuốt phải những tài liệu này không phải là một phần của truyền thống văn hóa.

  • Nếu nuốt phải xảy ra ở một bệnh nhân với một rối loạn khác, nó là đủ dai dẳng và nghiêm trọng để đảm bảo điều trị cụ thể.

Dị thực không được chẩn đoán ở trẻ em < 2 tuổi bởi vì ở tuổi đó, ăn các vật liệu như vậy được coi là một phần của sự phát triển bình thường.

Nếu bác sĩ nghi ngờ pica, họ đánh giá tình trạng dinh dưỡng để kiểm tra giảm cân và thiếu hụt dinh dưỡng.

Đôi khi pica được chẩn đoán khi bệnh nhân có các triệu chứng tắc ruột (ví dụ như chuột rút nặng, táo bón), ngộ độc chì hoặc nhiễm ký sinh trùng gây ra một chuyến đi đến phòng cấp cứu hoặc bác sĩ lâm sàng.

Các xét nghiệm có thể được thực hiện dựa trên các triệu chứng của bệnh nhân và/hoặc các chất ăn vào. Chúng bao gồm các xét nghiệm máu để kiểm tra ngộ độc chì khi ăn mảnh vụn và kiểm tra phân để phát hiện ký sinh trùng khi ăn đất.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, Bản sửa đổi văn bản phiên bản thứ năm, DSM-5-TRTM, Rối loạn cho ăn và rối loạn ăn uống.

  • Đôi khi can thiệp về hành vi và tâm lý

  • Điều trị thiếu hụt dinh dưỡng và các biến chứng khác

Các kỹ thuật sửa đổi hành vi có thể giúp ích, nhưng ít được biết về các phương pháp điều trị cụ thể cho bệnh pica.

Thiếu hụt dinh dưỡng và các biến chứng khác được điều trị. Tắc ruột có thể phải phẫu thuật.

  • Chẩn đoán dị thực ở những bệnh nhân ăn dai dẳng, không phải thực phẩm trong thời gian  1 tháng; dị thực không được chẩn đoán ở trẻ em < 2 tuổi.

  • Thông thường, dị thực không gây tác hại đáng kể về mặt y tế, nhưng cần kiểm tra bệnh nhân về giảm cân và thiếu hụt dinh dưỡng và, nếu các triệu chứng gợi ý, xem có bị tắc ruột hay không, nhiễm ký sinh trùng.

  • Các kỹ thuật sửa đổi hành vi có thể giúp ích, nhưng ít được biết về các phương pháp điều trị cụ thể cho bệnh pica.

  • Điều trị thiếu hụt dinh dưỡng và các biến chứng khác khi cần thiết.

Nhai lại là trào ngược thức ăn sau khi ăn; trào ngược không liên quan đến buồn nôn hoặc nôn và có thể là tự nguyện.

Trong rối loạn nhai lại, bệnh nhân lặp đi lặp lại việc ợ thức ăn lên sau khi ăn, nhưng họ không bị buồn nôn hay bị nôn ọe. Thức ăn có thể bị nhổ ra hoặc nuốt lại; một số bệnh nhân nhai lại thức ăn trước khi nuốt lại. Sự nôn ợ xảy ra vài lần trong tuần, điển hình là hàng ngày.

Rối loạn trào ngược có thể xảy ra ở trẻ sơ sinh, trẻ em, thanh thiếu niên hoặc người lớn.

Tình trạng nôn trớ có thể cố ý hoặc vô ý và thường có thể được quan sát trực tiếp bởi bác sĩ lâm sàng.

Một số bệnh nhân nhận thức được hành vi đó là không mong muốn về mặt xã hội và cố che giấu nó bằng cách đặt tay lên miệng hoặc hạn chế lượng thức ăn ăn vào. Một số tránh ăn với người khác và không ăn trước một hoạt động xã hội hoặc làm việc để họ không nổi dậy ở nơi công cộng.

Những bệnh nhân nhổ ra đồ nôn ợ hoặc những người hạn chế đáng kể lượng thức ăn tiếp nhận có thể giảm cân hoặc gây nên giảm dinh dưỡng.

  • Tiêu chuẩn lâm sàng (1)

Rối loạn nhai lại được chẩn đoán khi

  • Bệnh nhân liên tục trào ngược thức ăn trong khoảng thời gian  1 tháng.

  • Rối loạn tiêu hóa (GI) có thể dẫn đến nôn trớ (ví dụ, trào ngược dạ dày thực quảntúi thừa Zenker) hoặc các rối loạn ăn uống khác (ví dụ, chứng biếng ăn tâm thần) trong đó đã loại trừ hiện tượng nhai lại đôi khi xảy ra.

  • Nếu trào ngược xảy ra ở bệnh nhân có rối loạn khác, nó đủ nghiêm trọng để đảm bảo điều trị cụ thể.

Các bác sĩ lâm sàng có thể quan sát trực tiếp trào ngược, hoặc bệnh nhân có thể báo cáo.

Các bác sĩ lâm sàng cũng đánh giá tình trạng dinh dưỡng để kiểm tra tình trạng giảm cân và thiếu hụt dinh dưỡng.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, Bản sửa đổi văn bản phiên bản thứ năm, DSM-5-TRTM, Rối loạn cho ăn và rối loạn ăn uống.

  • Thay đổi hành vi

Các kỹ thuật sửa đổi hành vi, bao gồm các phương pháp điều trị sử dụng các chiến lược nhận thức-hành vi, có thể có hiệu quả.

  • Nhai lại là trào ngược thức ăn sau khi ăn nhưng không liên quan đến buồn nôn hoặc nôn khan tự nhiên.

  • Một số bệnh nhân bị rối loạn nhai lại nhận thức được rằng hành vi đó là không thể chấp nhận được và cố gắng che giấu hoặc che giấu nó.

  • Một số hạn chế ăn bao nhiêu (để tránh cho người khác thấy mình bị trào ngược), đôi khi dẫn đến giảm cân hoặc thiếu dinh dưỡng.

  • Chẩn đoán rối loạn nhai lại ở những bệnh nhân báo cáo lại trào ngược thức ăn trong  1 tháng sau khi loại trừ các nguyên nhân có thể khác (ví dụ, rối loạn tiêu hóa, rối loạn ăn uống khác).

  • Điều trị bằng cách sử dụng các kỹ thuật sửa đổi hành vi.

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)

Rối loạn khí sắc

Rối loạn tâm trạng là rối loạn cảm xúc bao gồm thời gian buồn bã quá mức kéo dài, tâm trạng phấn chấn quá mức hoặc cả hai. Rối loạn tâm trạng có thể xảy ra ở người lớn, thanh thiếu niên hoặc trẻ em (xem Rối loạn trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên và Rối loạn lưỡng cực ở trẻ em và thanh thiếu niên).

Các rối loạn khí sắc được phân loại là

  • Lưỡng cực

  • Trầm cảm

Lo lắng và các rối loạn liên quan không được phân loại là rối loạn tâm trạng nhưng các tình trạng này thường xảy ra trước hoặc cùng tồn tại với các tình trạng đó.

Sự buồn chán và vui sướng (sự phấn chấn) là một phần của cuộc sống hàng ngày. Sự buồn chán là một phản ứng chung đối với thất bại, thất vọng, và các tình huống bất mãn khác. Vui sướng là một phản ứng chung đối với thành công, thành tích và các tình huống khích lệ khác.

Sự thương tiếc, một hình thức buồn, được coi là phản ứng cảm xúc bình thường đối với sự mất mát. Sự mất mát liên quan đến phản ứng cảm xúc đối với cái chết của người thân yêu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, phản ứng với sự mất mát dai dẳng hơn và gây tàn tật hơn, đồng thời bao gồm các triệu chứng trùng lặp phần nào với các triệu chứng của rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) và rối loạn trầm cảm nặng và kéo dài hơn 12 tháng, do đó đáp ứng các tiêu chuẩn về rối loạn đau buồn kéo dài (1).

Rối loạn tâm trạng được chẩn đoán khi buồn bã hoặc phấn chấn

  • Quá dữ dội và dai dẳng

  • Kèm theo các triệu chứng rối loạn tâm trạng khác đáp ứng các tiêu chuẩn của rối loạn

  • Làm suy giảm đáng kể khả năng hoạt động của một người

Trong những trường hợp như vậy, nỗi buồn mãnh liệt được gọi là trầm cảm và sự phấn chấn mãnh liệt được gọi là hưng cảm. Các rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi trầm cảm, các rối loạn lưỡng cực được đặc trưng bởi sự phối hợp đa dạng trầm cảm và hưng cảm.

Tự sát trong rối loạn cảm xúc

Tự tử là một nguy cơ đáng kể ở những người mắc chứng rối loạn trầm cảm nặng. Nguy cơ tự tử trong đời đối với những người mắc chứng rối loạn trầm cảm là từ 3% đến 6% (2), tùy thuộc vào mức độ trầm cảm của họ. Nguy cơ tăng nhiều trong các trường hợp sau:

  • Khi bắt đầu điều trị, khi hoạt động tâm thần vận động trở lại bình thường nhưng khí sắc vẫn còn u ám

  • Trong trạng thái lưỡng cực hỗn hợp

  • Vào các ngày kỷ niệm đáng nhớ cá nhân

  • Do lo âu nghiêm trọng hoặc kích động tâm thần

  • Bởi việc sử dụng rượu và chất gây nghiện

  • Trong vài tuần đến vài tháng sau một vụ tự sát, đặc biệt là một người sử dụng một phương pháp bạo lực

Các biến chứng khác của rối loạn khí sắc

Các biến chứng khác của rối loạn khí sắc bao gồm

  • Mất hoạt năng từ mức độ nhẹ cho đến mất hoàn toàn chức năng, duy trì tương tác xã hội, và tham gia vào các hoạt động thường ngày

  • Giảm ăn uống

  • Lo âu trầm trọng

  • Tình trạng rối loạn do sử dụng rượu

  • Rối loạn sử dụng chất khác

Tài liệu tham khảo chung

1. Prigerson HG, Boelen PA, Xu J: Validation of the new DSM-5-TR criteria for prolonged grief disorder and the PG-13-Revised (PG-13-R) scale. World Psychiatry 20(1):96-106, 2021. doi: 10.1002/wps.20823

2. Nierenberg AA, Gray SM, Grandin LD: Mood disorders and suicide. J Clin Psychiatry 62 Suppl 25:27-30, 2001. PMID: 11765092

Rối loạn lưỡng cực được đặc trưng bởi các giai đoạn hưng cảm và trầm cảm xen kẽ nhau, mặc dù nhiều bệnh nhân có đặc điểm nổi trội là tình trạng này hay tình trạng kia. Không rõ nguyên nhân chính xác, nhưng di truyền, thay đổi mức độ chất dẫn truyền thần kinh trong não, và các yếu tố tâm lý xã hội có thể liên quan đến. Chẩn đoán dựa trên tiền sử. Điều trị bao gồm thuốc ổn định tâm trạng, đôi khi bằng liệu pháp tâm lý.

Rối loạn lưỡng cực thường bắt đầu ở tuổi vị thành niên, 20, hoặc 30 (xem thêm Rối loạn lưỡng cực ở trẻ em và thanh niên). Tỷ lệ hiện mắc suốt đời là khoảng 2% (1).

Rối loạn lưỡng cực được phân loại thành

  • Rối loạn lưỡng cực I: Được xác định bởi sự hiện diện của ít nhất một giai đoạn hưng cảm toàn diện (nghĩa là gây suy giảm rõ rệt chức năng xã hội hoặc chức năng nghề nghiệp hoặc bao gồm hoang tưởng) và thường là các giai đoạn trầm cảm. Tỷ lệ mắc bệnh ở nam và nữ tương tự nhau (2).

  • Rối loạn lưỡng cực II: Được xác định bởi sự có mặt của các giai đoạn trầm cảm chủ yếu với ít nhất một giai đoạn hưng cảm nhẹ nhưng không có các giai đoạn hưng cảm đầy đủ. Tỷ lệ mắc bệnh có phần cao hơn đối với nữ giới (3).

  • Rối loạn lưỡng cực do chất kích thích/thuốc: Được xác định bởi sự hiện diện của rối loạn tâm trạng phù hợp với hưng cảm phát sinh trong hoặc ngay sau khi tiếp xúc, nhiễm độc hoặc cai một chất (ví dụ: cocaine, corticosteroid) có khả năng tạo ra các triệu chứng như vậy.

  • Rối loạn lưỡng cực và rối loạn liên quan do một tình trạng bệnh lý khác: Được xác định bởi sự hiện diện của rối loạn tâm trạng phù hợp với hưng cảm do tình trạng thuốc gây ra (ví dụ: hội chứng Cushingchấn thương sọ não) và không xảy ra riêng trong giai đoạn mê sảng.

  • Rối loạn lưỡng cực không biệt định: Các rối loạn với các đặc tính lưỡng cực rõ ràng không đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể cho các rối loạn lưỡng cực khác

Trong rối loạn khí sắc chu kỳ, bệnh nhân có thời gian kéo dài (> 2 năm) bao gồm cả giai đoạn hưng cảm và trầm cảm; tuy nhiên, các giai đoạn này không đáp ứng các tiêu chí cụ thể cho rối loạn lưỡng cực hoặc rối loạn trầm cảm nặng.

Tài liệu tham khảo chung

1. Merikangas KR, Akiskal HS, Angst J, et al: Lifetime and 12-month prevalence of bipolar spectrum disorder in the National Comorbidity Survey replication. Arch Gen Psychiatry 64(5):543-552, 2007 doi: 10.1001/archpsyc.64.5.543. Erratum in: Arch Gen Psychiatry 64(9):1039, 2007. PMID: 17485606

2. Diflorio A, Jones I: Is sex important? Gender differences in bipolar disorder. Int Rev Psychiatry 22(5):437-452, 2010 doi: 10.3109/09540261.2010.514601. PMID: 21047158

3. Baldassano CF, Marangell LB, Gyulai L, et al: Gender differences in bipolar disorder: retrospective data from the first 500 STEP-BD participants. Bipolar Disord 7(5):465-470, 2005 doi: 10.1111/j.1399-5618.2005.00237.x

Nguyên nhân chính xác của rối loạn lưỡng cực là không rõ. Di truyền đóng một vai trò quan trọng (1). Cũng có bằng chứng về sự rối loạn điều hòa các chất dẫn truyền thần kinhserotonin và norepinephrin và dopamine.

Có thể có những yếu tố tâm lý xã hội. Các sự kiện căng thẳng cuộc sống thường liên quan đến sự phát triển ban đầu của các triệu chứng và sau đó trầm trọng, mặc dù nguyên nhân và kết quả chưa được thiết lập.

Một số loại thuốc và chất kích thích có thể gây ra cơn kịch phát ở một số bệnh nhân rối loạn lưỡng cực; bao gồm các

  • Các thuốc cường giao cảm (ví dụ, cocainamphetamin)

  • Rượu

  • Corticosteroid

  • Một số thuốc chống trầm cảm (ví dụ, thuốc ba vòng, thuốc ức chế tái hấp thu noradrenergic)

Tài liệu tham khảo nguyên nhân gây bệnh

1. Gordovez FJA, McMahon FJ: The genetics of bipolar disorder. Mol Psychiatry 25(3):544-559, 2020. doi: 10.1038/s41380-019-0634-7

Rối loạn lưỡng cực bắt đầu bằng giai đoạn cấp tính của các triệu chứng trầm cảm hoặc hưng cảm, sau đó là quá trình thuyên giảm và tái phát lặp đi lặp lại. Sự thuyên giảm thường hoàn toàn, nhưng nhiều bệnh nhân có các triệu chứng tồn dư, và một số thì khả năng làm việc ở nơi làm việc bị suy giảm trầm trọng. Các đợt tái phát là những giai đoạn riêng biệt của các triệu chứng cường độ cao hơn, đó là hưng cảm, trầm cảm, trầm cảm nhẹ, hoặc hỗn hợp các tính trạng trầm cảm và hưng cảm.

Các đợt tập kéo dài từ vài tuần đến 3 đến 6 tháng; giai đoạn trầm cảm thường kéo dài hơn giai đoạn hưng cảm hoặc trầm cảm.

Các chu kỳ – thời gian từ khi khởi phát của một giai đoạn đến thời điểm khởi phát giai đoạn tiếp theo – khác nhau giữa các bệnh nhân. Một số bệnh nhân có giai đoạn không thường xuyên, có lẽ chỉ một vài giai đoạn trong suốt cuộc đời, trong khi một số khác lại có các dạng chu kỳ nhanh (thường được định nghĩa là  4 giai đoạn/năm). Chỉ có một ít bệnh nhân thay đổi luân phiên giữa hưng cảm và trầm cảm trong mỗi chu kỳ; trong hầu hết, một cực hay cực khác chiếm nổi trội.

Bệnh nhân có thể toan tự sát hoặc tự sát thành công. Tỷ lệ tự tử trong đời ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực được ước tính cao ít nhất từ 20 đến 30 lần so với dân số nói chung (1).

Hưng cảm

Một giai đoạn hưng cảm được định nghĩa là  1 tuần tâm trạng tăng cao, cởi mở hoặc cáu kỉnh dai dẳng và tăng liên tục các hoạt động hướng đến mục tiêu hoặc tăng năng lượng rõ rệt cộng với  3 triệu chứng bổ sung (hoặc  4 nếu tâm trạng chỉ cáu kỉnh) (2):

  • Tăng tính tự trọng bản thân hoặc phóng đại

  • Giảm nhu cầu ngủ

  • Nói chuyện nhiều hơn bình thường

  • Tư duy phi tán hoặc tư duy dồn dập

  • Tính dễ bị phân tán tập trung

  • Tăng cường hoạt động hướng đến mục tiêu hoặc kích động tâm lý vận động

  • Tham gia quá nhiều vào các hoạt động có rủi ro cao (ví dụ, mua sắm nhiều, đầu tư kinh doanh dại dột)

Các bệnh nhân hưng cảm có thể là tham gia vào nhiều hoạt động vui vẻ, có nguy cơ cao một cách không mệt mỏi, quá mức, và xung động (ví dụ, đánh bạc, thể thao nguy hiểm, hành động phô trương tình dục) mà không cần phải hiểu rõ những nguy hại có thể xảy ra. Các triệu chứng nặng đến mức họ không thể thực hiện các vai trò chính của họ (ví dụ: nghề nghiệp, trường học, cuộc sống gia đình). Những đầu tư không khôn ngoan, chi tiêu và các lựa chọn cá nhân khác có thể có những hậu quả không thể khắc phục được.

Bệnh nhân trong một giai đoạn hưng cảm có thể ăn mặc màu mè rực rõ và thường nói với tốc độ nhanh, không thể dừng. Bệnh nhân có thể tạo ra các mối liên quan (những ý nghĩ mới được khởi phát bởi bằng âm thanh thay vì ý nghĩa của từ). Dễ phân tâm, bệnh nhân có thể liên tục chuyển từ một chủ đề này sang chủ đề khác. Tuy nhiên, họ có xu hướng tin rằng họ đang ở trạng thái tinh thần tốt nhất của họ.

Thiếu sự thấu hiểu và tăng khả năng hoạt động thường dẫn đến hành vi xâm phạm và có thể là một sự kết hợp nguy hiểm. Sự bất hòa giữa các cá nhân và có thể khiến bệnh nhân cảm thấy họ đang bị đối xử hoặc bị ngược đãi một cách bất công. Do đó, bệnh nhân có thể trở nên nguy hiểm cho bản thân hoặc cho người khác. Tăng hoạt động tâm thần được bệnh nhân cảm nhận tư duy dồn dập và được quan sát là tư duy phi tán qua đánh giá của bác sĩ.

Hưng cảm loạn thần là một biểu hiện nặng hơn, với những triệu chứng loạn thần mà có thể khó phân biệt với tâm thần phân liệt. Bệnh nhân có những hoang tưởng phóng đại hoặc bị theo dõi (ví dụ, về việc là Chúa Giêsu hoặc bị FBI theo dõi), thỉnh thoảng có ảo giác. Mức độ hoạt động tăng rõ rệt; bệnh nhân có thể phóng xe nhanh và la hét, chửi thề hay hát hò. Tăng tình trạng thiếu ổn định cảm xúc, thường tăng tính dễ bị kích thích. Mê sảng (hưng cảm mê sảng) có thể xuất hiện, với sự mất mát hoàn toàn của tư duy và hành vi.

Hưng cảm nhẹ

Một giai đoạn hưng cảm nhẹ là một biến thể ít nặng nề hơn của hưng cảm liên quan đến một giai đoạn riêng biệt kéo dài  4 ngày với hành vi khác biệt rõ rệt bản thân bệnh nhân lúc bình thường không trầm cảm và bao gồm  3 trong số các triệu chứng bổ sung được liệt kê ở trên dưới hưng cảm.

Trong giai đoạn hưng cảm nhẹ, khí sắc tươi sáng, nhu cầu ngủ giảm khi năng lượng tăng lên đáng kể, và tâm thần vận động tăng nhanh. Đối với một số bệnh nhân, giai đoạn hưng cảm nhẹ được thích nghi bởi vì chúng tạo ra nhiều năng lượng, tăng tính sáng tạo, sự tự tin, và chức năng xã hội siêu thường. Nhiều người không muốn rời khỏi trạng thái vui tươi, hưng phấn. Một số hoạt động khá tốt, và hoạt động không bị suy giảm đáng kể. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân, hưng cảm nhẹ biểu hiện như sự phân tán, dễ bị cáu gắt, và khí sắc bất ổn định, mà bệnh nhân và những người khác thấy không thích thú tình trạng đó.

Trầm cảm

Giai đoạn trầm cảm nặng ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực có những đặc điểm điển hình của trầm cảm nặng; giai đoạn này phải bao gồm  5 triệu chứng sau đây trong cùng khoảng thời gian 2 tuần và một trong số đó phải là tâm trạng chán nản hoặc mất hứng thú hoặc khoái cảm và, ngoại trừ ý nghĩ tự sát hoặc toan tự sát, tất cả các triệu chứng phải xuất hiện gần như mỗi ngày:

  • Khí sắc trầm hầu hết trong ngày

  • Giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong tất cả hoặc gần như tất cả các hoạt động trong hầu hết thời gian trong ngày

  • Tăng cân đáng kể (>5%) hoặc giảm cân hoặc tăng khẩu vị

  • Mất ngủ (thường mất ngủ kiểu tỉnh giấc giữa đêm) hoặc chứng ngủ nhiều

  • Kích động hoặc chậm chạp tâm thần vận động được quan sát bởi người khác của người khác (không phải tự nhận xét)

  • Mệt mỏi hoặc mất năng lượng

  • Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức hoặc không thích hợp

  • Suy giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung hoặc do dự thiếu quyết đính

  • Những suy nghĩ liên tục về cái chết hoặc tự sát, một nỗ lực tự sát, hay một kế hoạch tự sát cụ thể

Các đặc điểm loạn thần thường phổ biến ở trầm cảm lưỡng cực hơn trầm cảm đơn cực.

Các đặc điểm hỗn hợp

Một giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ được xác định là có đặc điểm hỗn hợp nếu  3 triệu chứng trầm cảm có mặt trong hầu hết các ngày của giai đoạn. Tình trạng này thường rất khó chẩn đoán và có thể chuyển sang trạng thái chu kỳ liên tục; sau đó tiên lượng xấu hơn so với ở trạng thái hưng cảm hay hưng cảm nhẹ.

Nguy cơ tự sát trong các giai đoạn hỗn hợp đặc biệt cao.

Tài liệu tham khảo về các dấu hiệu và triệu chứng

1. Plans L, Barrot C, Nieto E, et al: Association between completed suicide and bipolar disorder: A systematic review of the literature. J Affect Disord 242:111-122, 2019 doi: 10.1016/j.jad.2018.08.054

2. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 140-141.

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision criteria

  • Nồng độ thyroxine (T4) và hormone kích thích tuyến giáp (TSH) để sàng lọc bệnh cường giáp

  • Loại trừ lạm dụng chất kích thích trên lâm sàng hoặc bằng sàng lọc độc tính trong máu hoặc trong nước tiểu

  • Các xét nghiệm thường quy trong phòng thí nghiệm (ví dụ: công thức máu, bảng xét nghiệm chuyển hóa cơ bản) để loại trừ các tình trạng bệnh lý chung khác

Chẩn đoán rối loạn lưỡng cực I đòi hỏi phải đáp ứng tiêu chuẩn DSM-5-TR cho giai đoạn hưng cảm như mô tả ở trên, cộng với tiền sử thuyên giảm và tái phát (1). Giai đoạn hưng cảm có thể xảy ra trước hoặc theo sau bởi các giai đoạn hưng cảm nhẹ hoặc trầm cảm nặng.

Chẩn đoán rối loạn lưỡng cực II đòi hỏi phải đáp ứng tiêu chuẩn DSM-5-TR cho ít nhất một giai đoạn hưng cảm nhẹ cũng như ít nhất một giai đoạn trầm cảm nặng [2]). Các triệu chứng phải đủ nặng để làm suy giảm rõ rệt chức năng xã hội hoặc chức năng nghề nghiệp hoặc phải nhập viện để ngăn ngừa tổn hại cho bản thân hoặc người khác.

Một số bệnh nhân có triệu chứng trầm cảm có thể đã có trải nghiệm trước đây hưng cảm nhẹ hoặc hưng cảm nhưng không phản hồi về điều đó, trừ khi họ được đặt câu hỏi cụ thể. Việc đặt câu hỏi khéo léo có thể tiết lộ các dấu hiệu bệnh lý (ví dụ: chi tiêu quá mức, ham muốn tình dục bốc đồng, lạm dụng chất kích thích), mặc dù những thông tin đó có nhiều khả năng được cung cấp bởi người thân hơn. Bảng kê có cấu trúc như Bảng câu hỏi về Rối loạn tâm trạng có thể có ích. Tất cả bệnh nhân phải được hỏi nhẹ nhàng nhưng trực tiếp về ý tưởng tự sát, kế hoạch, hoặc hành vi.

Các triệu chứng hưng cảm cấp tính hoặc hưng cảm nhẹ tương tự có thể xảy ra do lạm dụng chất kích thích, điều trị bằng corticosteroid hoặc thuốc chủ vận dopamine hoặc các bệnh nội khoa nói chung như cường giáp hoặc u tủy thượng thận. Bệnh nhân bị cường giáp thường có các triệu chứng và dấu hiệu thể chất khác, nhưng xét nghiệm chức năng tuyến giáp (T4 và TSH) là một xét nghiệm đánh giá hợp lý cho bệnh nhân mới. Bệnh nhân bị u tế bào ưa crôm có tăng huyết áp từng cơn hoặc kéo dài rõ rệt; nếu không có tăng huyết áp, không có chỉ định xét nghiệm để xác định u tế bào ưa crôm. Các rối loạn khác thường ít gây triệu chứng hưng cảm, nhưng các triệu chứng trầm cảm có thể xảy ra trong một số rối loạn (xem bảng: Một vài nguyên nhân gây trầm cảm và hưng cảm).

Việc xem xét việc sử dụng chất kích thích (đặc biệt là amphetamine và cocaine) và sàng lọc độc tính trong máu hoặc trong nước tiểu có thể giúp xác định những nguyên nhân như vậy. Tuy nhiên, vì việc sử dụng chất kích thích có thể đơn giản là nguyên nhân gây ra một giai đoạn ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực nên việc tìm kiếm bằng chứng về các triệu chứng (hưng cảm hoặc trầm cảm) không liên quan đến việc sử dụng chất kích thích là rất quan trọng.

Một số bệnh nhân bị rối loạn tâm thần phân liệt có các triệu chứng hưng cảm, nhưng những bệnh nhân này có các biểu hiện loạn thần có thể kéo dài ngoài các giai đoạn tâm trạng bất thường.

Bệnh nhân rối loạn lưỡng cực cũng có thể bị rối loạn lo âu (ví dụ, ám ảnh sợ xã hộicác cơn hoảng sợrối loạn ám ảnh nghi thức), có thể gây nhầm lẫn cho chẩn đoán.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 140-151.

2. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 151-160.

  • Thuốc ổn định tâm trạng (ví dụ: lithiummột số loại thuốc chống động kinh), thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai hoặc cả hai

  • Hỗ trợ và trị liệu tâm lý

Điều trị rối loạn lưỡng cực thường có 3 pha:

  • Cấp tính: Để ổn định và kiểm soát biểu hiện ban đầu, đôi khi là những tình trạng nghiêm trọng

  • Tiếp tục: Để đạt được sự thuyên giảm hoàn toàn

  • Duy trì hoặc dự phòng: Giữ bệnh nhân trong trạng thái thuyên giảm

Mặc dù hầu hết các bệnh nhân hưng cảm nhẹ có thể được điều trị như bệnh nhân ngoại trú, nhưng tình trạng hưng cảm nghiêm trọng hoặc trầm cảm thường đòi hỏi quản lý nội trú.

Điều trị bằng thuốc trong rối loạn lưỡng cực

Thuốc điều trị rối loạn lưỡng cực bao gồm

  • Các thuốc chỉnh khí sắc: Lithium và một số loại thuốc chống động kinh, đặc biệt là valproate, carbamazepine và lamotrigine

  • Thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai: Aripiprazole, lurasidone, olanzapine, quetiapine, risperidone, ziprasidone và cariprazine.

Những loại thuốc này được sử dụng riêng lẻ hoặc phối hợp cho tất cả các giai đoạn điều trị, mặc dù ở liều lượng khác nhau (1, 2).

Lựa chọn liệu pháp điều trị bằng thuốc cho rối loạn lưỡng cực có thể khó khăn vì tất cả các loại thuốc đều có tác dụng bất lợi đáng kể, tương tác thuốc là phổ biến và không có loại thuốc nào có hiệu quả phổ biến. Sự lựa chọn nên dựa trên những gì đã có hiệu quả và được dung nạp tốt ở một bệnh nhân nhất định. Nếu bệnh nhân trước đây chưa được dùng thuốc để điều trị rối loạn lưỡng cực (hoặc chưa rõ tiền sử dùng thuốc), sự lựa chọn sẽ dựa trên tiền sử bệnh của bệnh nhân (liên quan đến tác dụng bất lợi của thuốc ổn định tâm trạng cụ thể) và mức độ nặng của các triệu chứng.

Thuốc chống trầm cảm cụ thể (ví dụ, chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc [SSRI]) đôi khi được bổ sung điều trị cho trầm cảm nặng, nhưng hiệu quả của chúng còn tranh cãi; chúng không được khuyến cáo là liệu pháp duy nhất cho các giai đoạn trầm cảm. Truyền Ketamine cũng đã được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị trầm cảm lưỡng cực nặng (3).

Các phương pháp điều trị khác

Liệu pháp sốc điện (ECT) đôi khi được sử dụng để điều trị trầm cảm kháng điều trị và cũng có hiệu quả đối với hưng cảm (4).

Trị liệu ánh sáng có thể hữu ích trong việc điều trị các triệu chứng trầm cảm theo mùa (với trầm cảm mùa thu-đông và hưng cảm xuân-hè) hoặc rối loạn lưỡng cực I hoặc lưỡng cực II không theo mùa. Nó được sử dụng hữu ích nhất như điều trị bổ sung.

Kích thích từ xuyên sọ, đôi khi được sử dụng để điều trị trầm cảm nặng, kháng trị, cũng đã được chứng minh là có hiệu quả trong trầm cảm lưỡng cực (5).

Giáo dục và trị liệu tâm lý

Tận dụng sự ủng hộ của người thân là điều thiết yếu để dự phòng ngăn ngừa những giai đoạn chủ yếu.

Trị liệu nhóm thường được khuyên dùng cho bệnh nhân và bạn đời (bạn tình); ở đó, họ tìm hiểu về rối loạn lưỡng cực, di chứng xã hội của nó, và vai trò trung tâm của thuốc chỉnh khí sắc trong điều trị.

Trị liệu cá nhân có thể giúp bệnh nhân đối phó tốt hơn với các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày và điều chỉnh theo cách mới để tự xác định bản thân.

Bệnh nhân, đặc biệt là những người bị rối loạn lưỡng cực II, có thể không tuân thủ phác đồ điều trị bằng thuốc ổn định tâm trạng vì họ tin rằng những loại thuốc này khiến họ kém tỉnh táo và kém sáng tạo hơn. Bác sĩ có thể giải thích rằng: sự giảm sáng tạo thì không bình thường một cách tương đối nhưng thuốc chỉnh khí sắc thường sẽ đem lại nhiều cơ hội thực hiện hoạt động giữa các cá nhân, học thuật, chuyên môn và nghệ thuật.

Bệnh nhân nên được tư vấn tránh các chất kích thích và rượu, giảm thiểu tình trạng thiếu ngủ và nhận biết sớm các dấu hiệu tái phát.

Nếu bệnh nhân có khuynh hướng tiêu xài tài chính quá mức, tài chính nên được chuyển sang một thành viên đáng tin cậy trong gia đình. Bệnh nhân có khuynh hướng lạm dụng tình dục thì nên được cung cấp thông tin về các hậu quả về hôn nhân (ví dụ ly dị) và nguy cơ nhiễm bệnh lây truyền, đặc biệt là AIDS.

Các nhóm hỗ trợ (ví dụ: Liên minh hỗ trợ trầm cảm và lưỡng cực [DBSA]) có thể giúp đỡ bệnh nhân bằng cách cung cấp một diễn đàn để chia sẻ những trải nghiệm và cảm xúc chung của họ.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Yatham LN, Kennedy SH, et al: Canadian Network for Mood and Anxiety Treatments (CANMAT) and International Society for Bipolar Disorders (ISBD) 2018 guidelines for the management of patients with bipolar disorder. Bipolar Disord 20(2):97-170, 2018 doi: 10.1111/bdi.12609

2. Goodwin GM, Haddad PM, Ferrier IN, et al: Evidence-based guidelines for treating bipolar disorder: Revised third edition recommendations from the British Association for Psychopharmacology. J Psychopharmacol 30(6):495-553, 2016. doi: 10.1177/0269881116636545

3. Wilkowska A, Szałach Ł, Cubała WJ: Ketamine in bipolar disorder: A review. Neuropsychiatr Dis Treat 16:2707-2717, 2020. doi: 10.2147/NDT.S282208

4. Perugi G, Medda P, Toni C, et al: The role of electroconvulsive therapy (ECT) in bipolar disorder: Effectiveness in 522 patients with bipolar depression, mixed-state, mania and catatonic features. Curr Neuropharmacol 15(3):359-371, 2017. doi: 10.2174/1570159X14666161017233642

5. Lefaucheur JP, Aleman A, Baeken C: Evidence-based guidelines on the therapeutic use of repetitive transcranial magnetic stimulation (rTMS): An update (2014-2018). Clin Neurophysiol 131(2):474-528, 2020 doi: 10.1016/j.clinph.2019.11.002. Erratum in: Clin Neurophysiol 131(5):1168-1169, 2020. PMID: 31901449

  • Rối loạn lưỡng cực là một tình trạng có tính chu kỳ bao gồm các giai đoạn hưng cảm có hoặc không có trầm cảm (lưỡng cực I) hoặc hưng cảm nhẹ kèm trầm cảm (lưỡng cực II).

  • Rối loạn lưỡng cực làm giảm một cách rõ rệt chức năng trong công việc và tương tác với xã hội, và nguy cơ tự tử là rất lớn; tuy nhiên, các trạng thái hưng cảm mức độ nhẹ (hưng cảm nhẹ) đôi khi thích nghi bởi vì chúng có thể tạo ra năng lượng cao, tính sáng tạo, sự tự tin, và chức năng xã hội siêu thường.

  • Độ dài và tần suất của chu kỳ thay đổi giữa các bệnh nhân; một số bệnh nhân chỉ có một vài giai đoạn trong suốt cuộc đời, trong khi một số khác lại có  4 giai đoạn/năm (các hình thức chu kỳ nhanh).

  • Chỉ có một vài bệnh nhân thay đổi luân phiên giữa hưng cảm và trầm cảm trong mỗi chu kỳ; trong hầu hết các chu kỳ, một cực thường chiếm ưu thế hơn cực kia.

  • Chẩn đoán dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng, nhưng rối loạn sử dụng chất kích thích và các bệnh nội khoa nói chung (chẳng hạn như cường giáp hoặc u tủy thượng thận) phải được loại trừ bằng khám và xét nghiệm.

  • Điều trị phụ thuộc vào các biểu hiện và mức độ nặng của các triệu chứng đó nhưng thường liên quan đến thuốc ổn định tâm trạng (ví dụ: lithium, valproate, carbamazepine, lamotrigine) và/hoặc thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai (ví dụ: aripiprazole, lurasidone, olanzapine, quetiapine, risperidone, ziprasidone, cariprazine).

Việc lựa chọn thuốc để điều trị rối loạn lưỡng cực có thể khó khăn vì tất cả các loại thuốc đều có thể có tác dụng bất lợi đáng kể, tương tác thuốc là phổ biến và không có loại thuốc nào có hiệu quả chung. Sự lựa chọn nên dựa trên những gì đã có hiệu quả và được dung nạp tốt ở một bệnh nhân nhất định. Nếu không có kinh nghiệm trước đó (hoặc chưa biết), sự lựa chọn sẽ dựa trên bệnh sử của bệnh nhân (liên quan đến tác dụng bất lợi của thuốc ổn định tâm trạng cụ thể) và mức độ nặng của các triệu chứng.

Đối với chứng rối loạn tâm thần hưng cảm nặng, trong đó sự an toàn và xử trí bệnh nhân ngay lập tức bị tổn hại, việc kiểm soát hành vi khẩn cấp thường cần đến thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai có tác dụng an thần, đôi khi được bổ sung ban đầu bằng một loại thuốc benzodiazepine như là lorazepam hoặc clonazepam (xem bảng Các thuốc benzodiazepin).

Đối với giai đoạn cấp tính ít nghiêm trọng hơn, ở những bệnh nhân không có chống chỉ định (ví dụ, các rối loạn về thận), lithium là một lựa chọn tốt cho cả chứng hưng cảm và trầm cảm. Vì khởi phát chậm (4 ngày đến 10 ngày), bệnh nhân có triệu chứng đáng kể cũng có thể được dùng thuốc chống động kinh hoặc thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai.

Đối với trầm cảm lưỡng cực, bằng chứng tốt nhất gợi ý sử dụng quetiapine, cariprazine, lumateperone hoặc lurasidone đơn thuần hoặc phối hợp fluoxetine và olanzapine (1, 2).

Sau khi thuyên giảm, điều trị dự phòng bằng thuốc ổn định tâm trạng được chỉ định cho tất cả bệnh nhân rối loạn lưỡng cực I (lưỡng cực I được xác định bằng sự hiện diện của ít nhất một giai đoạn hưng cảm chính thức). Nếu các đợt tái phát trong khi điều trị duy trì, bác sĩ lâm sàng nên xác định mức độ tuân thủ, và nếu có, việc không thủ đó đi trước hay sau sự tái phát giai đoạn bệnh. Các lý do của sự thiếu tuân thủ nên được tìm để xác định có cần thiết thay đổi thuốc chỉnh khí sắc hay thay đổi liều lượng sẽ làm cho việc điều trị được chấp nhận hơn.

Tài liệu tham khảo về lựa chọn và sử dụng thuốc

1. Bobo WV: The diagnosis and management of bipolar I and II disorders: Clinical practice update. Mayo Clin Proc 92(10):1532-1551, 2017 doi: 10.1016/j.mayocp.2017.06.022

2. Calabrese JR, Durgam S, Satlin A, et al: Efficacy and safety of lumateperone for major depressive episodes associated with bipolar I or bipolar II disorder: A phase 3 randomized placebo-controlled trial. Am J Psychiatry 178(12):1098-1106, 2021. doi: 10.1176/appi.ajp.2021.20091339

Lithium làm giảm sự thay đổi tâm trạng lưỡng cực nhưng không ảnh hưởng đến tâm trạng bình thường. Bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc chứng rối loạn lưỡng cực điển hình có nhiều khả năng đáp ứng với lithium hơn.

Cho dù đang sử dụng lithium hay một thuốc ổn định tâm trạng khác, thì sự đột phá thường xảy ra ở những bệnh nhân có các trạng thái hỗn hợp, các dạng rối loạn lưỡng cực có chu kỳ nhanh (thường được xác định là  4 đợt/năm), lo âu kèm theo, rối loạn sử dụng chất kích thích hoặc bệnh ở thần kinh.

Lithium cacbonat thường được điều chỉnh tăng liều chậm dựa trên nồng độ trong máu, khả năng dung nạp và đáp ứng. Nồng độ duy trì cao hơn có tác dụng bảo vệ chống lại các giai đoạn hưng cảm (nhưng không trầm cảm) nhưng có nhiều tác dụng phụ hơn. Với thanh thiếu niên, nhóm tuổi có chức năng cầu thận tốt, cần liều cao hơn; những bệnh nhân lớn tuổi cần liều lượng thấp hơn.

Lithium có thể gây an thần và suy giảm nhận thức trực tiếp hoặc gián tiếp (do gây suy giáp) và thường làm trầm trọng thêm mụn trứng cá và bệnh vẩy nến. Các tác dụng phụ cấp tính, nhẹ thường gặp nhất là run rẩy, mệt mỏi, buồn nôn, tiêu chảy, đái nhiều, khát nhiều và tăng cân (một phần do uống đồ uống nhiều calo). Những tác dụng này thường thoáng qua và thường đáp ứng với việc giảm liều một chút, chia liều (ví dụ, 3 lần/ngày), hoặc sử dụng các dạng giải phóng chậm. Khi đã xác định được liều dùng, nên cho toàn bộ liều lượng sau bữa ăn tối. Liều dùng một lần mỗi ngày này có thể cải thiện sự tuân thủ và có thể làm giảm độc tính trên thận. Một thuốc chẹn beta (ví dụ, atenolol 25 đến 50 mg đường uống một lần/ngày) có thể kiểm soát được sự run rẩy trầm trọng; tuy nhiên, một số chất chẹn beta (ví dụ, propranolol) có thể làm trầm cảm nặng hơn.

Ngộ độc lithium cấp được biểu hiện ban đầu bởi việc run toàn thân, tăng phản xạ gân sâu, đau đầu kéo dài, nôn ói, và lú lẫn và có thể tiến triển trở nên lờ đờ, co giật và loạn nhịp. Ngộ độc có nhiều khả năng xảy ra trong các hoàn cảnh sau:

  • Bệnh nhân lớn tuổi

  • Bệnh nhân có giảm độ thanh thải creatinin

  • Những người bị mất natri (ví dụ, do sốt, nôn ói, tiêu chảy, hoặc sử dụng thuốc lợi tiểu)

Thuốc lợi tiểu thiazide, thuốc ức chế men chuyển (ACE), và thuốc chống viêm không steroid (NSAID) ngoài aspirin có thể góp phần làm tăng chứng rối loạn nhịp tim. Nên đo nồng độ lithium trong máu 6 tháng một lần và bất cứ khi nào thay đổi liều.

Tác dụng bất lợi lâu dài của lithium bao gồm

  • Cường giáp, đặc biệt là khi có tiền sử gia đình có cường giáp

  • Tăng canxi máu và cường cận giáp

  • Tổn thương thận liên quan tới ống thận xa cái mà xuất hiện sau ≥ 15 năm điều trị bằng lithium

Do đó, nên kiểm tra mức độ TSH khi bắt đầu điều trị bằng lithium và thường niên những năm sau đó nếu có tiền sử gia đình có rối loạn chức năng tuyến giáp, hoặc kiểm tra lại mỗi năm cho tất cả các bệnh nhân khác. Nồng độ cũng nên được đo bất cứ khi nào các triệu chứng gợi ý rối loạn chức năng tuyến giáp (kể cả khi hưng cảm tái phát) vì suy giáp có thể làm mất tác dụng của thuốc ổn định tâm trạng. Urê máu và creatinine nên được đo lúc trước sử dụng, 2 hoặc 3 lần trong vòng 6 tháng đầu, và sau đó một hoặc hai lần một năm. Canxi huyết thanh và hormone tuyến cận giáp nên được đo hàng năm. Liều tích lũy là một yếu tố nguy cơ gây tổn thương thận nên sử dụng liều tối thiểu có hiệu quả để điều trị dự phòng hiệu quả (1,2,3).

Tài liệu tham khảo về lithium

1. Presne C, Fakhouri F, Noël LH, et al: Lithium-induced nephropathy: Rate of progression and prognostic factors. Kidney Int 64 (2):585-592, 2003. doi: 10.1046/j.1523-1755.2003.00096.x

2. Pawar AS, Kattah AG: Lithium-induced nephropathy. N Engl J Med 378 (11):1042, 2018. doi: 10.1056/NEJMicm1709438

3. McKnight RF, Adida M, Stockton S, et al: Lithium toxicity profile: A systematic review and meta-analysis. Lancet 379 (9817):721-728, 2012. doi: 10.1016/S0140-6736(11)61516-X

Thuốc chống co giật có tác dụng ổn định tâm trạng, đặc biệt là valproate và carbamazepine, thường được sử dụng để điều trị hưng cảm cấp tính và các trạng thái hỗn hợp (hưng cảm và trầm cảm). Lamotrigin có hiệu quả đối với khí sắc chu kỳ nhanh và trầm cảm. Cơ chế tác dụng chính xác của thuốc chống co giật trong rối loạn lưỡng cực vẫn chưa được biết rõ nhưng có thể liên quan đến cơ chế axit gamma-aminobutyric và cuối cùng là hệ thống tín hiệu G-protein. Ưu điểm chính của chúng so với lithium bao gồm phổ điều trị rộng hơn và không gây tình trạng ngộ độc thận.

Đối với valproate, liều ban đầu và đường dùng có thể khác nhau nhưng cần điều chỉnh dựa trên nồng độ mục tiêu trong huyết thanh. Phác đồ liều tấn công dựa trên cân nặng có thể giúp cải thiện triệu chứng sớm hơn. Tác dụng ngoại ý bao gồm buồn nôn, đau đầu, yên dịu, chóng mặt, và tăng cân; các tác dụng nghiêm trọng hiếm gặp bao gồm độc gan và viêm tụy.

Không nên dùng tấn công carbamazepine; thuốc này nên được tăng dần để đạt được mức huyết thanh mục tiêu. Tác dụng không mong muốn bao gồm buồn nôn, chóng mặt, yên dịu, và mất thăng bằng. Tác dụng rất nghiêm trọng bao gồm thiếu máu do giảm sinh tủy và mất bạch cầu hạt.

Đối với lamotrigine, liều ban đầu và điều chỉnh tăng liều dần dần thay đổi tùy thuộc vào khả năng tương tác với các thuốc dùng đồng thời. Liều dùng thấp hơn ở bệnh nhân dùng valproat và cao hơn ở những bệnh nhân dùng carbamazepin. Lamotrigin có thể gây nổi ban và cũng có khi gây đe dọa tính mạng như Hội chứng Stevens-Johnson, đặc biệt nếu liều lượng tăng lên nhanh hơn mức khuyến cáo. Trong khi dùng lamotrigin, bệnh nhân nên được khuyến khích phản hồi các phát ban, ban sẩn, sốt, sưng nề tuyến, loét miệng, mắt, sưng môi hoặc lưỡi.

Rối loạn tâm thần hưng cảm cấp tính đang ngày càng được kiểm soát bằng thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai, chẳng hạn như

  • Aripiprazole

  • Cariprazine

  • Lurasidone

  • Olanzapine

  • Quetiapine

  • Risperidon

  • Ziprasidone

Ngoài ra, bằng chứng cho thấy một số loại thuốc này có thể tăng cường tác dụng của thuốc ổn định tâm trạng sau giai đoạn cấp tính (1).

Mặc dù bất kỳ loại thuốc nào trong số này đều có thể có tác dụng bất lợi về ngoại tháp và gây tình trạng bất an, nguy cơ sẽ thấp hơn khi dùng nhiều thuốc an thần hơn như quetiapine và olanzapine. Tác dụng bất lợi ít hơn ngay lập tức bao gồm tăng cân đáng kể và có hội chứng chuyển hóa (bao gồm tăng cân, thừa mỡ bụng, kháng insulin và rối loạn lipid máu); nguy cơ có thể thấp hơn khi dùng thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai ít gây buồn ngủ nhất, lurasidone, ziprasidone và aripiprazole.

Đối với những bệnh nhân loạn thần cực kỳ hiếu động với lượng thức ăn và đồ lỏng nạp vào kém, thuốc chống loạn thần được tiêm bắp cùng với chăm sóc hỗ trợ ngoài lithium hoặc thuốc chống co giật có thể phù hợp.

Tài liệu tham khảo về các thuốc chống loạn thần

1. Bowden CL: Atypical antipsychotic augmentation of mood stabilizer therapy in bipolar disorder. J Clin Psychiatry 66 Suppl 3:12-19, 2005. PMID: 15762830

Thuốc chống trầm cảm cụ thể (ví dụ: thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc [SSRI]) đôi khi được thêm vào cho bệnh trầm cảm nặng, nhưng hiệu quả của các thuốc này còn gây tranh cãi; thuốc này thường không được khuyến nghị làm đơn trị liệu cho các giai đoạn trầm cảm, mặc dù có bằng chứng cho thấy SSRI (cụ thể là sertraline) có thể an toàn và hiệu quả dưới dạng đơn trị liệu trong điều trị trầm cảm lưỡng cực II (1). Một loạt các nghiên cứu nhỏ đã chỉ ra rằng tranylcypromine có thể hiệu quả hơn các loại thuốc chống trầm cảm khác trong điều trị trầm cảm lưỡng cực (2).

Tài liệu tham khảo về thuốc chống trầm cảm

1. Gitlin MJ: Antidepressants in bipolar depression: An enduring controversy. Int J Bipolar Disord 6:25, 2018. doi: 10.1186/s40345-018-0133-9

2. Heijnen WT, De Fruit J, Wiersma AI, et al: Efficacy of tranylcypromine in bipolar depression: A systematic review. J Clin Psychopharmacol 35: 700-705, 2015. doi: 10.1097/JCP.0000000000000409

Lithium sử dụng trong thời kỳ mang thai có liên quan đến tăng nguy cơ dị dạng tim mạch (đặc biệt là dị tật Ebstein). Tuy nhiên, nguy cơ tuyệt đối của dị tật đặc biệt này là khá thấp (1). Dùng lithium trong thời kì mang thai dường như làm tăng nguy cơ tương đối bất thường bẩm sinh khoảng 2 lần, tương tự với tăng gấp 2 đến 3 lần nguy cơ dị tật bẩm sinh liên quan đến việc sử dụng carbamazepin hoặc lamotrigin và thấp hơn đáng kể so với nguy cơ liên quan đến việc sử dụng valproat.

Với valproate, nguy cơ dị tật ống thần kinh và các dị tật bẩm sinh khác dường như cao hơn từ 2 lần đến 7 lần so với các thuốc chống co giật thông thường khác và không nên sử dụng trong thời kỳ mang thai (2). Valproat làm tăng nguy cơ dị tật ống thần kinh, khiếm khuyết tim bẩm sinh, bất thường bộ phận sinh dục, bất thường hệ cơ xương, và sứt môi hoặc hở hàm ếch. Ngoài ra, kết quả về nhận thức (ví dụ: điểm IQ) ở trẻ em của những phụ nữ dùng valproate khi mang thai kém hơn so với những trẻ dùng thuốc chống co giật khác; nguy cơ dường như liên quan đến liều. Valproate dường như cũng làm tăng nguy cơ bị rối loạn tăng động/giảm chú ý và rối loạn phổ tự kỷ (3).

Nghiên cứu sâu rộng về việc sử dụng thuốc chống loạn thần thế hệ thứ nhất và thuốc chống trầm cảm ba vòng trong thời kỳ đầu mang thai chưa cho thấy nguyên nhân đáng lo ngại. Có bằng chứng cho thấy thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai cũng an toàn, ngoại trừ risperidone (4). Nguy cơ gây quái thai dường như thấp đối với các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) (5). Một số nghiên cứu cho thấy có thể có sự gia tăng nhỏ về nguy cơ dị tật tim bẩm sinh tuyệt đối khi sử dụng paroxetine (6), nhưng dữ liệu không nhất quán. Dữ liệu về nguy cơ của thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai đối với thai nhi vẫn còn ít, mặc dù những loại thuốc này đang được sử dụng rộng rãi hơn cho tất cả các giai đoạn của rối loạn lưỡng cực.

Việc sử dụng thuốc (đặc biệt là lithium và SSRI) trước khi sinh có thể có tác dụng sau sinh đối với trẻ sơ sinh.

Các quyết định điều trị rất phức tạp bởi thực tế là với trường hợp mang thai ngoài ý muốn, tác dụng gây quái thai có thể đã xảy ra vào thời điểm các bác sĩ lâm sàng nhận thức được vấn đề. Cần cân nhắc tham vấn với bác sĩ tâm thần chuyên sâu về liên quan đến sinh đẻ. Trong mọi trường hợp, thảo luận về những rủi ro và lợi ích của việc điều trị với bệnh nhân là rất quan trọng. (Xem thêm Thuốc chống trầm cảm khi mang thai.)

Tham khảo thận trọng khi mang thai

1. Fornaro M, Maritan E, Ferranti R, et al: Lithium exposure during pregnancy and the postpartum period: A systematic review and meta-analysis of safety and efficacy outcomes. Am J Psychiatry 177(1):76-92,2020. doi: 10.1176/appi.ajp.2019.19030228

2. Andrade C: Valproate in pregnancy: Recent research and regulatory responses. J Clin Psychiatry 79(3):18f12351, 2018 doi: 10.4088/JCP.18f12351

3. Tomson T, Battino D, Perucca E: Valproic acid after five decades of use in epilepsy: Time to reconsider the indications of a time-honoured drug. Lancet Neurol 15 (2): 210-218, 2016. doi: 10.1016/S1474-4422(15)00314-2

4. Huybrechts KF, Hernandez-Diaz S, Patorno E, et al: Antipsychotic use in pregnancy and the risk for congenital malformations. JAMA Psychiatry 73(9):938-946, 2016. doi: 10.1001/jamapsychiatry.2016.1520

5. Siegfried J, Rea GL: Intrathecal application of drugs for muscle hypertonia. Scand J Rehabil Med Suppl 1988;17:145-148. PMID: 3041564.

6. Bérard A, Iessa N, Chaabane S, et al: The risk of major cardiac malformations associated with paroxetine use during the first trimester of pregnancy: A systematic review and meta-analysis. Br J Clin Pharmacol 81(4):589-604, 2016. doi: 10.1111/bcp.12849

Rối loạn tâm thần chu kỳ được đặc trưng bởi các triệu chứng hưng cảm nhẹ và trầm cảm nhẹ kéo dài vài ngày, diễn ra không đều và ít nghiêm trọng hơn so với các triệu chứng rối loạn lưỡng cực; những giai đoạn triệu chứng này phải xảy ra hơn nửa ngày trong khoảng thời gian  2 năm. Chẩn đoán là lâm sàng và dựa trên tiền sử. Việc quản lý chủ yếu bao gồm giáo dục, mặc dù một số bệnh nhân bị suy giảm chức năng cần dùng thuốc.

Rối loạn khí sắc chu kỳ thường là tiền thân của rối loạn lưỡng cực II. Tuy nhiên, nó cũng có thể xảy ra như là trạng thái phiền muộn mà không trở thành một rối loạn khí sắc chủ yếu.

Trong hưng cảm nhẹ mạn tính, một hình thức hiếm khi thấy trên lâm sàng, các thời kỳ phấn chấn chiếm ưu thế với thói quen ngủ giảm xuống < 6 giờ. Những người có hình thức này thường xuyên hân hoan quá mức, tự tin, nhiều năng lượng, đầy kế hoạch, thiếu dự liệu, hay tham gia, và láu táu; họ vồ vập với các xung động và có thể hành động một cách quá thân thiết với mọi người.

Đối với một số người, khí sắc chu kỳ và hưng cảm nhẹ mạn tính góp phần vào thành công trong kinh doanh, lãnh đạo, thành tích và sáng tạo nghệ thuật; tuy nhiên, chúng thường có các hậu quả nghiêm trọng với tương tác cá nhân và xã hội. Những hậu quả thường bao gồm sự bất ổn công việc và trong học tập, những thay đổi mang tính chất xung động và thường xuyên về nơi cư trú, liên tục chia tay hoặc li dị, và lạm dụng rượu và ma túy.

Chẩn đoán rối loạn tâm thần chu kỳ dựa trên các tiêu chuẩn chẩn đoán sau đây từ Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision, phải tồn tại ít nhất 2 năm (1):

  • Nhiều giai đoạn có triệu chứng hưng cảm nhẹ không đáp ứng tiêu chuẩn của một giai đoạn hưng cảm nhẹ và nhiều giai đoạn có triệu chứng trầm cảm không đáp ứng tiêu chuẩn của một giai đoạn trầm cảm nặng.

  • Các triệu chứng đã xuất hiện ít nhất một nửa thời gian 2 năm và cá nhân đó không phải là không có triệu chứng trong hơn 2 tháng mỗi lần

Ngoài ra, các triệu chứng này không phải do rối loạn tâm thần khác (ví dụ: rối loạn tâm thần phân liệtrối loạn ảo tưởng) hoặc do tác động tâm lý của một chất (ví dụ: rối loạn tâm thần phân liệt) hoặc tình trạng bệnh lý khác (ví dụ: cường giáp)

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 160-163.

  • Chăm sóc hỗ trợ

  • Đôi khi cần một thuốc chỉnh khí sắc

Bệnh nhân nên được dạy làm thế nào để sống cùng với khuynh hướng tính cách của họ; tuy nhiên, sống với rối loạn khí sắc chu kỳ không phải là dễ dàng bởi mối quan hệ giữa các cá nhân thường có nhiều sóng gió. Công việc với giờ linh hoạt được khuyến cáo. Bệnh nhân có khuynh hướng nghệ thuật có lẽ có thể được khuyến khích theo đuổi sự nghiệp trong nghệ thuật bởi vì tính quá mức và dễ tổn thương của người rối loạn khí sắc có thể được dung nạp tốt ở đây.

Quyết định sử dụng thuốc ổn định tâm trạng (ví dụ: lithium; một số loại thuốc chống co giật, đặc biệt là valproate, carbamazepine và lamotrigine) phụ thuộc vào sự cân bằng giữa suy giảm chức năng và lợi ích xã hội hoặc sự bộc phát sáng tạo mà bệnh nhân có thể gặp phải. Divalproex đường uống thường được dung nạp tốt hơn so với liều lithium tương đương.

Cần tránh dùng thuốc chống trầm cảm trừ khi các triệu chứng trầm cảm nặng và kéo dài bởi việc có nguy cơ cao đảo pha và chu kỳ nhanh.

Các nhóm hỗ trợ có thể giúp bệnh nhân bằng cách cung cấp một diễn đàn để chia sẻ kinh nghiệm và cảm xúc chung của họ.

Các rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi buồn trầm trọng hoặc dai dẳng đủ để ảnh hưởng vào hoạt động chức năng và thường là do giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong các hoạt động. Nguyên nhân chính xác không rõ nhưng có thể liên quan đến việc di truyền, thay đổi nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh, chức năng của hormone thần kinh bị thay đổi và các yếu tố tâm lý xã hội. Chẩn đoán dựa trên tiền sử. Điều trị thường bao gồm thuốc, liệu pháp tâm lý hoặc cả hai và đôi khi là liệu pháp điện giật (ECT) hoặc kích thích từ trường xuyên sọ nhanh (rTMS).

Thuật ngữ trầm cảm thường được dùng để chỉ bất kỳ rối loạn trầm cảm nào. Một số được phân loại trong Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (1) theo các triệu chứng cụ thể:

  • Rối loạn trầm cảm chủ yếu (thường được gọi là trầm cảm lớn)

  • Rối loạn trầm cảm dai dẳng (loạn khí sắc)

  • Rối loạn trầm cảm biệt định và không biệt định

Các loại khác được phân loại theo bệnh nguyên:

  • Rối loạn khó chịu tiền kinh nguyệt

  • Rối loạn trầm cảm do một tình trạng bệnh lý khác

  • Rối loạn trầm cảm do chất kích thích/thuốc

Các rối loạn trầm cảm xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng thường xảy ra ở giữa tuổi vị thành niên, 20 tuổi, hoặc 30 tuổi (xem thêm Rối loạn trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên). Ở cơ sở chăm sóc ban đầu, khoảng 13% số bệnh nhân được chẩn đoán trầm cảm (2).

Mất tinh thần và thương tiếc

Thuật ngữ trầm cảm thường được sử dụng để miêu tả giảm khí sắc hoặc nản lòng do những thất vọng (ví dụ tai họa tài chính, thiên tai, bệnh nặng) hoặc những mất mát (ví dụ như cái chết của người thân). Tuy nhiên, các thuật ngữ chuẩn hơn cho những loại khí sắc như vậy là mất tinh thần và sự thương tiếc.

Những cảm giác tiêu cực về sự mất tinh thần và đau buồn, không giống như những người trầm cảm, làm như sau:

  • Xảy ra trong sóng có xu hướng gắn liền với suy nghĩ hoặc nhắc nhở về sự kiện

  • Giải quyết khi hoàn cảnh hoặc sự kiện được cải thiện

  • Có thể xen kẽ với những giai đoạn cảm xúc tích cực

  • Không đi kèm với cảm giác vô dụng và tự ghê tởm

Giảm khí sắc thường kéo dài nhiều ngày hơn là hàng tuần hoặc hàng tháng, và suy nghĩ tự sát và mất chức năng kéo dài thì ít xảy ra hơn.

Tuy nhiên, các sự kiện và căng thẳng gây ra sự mất tinh thần và thương tiếc cũng có thể gây ra một giai đoạn trầm cảm lớn, đặc biệt ở những người dễ bị tổn thương (ví dụ những người có tiền sử hoặc tiền sử gia đình trầm cảm). Ở một số lượng nhỏ nhưng đáng kể bệnh nhân, đau buồn có thể trở nên dai dẳng và tàn phế. Tình trạng này được gọi là rối loạn đau buồn kéo dài và có thể cần điều trị nhắm mục tiêu cụ thể.

Tài liệu tham khảo chung

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 177-214.

2. Jackson JL, Kuriyama A, Bernstein J, et al: Depression in primary care, 2010-2018. Am J Med 135(12):1505-1508, 2022. doi: 10.1016/j.amjmed.2022.06.022

Nguyên nhân chính xác của rối loạn trầm cảm vẫn chưa được biết rõ, nhưng các yếu tố di truyền và môi trường góp phần gây ra rối loạn trầm cảm.

Tính di truyền chiếm khoảng một nửa bệnh nguyên (ít hơn trong trầm cảm khởi phát muộn). Do đó, trầm cảm phổ biến hơn ở những người có quan hệ huyết thống bậc một của bệnh nhân trầm cảm và mức độ phù hợp giữa các cặp song sinh giống hệt nhau là cao (1). Cùng với đó, các yếu tố di truyền có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của phản ứng trầm cảm đối với các sự kiện bất lợi.

Các lý thuyết khác tập trung vào những thay đổi về mức độ dẫn truyền thần kinh, bao gồm điều hòa bất thường của dẫn truyền thần kinh cholinergic, catecholaminergic (noradrenergic hoặc dopaminergic), glutamatergic và serotonergic (5-hydroxytryptamine) (2). Rối loạn điều hòa nội tiết thần kinh có thể là một yếu tố, đặc biệt chú trọng đến 3 trục: vùng dưới đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận, vùng dưới đồi-tuyến yên-tuyến giáp và hormone tăng trưởng vùng dưới đồi-tuyến yên.

Các yếu tố tâm lý xã hội dường như cũng có liên quan. Những căng thẳng lớn trong cuộc sống, đặc biệt là sự chia rẽ và mất chủ yếu, thường đi trước những giai đoạn trầm cảm lớn; tuy nhiên, các sự kiện như vậy thường không gây trầm cảm kéo dài, trầm trọng trừ những người có xu hướng rối loạn khí sắc.

Những người có một giai đoạn trầm cảm lớn có nguy cơ cao hơn của các giai đoạn tiếp theo. Những người ít hồi phục và/hoặc những người có khuynh hướng lo âu có thể sẽ có nguy cơ phát triển chứng rối loạn trầm cảm. Những người như vậy thường không phát triển các kỹ năng xã hội để thích nghi với áp lực cuộc sống. Sự hiện diện của các rối loạn tâm thần khác làm tăng nguy cơ bị rối loạn trầm cảm nặng.

Phụ nữ có nguy cơ cao hơn, nhưng không có lý thuyết giải thích tại sao. Các yếu tố có thể bao gồm:

  • Phơi nhiễm nhiều hơn hoặc đáp ứng mạnh với căng thẳng hàng ngày

  • Nồng độ monoamine oxidase cao hơn (enzym có vai trò làm giảm các chất dẫn truyền thần kinh được coi là quan trọng đối với khí sắc)

  • Tỷ lệ rối loạn chức năng tuyến giáp cao hơn

  • Sự thay đổi nội tiết xảy ra với kinh nguyệt và mãn kinh

Trong trầm cảm khởi phát thời kì sinh nở, các triệu chứng phát triển trong lúc mang thai hoặc trong vòng 4 tuần sau khi sinh (trầm cảm sau sinh); những thay đổi nội tiết đã được chỉ ra là có liên quan, nhưng nguyên nhân cụ thể thì không rõ.

Trong rối loạn cảm xúc theo mùa, các triệu chứng phát triển theo mùa, điển hình là vào mùa thu hoặc mùa đông; rối loạn có xu hướng xảy ra trong khí hậu với mùa đông dài hoặc khắc nghiệt.

Một số nguyên nhân của triệu chứng trầm cảm và hưng cảm*

Loại rối loạn

Trầm cảm

Hưng cảm

Bệnh thấp khớp hệ thống

Lupus ban đỏ hệ thống (SLE)

SLE

Nội tiết

Bệnh Addison

Hội chứng Cushing

Đái tháo đường

Cường cận giáp

Cường giáp

Suy tuyến sinh dục

Thiểu năng tuyến yên

Suy giáp

Cường giáp

Nhiễm trùng

AIDS

Liệt cơ nhẹ lan tỏa (giang mai thần kinh nhu mô)

Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn

Cúm

Bệnh lao (TB)

Viêm gan virus

Viêm phổi do vi rút

AIDS

Liệt cơ nhẹ lan tỏa

Cúm

Viêm não St. Louis

Bệnh lý khối u

Ung thư đầu tụy

Ung thư biểu mô lan tỏa

Thần kinh

Khối u não

Động kinh khởi phát tập trung

Rối loạn sa sút trong giai đoạn đầu

Chấn thương đầu

Đa xơ cứng

Bệnh Parkinson

Chứng ngưng thở lúc ngủ

Đột quỵ (thùy thái dương trái)

Động kinh khởi phát tập trung

U gian não

Chấn thương đầu

Bệnh Huntington

Đa xơ cứng

Đột quỵ

Các triệu chứng hoặc rối loạn trầm cảm có thể đi kèm với nhiều bệnh nội khoa khác nhau, bao gồm rối loạn tuyến giáprối loạn tuyến thượng thậnkhối u não lành tính và ác tính, đột quỵAIDSbệnh Parkinson và bệnh đa xơ cứng (xem bảng Một số nguyên nhân gây ra triệu chứng trầm cảm và hưng cảm).

Một số loại thuốc, chẳng hạn như corticosteroid, một số thuốc chẹn beta, interferon và reserpin, cũng có thể dẫn đến rối loạn trầm cảm. Lạm dụng một số chất kích thích và thuốc bất hợp pháp (ví dụ: rượuamphetamine) có thể dẫn đến hoặc kèm theo trầm cảm. Tác dụng độc hại hoặc ngừng thuốc có thể gây ra các triệu chứng trầm cảm thoáng qua.

Tài liệu tham khảo về căn nguyên

1. Sullivan PF, Neale MC, Kendler KS: Genetic epidemiology of major depression: review and meta-analysis. Am J Psychiatry 2000 Oct;157(10):1552-62. doi: 10.1176/appi.ajp.157.10.155

2. Ghasemi M, Phillips C, Fahimi A, et al: Mechanisms of action and clinical efficacy of NMDA receptor modulators in mood disorders. Neurosci Biobehav Rev 80:555-572, 2017. doi: 10.1016/j.neubiorev.2017.07.002

Trầm cảm gây ra các rối loạn nhận thức, tâm thần vận động và các dạng rối loạn chức năng khác (ví dụ như tập trung kém, mệt mỏi, mất ham muốn tình dục, mất hứng thú hoặc thích thú trong hầu hết các hoạt động trước đây, rối loạn giấc ngủ) cũng như tâm trạng chán nản. Những người bị rối loạn trầm cảm thường có ý nghĩ tự tử và có thể tìm cách tự sát. Các triệu chứng hoặc rối loạn tâm thần khác (ví dụ, các cơn lo âu và hoảng sợ) thường cùng tồn tại, đôi khi làm phức tạp thêm việc chẩn đoán và điều trị.

Bệnh nhân mắc tất cả các dạng trầm cảm có nhiều khả năng lạm dụng rượu hoặc ma túy trái phép để cố gắng tự điều trị chứng rối loạn giấc ngủ hoặc các triệu chứng lo âu; tuy nhiên, trầm cảm là nguyên nhân ít phổ biến hơn gây rối loạn sử dụng rượu và các rối loạn sử dụng chất kích thích khác như người ta từng nghĩ. Bệnh nhân cũng có xu hướng trở thành những người hút thuốc nhiều và bỏ bê sức khỏe, tăng nguy cơ phát triển hoặc tiến triển các rối loạn khác (ví dụ, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính [COPD]).

Trầm cảm có thể làm giảm đáp ứng miễn dịch bảo vệ cơ thể. Trầm cảm làm tăng nguy cơ rối loạn tim mạch, nhồi máu cơ tim (MÍ) và đột quỵ, có thể bởi vì trầm cảm, cytokin và các yếu tố làm tăng đông máu tăng cao và sự biến đổi nhịp tim giảm – tất cả các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn đối với rối loạn tim mạch.

Rối loạn trầm cảm nặng (rối loạn trầm cảm đơn cực)

Bệnh nhân có thể xuất hiện đau khổ, mắt rền rĩ, lông mày lằn rãnh, góc dưới của miệng hạ xuống, tư thế sụp, giao tiếp bằng mắt kém, thiếu biểu hiện trên khuôn mặt, cử động cơ thể ít và thay đổi giọng nói (ví dụ, giọng mềm, thiếu thân tình, sử dụng của từ đơn âm). Vẻ ngoài có thể bị nhầm lẫn với bệnh Parkinson. Ở một số bệnh nhân, khí sắc trầm đến mức nước mắt khô; họ báo cáo rằng họ không thể trải nghiệm cảm xúc thông thường và cảm thấy rằng thế giới đã trở nên thiếu màu sắc và không có sự sống.

Dinh dưỡng có thể bị suy giảm nghiêm trọng, cần can thiệp ngay lập tức.

Một số bệnh nhân trầm cảm không chú ý đến vệ sinh cá nhân hoặc thậm chí con cái họ, những người thân yêu khác, hoặc vật nuôi.

Để chẩn đoán rối loạn trầm cảm nặng,  5 (1) dấu hiệu sau đây phải xuất hiện gần như mỗi ngày trong cùng khoảng thời gian 2 tuần và một trong số đó phải là tâm trạng chán nản, mất hứng thú hoặc khoái cảm:

  • Khí sắc trầm hầu hết trong ngày

  • Giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong tất cả hoặc gần như tất cả các hoạt động trong hầu hết thời gian trong ngày

  • Tăng cân đáng kể (> 5%) hoặc giảm cân hoặc tăng khẩu vị

  • Mất ngủ (thường mất ngủ kiểu tỉnh giấc giữa đêm) hoặc chứng ngủ nhiều

  • Kích động hoặc chậm chạp tâm thần vận động được quan sát bởi người khác của người khác (không phải tự nhận xét)

  • Mệt mỏi hoặc mất năng lượng

  • Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức hoặc không thích hợp

  • Suy giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung hoặc do dự thiếu quyết đính

  • Những suy nghĩ lặp lại về cái chết hoặc tự sát, toan tự sát, hoặc một kế hoạch cụ thể để tự sát

Rối loạn trầm cảm dai dẳng

Triệu chứng trầm cảm kéo dài  2 năm mà không thuyên giảm được phân loại là rối loạn trầm cảm dai dẳng (PDD), một thể loại hợp nhất các chứng rối loạn trước đây gọi là rối loạn trầm cảm điển hình mạn tính và loạn khí sắc.

Triệu chứng thường bắt đầu một cách âm thần trong thời thanh niên và có thể tồn tại trong nhiều năm hoặc nhiều thập niên. Số lượng các triệu chứng thường dao động ở trên và dưới ngưỡng trầm cảm điển hình.

Những bệnh nhân bị ảnh hưởng có thể thường ảm đạm, bi quan, mất hài hước, thụ động, thờ ơ, sống nội tâm, tự phán xét bản thân hoặc người khác quá mức, và phàn nàn. Bệnh nhân bị PDD cũng có nhiều khả năng bị rối loạn lo âu tiềm ẩn, rối loạn sử dụng chất kích thích hoặc rối loạn nhân cách (ví dụ: nhân cách ranh giới).

Để chẩn đoán rối loạn trầm cảm dai dẳng (2), bệnh nhân phải có tâm trạng chán nản hầu hết thời gian trong ngày trong nhiều ngày hơn là không trong  2 năm cộng với  2 trong số các dấu hiệu sau:

  • Chán ăn hoặc ăn quá nhiều

  • Mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều

  • Giảm năng lượng hoặc mệt mỏi

  • Lòng tự trọng thấp

  • Kém tập trung hoặc khó khăn trong việc đưa ra các quyết định

  • Cảm giác tuyệt vọng

Rối loạn khó chịu tiền kinh nguyệt

Rối loạn khó chịu tiền kinh nguyệt liên quan tới các triệu chứng khí sắc và lo âu mà có liên quan rõ ràng đến chu kỳ kinh nguyệt, khởi phát trong giai đoạn tiền kinh nguyệt và khoảng thời gian không triệu chứng sau khi có kinh nguyệt. Triệu chứng phải xuất hiện trong hầu hết các chu kỳ kinh nguyệt trong năm qua.

Các biểu hiện tương tự như các biểu hiện của hội chứng tiền kinh nguyệt nhưng nghiêm trọng hơn, gây ra tình trạng đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng và/hoặc sự suy giảm đáng kể về chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp. Rối loạn có thể bắt đầu bất cứ lúc nào sau khi bắt đầu lần đầu có kinh nguyệt; nó có thể tồi tệ hơn như khi mãn kinh nhưng sẽ chấm dứt sau khi mãn kinh. Tỷ lệ hiện mắc ước tính khoảng 3% đến 8% phụ nữ đang có kinh nguyệt (3).

Để chẩn đoán rối loạn tâm trạng tiền kinh nguyệt (4), bệnh nhân phải có  5 triệu chứng trong tuần trước kỳ kinh. Triệu chứng phải bắt đầu thuyên giảm trong vòng vài ngày sau khi bắt đầu kinh nguyệt và đến mức tối thiểu hoặc biến mất hoàn toàn trong tuần ngay sau khi có kinh nguyệt. Các triệu chứng phải bao gồm ≥ 1 trong những điều sau:

  • Thay đổi khí sắc đáng kể (ví dụ, đột nhiên cảm thấy buồn hoặc khóc)

  • Sự cáu kỉnh hoặc tức giận rõ rệt hoặc gia tăng mâu thuẫn giữa các cá nhân

  • Khí sắc giảm đáng kể, cảm giác tuyệt vọng, hoặc những suy nghĩ tự hối lỗi

  • Ghi nhận sự lo lắng, căng thẳng, hoặc một cảm giác chơi vơi

Ngoài ra, phải có  1 điểm sau:

  • Giảm sự quan tâm trong các hoạt động thông thường

  • Khó tập trung

  • Giảm năng lượng hoặc mệt mỏi

  • Sự thay đổi đáng kể trong cảm giác ngon miệng, ăn quá nhiều hoặc xung động thèm thức ăn cụ thể

  • Ngủ nhiều hoặc mất ngủ

  • Cảm thấy quá tải hoặc không kiểm soát

  • Các triệu chứng cơ thể như tức ngực hoặc sưng, đau khớp hoặc cơ, cảm giác bị phát phì và tăng cân

Rối loạn đau buồn kéo dài

Đau buồn kéo dài là nỗi buồn dai dẳng sau khi mất người thân. Nó khác với trầm cảm ở chỗ nỗi buồn liên quan đến mất mát cụ thể hơn là cảm giác thất bại chung chung liên quan đến trầm cảm. Ngược lại với sự đau buồn thông thường, tình trạng này có thể gây tàn phế nặng và cần có liệu pháp được thiết kế đặc biệt cho chứng rối loạn đau buồn kéo dài.

Để chẩn đoán chứng đau buồn kéo dài, phản ứng đau buồn (điển hình là sự khao khát hoặc khao khát dai dẳng và/hoặc bận tâm đến người đã khuất) kéo dài một năm hoặc lâu hơn và dai dẳng, lan rộng và vượt quá các chuẩn mực văn hóa (5). Tình trạng đó cũng phải kèm theo  3 trong số những điều sau đây trong tháng vừa qua ở mức độ gây đau khổ hoặc tàn tật (5):

  • Cảm giác bị gián đoạn danh tính (ví dụ: cảm giác như thể một phần của bản thân đã chết)

  • Sự hoài nghi rõ rệt về cái chết

  • Tránh nhắc nhở về sự mất mát

  • Nỗi đau tinh thần mãnh liệt (ví dụ: nỗi buồn) liên quan đến cái chết

  • Khó tham gia vào cuộc sống đang diễn ra

  • Tê liệt cảm xúc

  • Cảm giác vô nghĩa

  • Cô đơn dữ dội

Một số công cụ sàng lọc hữu ích bao gồm Thang đánh giá đau buồn phức tạp và Bảng câu hỏi tóm tắt về đau buồn.

Rối loạn trầm cảm khác

Các nhóm triệu chứng có đặc điểm của một rối loạn trầm cảm mà không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn cho các rối loạn trầm cảm khác nhưng gây ra tình trạng khó chịu và suy giảm chức năng đáng kể trên lâm sàng được phân loại như rối loạn trầm cảm khác (biệt định hoặc không biệt định).

Bao gồm những giai đoạn tái diễn với  4 triệu chứng trầm cảm kéo dài < 2 tuần ở những người chưa bao giờ đạt được tiêu chuẩn cho rối loạn khí sắc khác (ví dụ như trầm cảm ngắn tái diễn) và giai đoạn trầm cảm kéo dài nhưng bao gồm các triệu chứng không đủ để chẩn đoán một rối loạn trầm cảm khác.

Các biệt định

Rối loạn trầm cảm nặng và rối loạn trầm cảm dai dẳng có thể bao gồm một hoặc nhiều định danh mô tả các biểu hiện bổ sung trong giai đoạn trầm cảm:

  • Đau khổ lo âu: Bệnh nhân cảm thấy căng thẳng và không thể nghỉ ngơi một cách bất thường; họ khó tập trung bởi vì họ lo lắng hoặc sợ rằng điều khủng khiếp có thể xảy ra, hoặc họ cảm thấy rằng họ có thể mất quyền kiểm soát bản thân họ.

  • Các đặc điểm hỗn hợp: Bệnh nhân cũng có  3 triệu chứng hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ (ví dụ như tăng khí sắc, phóng đại, nói nhiều hơn bình thường, nhiều ý tưởng, ngủ ít). Bệnh nhân có loại trầm cảm này có nhiều nguy cơ tiến triển rối loạn lưỡng cực.

  • U sầu: Bệnh nhân đã mất niềm vui trong hầu hết các hoạt động hoặc không đáp ứng với kích thích thường cảm thấy. Họ có thể chán nản và tuyệt vọng, cảm thấy tội lỗi quá mức hoặc không thích hợp, hoặc thức dậy sớm, chậm chạp tâm thần vận động đáng kể hoặc kích động tâm thần vận động, và chán ăn đáng kể hoặc giảm cân.

  • Không điển hình: Tâm trạng của bệnh nhân tạm thời sáng sủa lên khi phản ứng với các sự kiện tích cực (ví dụ như thăm trẻ em). Họ cũng có  2 trong số những triệu chứng sau đây: phản ứng thái quá đối với những lời phê bình hoặc từ chối, cảm giác nặng như chì (cảm giác nặng nề chủ yếu ở các chi), tăng cân hoặc tăng sự thèm ăn, và ngủ nhiều.

  • Loạn thần: Bệnh nhân có những hoang tưởng và/hoặc ảo giác. Những hoang tưởng thường liên quan đến tội ác hoặc phạm tội không thể tha thứ, những rối loạn không thể chữa được hoặc đáng xấu hổ, hoặc đang bị bức hại. Ảo giác có thể là ảo thính (ví dụ, nghe những lời buộc tội hoặc chỉ trích) hoặc ảo thị. Nếu chỉ được có các giọng nói được mô tả, cần phải cân nhắc cẩn thận xem liệu tiếng nói có phải là ảo giác thực sự hay không.

  • Căng trương lực: Bệnh nhân bị chậm chạp tâm thần vận động mức độ nặng, tham gia vào các hoạt động không chủ đích và/hoặc cách biệt; một số bệnh nhân nhăn nhó và nhại lời (echolalia) hoặc nhại động tác (echopraxia).

  • Khởi phát quanh thời kì sinh nở: Khởi phát trong thời kỳ mang thai hoặc trong 4 tuần sau khi sinh. Các đặc điểm loạn thần có thể hiện diện; giết trẻ sơ sinh thường có liên quan đến các giai đoạn loạn thần liên quan đến ảo giác ra lệnh để giết trẻ sơ sinh hoặc hoang tưởng rằng trẻ sơ sinh bị xâm nhập.

  • Hình thái trầm cảm theo mùa: Các giai đoạn này xảy ra ở một thời điểm cụ thể trong năm, phần lớn thường là mùa thu hoặc mùa đông.

Tài liệu tham khảo về các dấu hiệu và triệu chứng

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 184-193.

2. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 194-198.

3. Halbreich U, Borenstein J, Pearlstein T, et al: The prevalence, impairment, impact, and burden of premenstrual dysphoric disorder (PMS/PMDD). Psychoneuroendocrinology 28 Suppl 3:1-23, 2003 doi: 10.1016/s0306-4530(03)00098-2. PMID: 12892987

4. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 198-201.

5. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 323-328.

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision criteria

  • Công thức máu (CBC), chất điện giải và hormone kích thích tuyến giáp (TSH), vitamin B12 và nồng độ folate để loại trừ các bệnh nội khoa nói chung có thể gây trầm cảm

Chẩn đoán rối loạn trầm cảm dựa trên việc xác định các triệu chứng và dấu hiệu và các tiêu chuẩn lâm sàng được mô tả ở trên. Các câu hỏi đóng cụ thể giúp xác định bệnh nhân có các triệu chứng theo yêu cầu của tiêu chuẩn DSM-5 để chẩn đoán trầm cảm điển hình. Để giúp phân biệt rối loạn trầm cảm với những biến đổi về khí sắc bình thường, phải có sự đau khổ hoặc suy giảm đáng kể trong các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực hoạt động quan trọng khác.

Mức độ nặng được xác định bởi mức độ đau và tàn tật (thể chất, xã hội, nghề nghiệp) và theo thời gian triệu chứng. Bác sĩ nên hỏi bệnh nhân một cách nhẹ nhàng nhưng trực tiếp về bất kỳ suy nghĩ và kế hoạch làm hại bản thân hoặc người khác về bất kỳ mối đe dọa và/hoặc toan tự sát nào trước đây. Loạn thần và căng trương lực gợi ý tình trạng trầm cảm nặng. Hội chứng u sầu cho thấy trầm cảm nặng. Đồng diễn các vấn đề thể chất, rối loạn sử dụng chất gây nghiện, và rối loạn lo âu có thể làm tăng mức độ nghiêm trọng.

Chẩn đoán phân biệt

Các rối loạn trầm cảm cần được phân biệt với sự mất tinh thần và tiếc thương. Các rối loạn tâm thần khác (ví dụ: rối loạn lo âu) có thể giống hoặc che khuất chẩn đoán trầm cảm. Đôi khi có nhiều hơn một rối loạn cùng hiện diện. Trầm cảm điển hình (rối loạn đơn cực) phải được phân biệt với rối loạn lưỡng cực.

Ở những bệnh nhân cao tuổi, trầm cảm có thể biểu hiện dưới dạng sa sút trí tuệ do trầm cảm (trước đây gọi là sa sút trí tuệ giả), gây ra nhiều triệu chứng và dấu hiệu của sa sút trí tuệ, chẳng hạn như chậm phát triển tâm thần vận động và giảm khả năng tập trung. Tuy nhiên, chứng sa sút trí tuệ sớm có thể gây trầm cảm. Nói chung, khi chẩn đoán là không chắc chắn, nên điều trị rối loạn trầm cảm.

Việc phân biệt các rối loạn trầm cảm kéo dài với rối loạn do rối loạn sử dụng chất gây nghiện, như chứng loạn khí sắc, có thể rất khó khăn, đặc biệt bởi vì chúng có thể cùng tồn tại và có thể làm nặng thêm tình trạng của nhau.

Các bệnh nội khoa nói chung cũng phải được loại trừ như là nguyên nhân gây ra các triệu chứng trầm cảm. Nhược giáp thường gây ra các triệu chứng trầm cảm và là phổ biến, đặc biệt là ở người cao tuổi. Cụ thể là, bệnh Parkinson, có thể biểu hiện với các triệu chứng giống triệu chứng trầm cảm (ví dụ mất năng lượng, thiếu biểu lộ, ít vận động). Khám thần kinh cần thực hiện kĩ càng để loại trừ rối loạn này.

Sàng lọc

Có sẵn một số bảng câu hỏi ngắn để sàng lọc trầm cảm. Chúng giúp gợi ra một số triệu chứng trầm cảm nhưng không thể dùng đơn độc để chẩn đoán. Tuy nhiên, nhiều công cụ trong số này hữu ích trong việc xác định những người có nguy cơ cần đánh giá chi tiết hơn. Một số công cụ sàng lọc được sử dụng rộng rãi hơn bao gồm Bảng câu hỏi sức khỏe bệnh nhân 9 (PHQ-9) và Thang đánh giá trầm cảm Beck (BDI).

Xét nghiệm

Không có phát hiện trong phòng thí nghiệm là đặc trưng bệnh của rối loạn trầm cảm. Tuy nhiên, xét nghiệm kiểm tra là cần thiết để loại trừ các tình trạng thể chất có thể gây ra trầm cảm (xem bảng Một số nguyên nhân gây bệnh trầm cảm). Các xét nghiệm bao gồm công thức máu toàn phần, nồng độ hormone kích thích tuyến giáp, và chất điện giải thường quy, vitamin B12 và nồng độ folat ở người cao tuổi testosterone mức độ. Đôi khi việc kiểm tra việc sử dụng ma túy là cần thiết.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, pp 177-214.

  • Hỗ trợ

  • Tâm lý trị liệu

  • M Thuốc, trị liệu đang dùng (Medications)

Các triệu chứng có thể thuyên chuyển tự phát, đặc biệt khi các triệu chứng đo nhẹ hoặc có thời gian ngắn. Trầm cảm nhẹ có thể được điều trị bằng sự hỗ trợ chung và liệu pháp tâm lý. Trầm cảm từ trung bình đến nặng được điều trị bằng thuốc, liệu pháp tâm lý hoặc cả hai và đôi khi là liệu pháp sốc điện hoặc kích thích từ trường xuyên sọ. Một số bệnh nhân cần phối hợp nhiều loại thuốc. Mức cải thiện có thể không rõ ràng cho đến sau 1 tuần đến 4 tuần điều trị bằng thuốc.

Trầm cảm, đặc biệt là ở những bệnh nhân đã từng có > 1 đợt, có khả năng tái phát; do đó, những trường hợp nặng thường phải sử dụng thuốc lâu dài để điều trị duy trì.

Hầu hết những người bị trầm cảm được điều trị như bệnh nhân ngoại trú. Bệnh nhân có ý tưởng tự tử đáng kể, đặc biệt là khi thiếu hỗ trợ gia đình, cần phải nhập viện, cũng như những người có các triệu chứng tâm thần hoặc khiếm khuyết thể chất.

Ở bệnh nhân rối loạn sử dụng chất gây nghiện, các triệu chứng trầm cảm thường có thể giải quyết trong vòng vài tháng ngừng sử dụng chất gây nghiện. Điều trị chống trầm cảm ít có hiệu quả hơn trong khi sử dụng chất gây nghiện vẫn tiếp tục.

Nếu nguyên nhân có thể là do bệnh nội khoa nói chung hoặc ngộ độc thuốc thì việc điều trị trước tiên sẽ hướng vào bệnh nền. Tuy nhiên, nếu chẩn đoán còn nghi ngờ hoặc nếu các triệu chứng gây tàn tật hoặc bao gồm ý tưởng tự tử hoặc vô vọng, thử nghiệm điều trị bằng thuốc chống trầm cảm hoặc thuốc ổn định tâm trạng có thể hữu ích.

Rối loạn đau buồn kéo dài có thể được hưởng lợi từ liệu pháp tâm lý được thiết kế riêng cho rối loạn này (1).

Hỗ trợ ban đầu

Cho đến khi bắt đầu cải tiến rõ ràng, bác sĩ có thể cần phải xem bệnh nhân hàng tuần hoặc hai tuần một lần để hỗ trợ và giáo dục và theo dõi sự tiến triển. Việc gọi điện có thể hữu ích cho việc tái hẹn khám.

Bệnh nhân và người thân có thể lo lắng hoặc xấu hổ khi nghĩ mình mắc bệnh tâm thần. Bác sĩ có thể giúp giải thích rằng trầm cảm là một rối loạn y học nghiêm trọng gây ra bởi rối loạn sinh học và cần điều trị đặc hiệu và tiên lượng điều trị là tốt. Bệnh nhân và người thân cần được trấn an rằng trầm cảm không phải phán ánh một tính cách xấu xa (ví dụ như lười biếng, yếu đuối). Nói với bệnh nhân rằng con đường phục hồi thường dao động, điều này giúp họ nhận ra vô vọng chỉ là quan điểm cá nhân và có thể giúp họ cải thiện sự tuân thủ điều trị.

Khuyến khích bệnh nhân tăng dần các hoạt động đơn giản (ví dụ như đi bộ, tập thể dục thường xuyên) và tương tác xã hội phải được cân bằng với sự thừa nhận mong muốn tránh các hoạt động. Bác sĩ có thể đề nghị bệnh nhân tránh tự đổ lỗi và giải thích rằng những tư tưởng đen tối là một phần của rối loạn và sẽ biến mất.

Tâm lý trị liệu

Nhiều thử nghiệm phân nhóm ngẫu nhiên đã chỉ ra rằng liệu pháp tâm lý, đặc biệt là liệu pháp nhận thức-hành vi và trị liệu giữa các cá nhân, có hiệu quả ở những bệnh nhân rối loạn trầm cảm nặng, vừa điều trị các triệu chứng cấp tính vừa giảm khả năng tái phát (2).. Bệnh nhân trầm cảm nhẹ có xu hướng có kết quả tốt hơn những bệnh nhân trầm cảm nặng hơn, nhưng phổ cải thiện sẽ cao hơn ở những người bị trầm cảm nặng hơn.

Điều trị bằng thuốc cho bệnh trầm cảm

Một số nhóm thuốc có thể được sử dụng để điều trị trầm cảm:

  • Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI)

  • Thuốc điều hòa serotonin (thuốc chẹn 5-HT2)

  • Ức chế tái hấp thu Serotonin-norepinephrine

  • Thuốc ức chế tái hấp thu norepinephrine-dopamine

  • Thuốc chống trầm cảm dị vòng (HCA)

  • Thuốc ức chế monoamin oxidase (MAOI)

  • Thuốc chống trầm cảm Melatonergic

  • Ketamine và esketamine

Việc lựa chọn thuốc có thể được hướng dẫn theo đáp ứng trước đây với một loại thuốc chống trầm cảm cụ thể. Mặt khác, SSRI thường là thuốc được lựa chọn đầu tiên. Mặc dù các SSRI khác nhau đều có hiệu quả như nhau đối với các trường hợp điển hình, nhưng một số đặc tính nhất định khiến thuốc ít nhiều phù hợp với một số bệnh nhân nhất định (xem bảng Thuốc chống trầm cảm).

Liệu pháp trị liệu bằng sốc điện (ECT)

ECT liên quan đến gây cơn co giật bằng điện trong điều kiện được kiểm soát. Cơ chế hoạt động của nó là không chắc chắn nhưng việc tạo ra hoạt động co giật dường như không thể thiếu với tác dụng chống trầm cảm của nó. ECT hiện đại, được thực hiện dưới gây mê toàn thân, thường được dung nạp tốt nhưng tình trạng lú lẫn và suy giảm trí nhớ có thể xảy ra cấp tính. Phần lớn điều này được cải thiện và khỏi sau 6 tháng sau một đợt điều trị ECT, nhưng tình trạng quên ngược chiều có thể tồn tại trong thời gian dài. Điều này đặc biệt đúng đối với những kỷ niệm từ vài tháng trước khi ECT. Những bệnh nhân bị suy giảm nhận thức ở lần khám ban đầu, những người được điều trị động kinh hai bên, những bệnh nhân cao tuổi và những bệnh nhân dùng lithium có nguy cơ cao bị suy giảm trí nhớ và lú lẫn.

Những trường hợp sau đây thường được điều trị bằng ECT nếu thuốc không có hiệu quả:

  • Trầm cảm nặng có tự sát

  • Trầm cảm với sự kích động hoặc chậm phát triển tâm thần

  • Trầm cảm có hoang tưởng

  • Trầm cảm trong thai kỳ

Bệnh nhân chống đối ăn có thể cần ECT để ngăn ngừa tử vong. ECT đặc biệt có hiệu quả đối với trầm cảm loạn thần.

Đáp ứng với 6 lần đến 10 lần điều trị ECT thường rất ấn tượng và có thể cứu sống được (3). Tái phát sau ECT là phổ biến và thuốc thường được duy trì sau khi ngừng ECT.

Liệu pháp ánh sáng

Liệu pháp ánh sáng được biết đến nhiều nhất vì tác dụng đối với trầm cảm theo mùa nhưng dường như cũng có hiệu quả đối với trầm cảm không theo mùa (4).

Có thể điều trị tại nhà bằng một bộ đèn đặc biệt cung cấp 2500 đến 10.000 lux ở khoảng cách 30 đến 60 cm và bệnh nhân ngồi trước mặt trong 30 đến 60 phút/ngày (lâu hơn với nguồn sáng ít cường độ hơn).

Ở những bệnh nhân đi ngủ muộn và dậy muộn vào buổi sáng, liệu pháp ánh sáng có hiệu quả nhất vào buổi sáng, đôi khi được bổ sung thêm 5 đến 10 phút tiếp xúc trong khoảng thời gian từ 3 giờ chiều đến 7 giờ tối. Đối với những bệnh nhân đi ngủ sớm và dậy sớm, liệu pháp ánh sáng có hiệu quả nhất trong khoảng thời gian từ 3 giờ chiều đến 7 giờ tối.

Các liệu pháp khác

Thuốc kích tâm thần (ví dụ, dextroamphetamine, methylphenidate) đôi khi được sử dụng, thường là với thuốc chống trầm cảm. Một số thử nghiệm có đối chứng ủng hộ việc sử dụng các liệu pháp này trong các rối loạn trầm cảm (5).

Thảo dược được sử dụng cho một số bệnh nhân. Cỏ St.John’s có thể có hiệu quả đối với trầm cảm nhẹ, mặc dù dữ liệu là mâu thuẫn. St. John’s wort có thể tương tác với các thuốc chống trầm cảm khác và các loại thuốc khác. Một số thử nghiệm phân nhóm ngẫu nhiên về việc bổ sung omega-3, được sử dụng dưới dạng tăng cường hoặc đơn trị liệu, đã gợi ý rằng axit eicosapentaenoic có tác dụng chống trầm cảm hữu ích (6).

Kích thích thần kinh phế vị liên quan đến việc kích thích dây thần kinh phế vị từng nhịp thông qua một máy phát xung được cấy ghép. Nó có thể hữu ích cho trầm cảm kháng trị so với các phương pháp điều trị khác nhưng thường mất từ 3 đến 6 tháng để có hiệu quả.

Việc sử dụng kích thích từ xuyên sọ lặp đi lặp lại (rTMS) để điều trị giai đoạn cấp tính của rối loạn trầm cảm nặng có sự hỗ trợ đáng kể từ các thử nghiệm phân nhóm ngẫu nhiên (7). rTMS tần số thấp có thể được áp dụng cho vỏ não trước trán bên phải (DLPC) và rTMS tần số cao có thể được áp dụng cho DLPC bên trái. Tác dụng phụ thường gặp nhất là nhức đầu và khó chịu ở da đầu; cả hai xảy ra thường xuyên hơn khi sử dụng tần số cao hơn tần số rTMS tần số thấp.

Kích thích não sâu sử dụng các điện cực cấy ghép nhắm vào các hồi đai gối dưới hoặc bao trong bụng trước/bụng thể vân đã mang lại kết quả đầy hứa hẹn trong một loạt trường hợp không đối chứng (8). Các thử nghiệm phân nhóm ngẫu nhiên đang được tiến hành.

Các nhóm hỗ trợ (ví dụ: Liên minh hỗ trợ trầm cảm và lưỡng cực [DBSA]) có thể giúp đỡ bệnh nhân bằng cách cung cấp một diễn đàn để chia sẻ những trải nghiệm và cảm xúc chung của họ.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Rosner R, Bartl H, Pfoh G, et al: Efficacy of an integrative CBT for prolonged grief disorder: A long-term follow-up. J Affect Disord. 183:106-112, 2015 doi: 10.1016/j.jad.2015.04.051

2. Cuijpers P, Karyotaki E, Weitz E, et al: The effects of psychotherapies for major depression in adults on remission, recovery and improvement: A meta-analysis. J Affect Disord 159:118-126, 2014. doi: 10.1016/j.jad.2014.02.026

3. Jaffe R: The practice of electroconvulsive therapy: Recommendations for treatment, training, and privileging: A Task Force Report of the American Psychiatric Association, 2nd ed. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2023.

4. Dong C, Shi H, Liu P, et al: A critical overview of systematic reviews and meta-analyses of light therapy for non-seasonal depression. Psychiatry Res. 314:114686, 2022 doi: 10.1016/j.psychres.2022.114686

5. McIntyre RS, Lee y, Zhou AJ, et al: The efficacy of psychostimulants in major depressive episodes: A systematic review and meta-analysis. J Clin Psychopharmacol 37(4):412-418, 2017. doi: 10.1097/JCP.0000000000000723

6. Bazinet RP, Metherel AH, Chen CT, et al: Brain eicosapentaenoic acid metabolism as a lead for novel therapeutics in major depression. Brain Behav Immun 85:21-28, 2020 doi: 10.1016/j.bbi.2019.07.001

7. Berlim MT, van den Eynde F, Tovar-Perdomo S, et al: Response, remission and drop-out rates following high-frequency repetitive transcranial magnetic stimulation (rTMS) for treating major depression: A systematic review and meta-analysis of randomized, double-blind and sham-controlled trials. Psychol Med 44(2):225-239, 2014. doi: 10.1017/S0033291713000512

8. Bergfeld IO, Mantione M, Hoogendoorn MLC, et al: Deep brain stimulation of the ventral anterior limb of the internal capsule for treatment-resistant depression: A randomized clinical trial. JAMA Psychiatry 73(5):456-64, 2016 doi: 10.1001/jamapsychiatry.2016.0152

  • Trầm cảm là một rối loạn thường gặp liên quan đến khí sắc trầm và/hoặc gần như hoàn toàn mất quan tâm hoặc thích thú trong các hoạt động mà trước đây được thích; các biểu hiện cơ thể (ví dụ, thay đổi cân nặng, rối loạn giấc ngủ) và các biểu hiện nhận thức (ví dụ, khó tập trung) là phổ biến.

  • Trầm cảm có thể làm giảm đáng kể khả năng làm việc tại nơi làm việc và tương tác xã hội; nguy cơ tự sát là đáng kể.

  • Đôi khi các triệu chứng trầm cảm là do các bệnh nội khoa nói chung (ví dụ: bệnh tuyến giáp hoặc bệnh tuyến thượng thận, khối u não lành tính hoặc ác tính, đột quỵ, AIDS, bệnh Parkinson, bệnh đa xơ cứng) hoặc sử dụng một số loại thuốc (ví dụ: corticosteroid, một số thuốc chẹn beta, interferon, một số loại thuốc phiện bất hợp pháp).

  • Chẩn đoán dựa trên tiêu chuẩn lâm sàng; các bệnh nội khoa nói chung phải được loại trừ bằng đánh giá lâm sàng và xét nghiệm chọn lọc (ví dụ: CBC; nồng độ điện giải, TSH, B12 và folate).

  • Việc điều trị bao gồm liệu pháp tâm lý và thường dùng thuốc; SSRI thường được thử trước tiên và nếu các thuốc này không hiệu quả, có thể thử dùng các loại thuốc khác ảnh hưởng đến serotoninnorepinephrine và/hoặc dopamine.

Một số loại thuốc và thuốc có thể được sử dụng để điều trị trầm cảm:

  • Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI)

  • Thuốc điều hòa serotonin (thuốc chẹn 5-HT2)

  • Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine (SNRI)

  • Thuốc ức chế tái hấp thu norepinephrin-dopamin (NDRI)

  • Thuốc chống trầm cảm dị vòng (HCA)

  • Thuốc ức chế monoamin oxidase (MAOI)

  • Thuốc chống trầm cảm Melatonergic

  • Ketamine và esketamine

Việc lựa chọn thuốc có thể được hướng dẫn theo đáp ứng trước đây với một loại thuốc chống trầm cảm cụ thể. Mặt khác, SSRI thường là thuốc được lựa chọn đầu tiên. Mặc dù các SSRI khác nhau đều có hiệu quả như nhau đối với các trường hợp điển hình, nhưng một số đặc tính nhất định khiến các thuốc này ít nhiều phù hợp với một số bệnh nhân nhất định (xem bảng Thuốc chống trầm cảm và Rối loạn trầm cảm: điều trị).

Bệnh nhân và người thân của họ nên được cảnh báo rằng một vài bệnh nhân có thể có vẻ kích động, chán nản và lo âu trong vòng một tuần sau khi bắt đầu dùng thuốc chống trầm cảm hoặc tăng liều; các triệu chứng xấu đi khi điều trị nên được báo cáo với bác sĩ. Tình trạng này cần được theo dõi chặt chẽ vì một số bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên, ngày càng có xu hướng tự tử nếu tình trạng kích động, trầm cảm, lo âu gia tăng không được phát hiện và điều trị nhanh chóng.

Một số phân tích về cơ sở dữ liệu của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) về các thử nghiệm do ngành tài trợ đã đưa ra cảnh báo rằng thuốc chống trầm cảm nói chung có liên quan đến việc tăng nguy cơ xuất hiện ý nghĩ tự tử và toan tự sát ở bệnh nhân  24 tuổi. Phân tích tiếp theo của FDA và các dữ liệu khác đã nghi ngờ về kết luận này (1).

Bằng chứng cho thấy nguy cơ tự tử không khác nhau giữa các nhóm thuốc chống trầm cảm, bao gồm SSRI, SNRI, thuốc chống trầm cảm ba vòng và MAOI. Bằng chứng là không đủ để xác định về mặt định lượng nguy cơ liên quan đến thuốc chống trầm cảm cụ thể.

Tài liệu tham khảo chung

1. Dragioti E, Solmi M, Favaro A, et al: Association of antidepressant use with adverse health outcomes: A systematic umbrella review. JAMA Psychiatry 76(12):1241-1255, 2019 doi: 10.1001/jamapsychiatry.2019.2859

Những loại thuốc này ngăn ngừa tái hấp thu serotonin (5-hydroxytryptamine [5-HT]). SSRI bao gồm citalopram, escitalopram, fluoxetin, fluvoxamin, paroxetin, sertralin, và vilazodon. Mặc dù các loại thuốc này có cơ chế tác dụng giống nhau nhưng sự khác biệt về đặc tính lâm sàng của các thuốc này khiến việc lựa chọn trở nên quan trọng. Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) có biên độ điều trị rộng; chúng tương đối dễ sử dụng, ít cần điều chỉnh liều (ngoại trừ fluvoxamine).

Bằng cách ngăn ngừa tái hấp thu của 5-HT trước synap, SSRI đưa đến làm tăng nhiều hơn 5-HT để kích thích thụ thể 5-HT hậu synap. SSRI có chọn lọc với hệ thống 5-HT nhưng không đặc hiệu cho các thụ thể 5-HT khác nhau. Các thuốc kích thích thụ thể 5-HT1, có tác dụng chống trầm cảm và giải lo âu, nhưng cũng kích thích thụ thể 5-HT2 thường gây lo âu, mất ngủ, rối loạn chức năng tình dục và các thụ thể 5-HT3 thường gây buồn nôn và nhức đầu. Vì vậy, một cách nghịch lý, SSRI có thể làm giảm và gây lo âu.

Một vài bệnh nhân có thể bị kích động, chán nản và lo âu nhiều hơn trong vòng một tuần kể từ khi bắt đầu SSRI hoặc tăng liều.

Rối loạn chức năng tình dục (đặc biệt là khó đạt cực khoái nhưng cũng giảm ham muốn tình dục và rối loạn chức năng cương dương) xảy ra ở một phần ba hoặc nhiều bệnh nhân. Một số SSRI gây tăng cân. Những người khác, đặc biệt là fluoxetin, có thể gây chán ăn trong vài tháng đầu. Các thuốc SSRI có ít tác dụng kháng cholinergic, kháng adrenergic và dẫn truyền tim. Tác dụng gây ngủ thường ít hoặc không tồn tại, nhưng trong những tuần đầu điều trị, một số bệnh nhân có xu hướng buồn ngủ trong ngày. Phân lỏng hoặc tiêu chảy xảy ra ở một số bệnh nhân.

Tương tác thuốc tương đối ít gặp; tuy nhiên, fluoxetin, paroxetin và fluvoxamin có thể ức chế enzyme cytochrome P-450 (CYP450), có thể dẫn đến các tương tác thuốc nghiêm trọng. Ví dụ: những loại thuốc này có thể ức chế chuyển hóa của một số thuốc chẹn beta, bao gồm propranolol và metoprolol, có khả năng dẫn đến hạ huyết áp và nhịp tim chậm.

Các triệu chứng ngừng thuốc (ví dụ: khó chịu, lo lắng, buồn nôn) có thể xảy ra nếu ngừng thuốc đột ngột; những tác dụng như vậy ít xảy ra hơn với fluoxetine.

Những loại thuốc này chủ yếu ngăn chặn thụ thể 5-HT2 và ức chế tái hấp thu 5-HT và norepinephrine. Các chất điều hòa Serotonin bao gồm

  • Trazodone

  • Mirtazapine

Các chất điều hòa serotonin có tác dụng chống trầm cảm và giải lo âu nhưng không gây rối loạn chức năng tình dục.

Trazodone đã gây ra chứng cương dương kéo dài (1/1000) và, như một thuốc chẹn alpha-1 noradrenergic, có thể gây hạ huyết áp thế đứng (tư thế). Nó có tác dụng an thần rất tốt nên việc sử dụng thuốc ở liều chống trầm cảm (ví dụ: > 200 mg/ngày) bị hạn chế. Thuốc thường được dùng vào giờ đi ngủ cho những bệnh nhân trầm cảm bị mất ngủ.

Mirtazapine là một thuốc đối kháng 5-HT và ngăn chặn các thụ thể tự động alpha-2 adrenergic, cũng như các thụ thể 5-HT2 và 5-HT3. Kết quả là tăng chức năng serotonergic và tăng chức năng noradrenergic mà không có rối loạn chức năng tình dục hoặc buồn nôn. Nó không có tác dụng phụ về tim, có ít tương tác với men gan chuyển hóa thuốc, và nói chung dung nạp tốt, mặc dù nó gây ngủ và tăng cân, tác động bởi H1 (histamine).

Những loại thuốc này (ví dụ: desvenlafaxine, duloxetine, levomilnacipran, venlafaxine, vortioxetine) có cơ chế tác dụng kép 5-HT và norepinephrine, cũng như thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCA).

Tuy nhiên, độc tính của chúng tương đương với các SSRI. Buồn nôn là vấn đề phổ biến nhất trong 2 tuần đầu; tăng mức phụ thuộc liều xảy ra với liều cao. Các triệu chứng ngừng thuốc (ví dụ: khó chịu, lo lắng, buồn nôn) thường xảy ra nếu ngừng thuốc đột ngột.

Duloxetin tương tự như venlafaxin có hiệu quả và tác dụng phụ.

Theo các cơ chế chưa được hiểu rõ ràng, nhóm thuốc này ảnh hưởng tốt đến chức năng dopaminergic và noradrenergic và không ảnh hưởng đến hệ thống 5-HT.

Bupropion hiện đang là thuốc duy nhất trong nhóm này. Nó có thể giúp bệnh nhân trầm cảm với rối loạn tăng động/giảm chú ý hoặc rối loạn sử dụng cocain và những người đang nỗ lực cố gắng để bỏ hút thuốc. Bupropion gây tăng huyết áp ở một số rất ít bệnh nhân nhưng không có tác dụng khác lên hệ thống tim mạch. Bupropion có thể gây co giật ở 0,4% số bệnh nhân dùng liều > 150 mg ba lần mỗi ngày (hoặc > 200 mg phóng thích kéo dài [SR] hai lần mỗi ngày hoặc > 450 mg phóng thích kéo dài [XR] một lần một ngày) (1); nguy cơ tăng lên ở những bệnh nhân mắc chứng cuồng ăn. Bupropion không có tác dụng phụ về tình dục và tương tác ít với thuốc phối hợp, mặc dù nó ức chế men gan CYP2D6. Kích động, vốn là biểu hiện phổ biến, bị giảm đáng kể bằng cách sử dụng dạng SR hoặc XR.

Tham khảo thuốc ức chế tái hấp thu norepinephrine-dopamine

1. Dhillon S, Yang LP, Curran MP: Bupropion: A review of its use in the management of major depressive disorder. Drugs 68(5):653-689, 2008 doi: 10.2165/00003495-200868050-00011. Erratum in: Drugs 68(7):980, 2008.

Nhóm thuốc này, từng là phương pháp điều trị chính, bao gồm thuốc ba vòng (amine bậc ba amitriptyline và imipramine và các chất chuyển hóa amin thứ cấp của thuốc là nortriptyline và desipramine), thuốc chống trầm cảm ba vòng và bốn vòng biến đổi.

Các thuốc chống trầm cảm dị vòng có thể tăng norepinephrin nhanh và ở một mức độ nào đó cả 5-HT bằng việc chặn tái hấp thu ở khe synap. Sử dụng kéo dài làm giảm điều chỉnh thụ thể alpha-1 màng sau synap – một con đường chung cuối cùng có thể có của hoạt tính chống trầm cảm của chúng.

Mặc dù có hiệu quả nhưng những loại thuốc này hiện nay hiếm khi được sử dụng vì quá liều gây độc tính và có nhiều tác dụng bất lợi hơn các thuốc chống trầm cảm khác. Các tác dụng phụ thường gặp hơn của dị vòng là do sự ức chế muscarinic, ngăn chặn histamin, và các hoạt động adrenolytic alpha-1. Nhiều dị vòng có đặc tính kháng cholinergic mạnh và do đó không phù hợp với người già và đối với bệnh nhân phì đại tuyến tiền liệt lành tínhtăng nhãn áp, hoặc táo bón mạn tính. Tất cả các dị vòng, đặc biệt là maprotilin và clomipramin, làm giảm ngưỡng cho cơn co giật.

Những loại thuốc này ức chế quá trình khử amin oxy hóa của 3 loại amin sinh học (norepinephrinedopamine, 5-HT) và các phenylethylamine khác.

Giá trị chính của các loại thuốc này là điều trị trầm cảm kháng trị hoặc trầm cảm không điển hình khi các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI), thuốc chống trầm cảm ba vòng và đôi khi thậm chí cả liệu pháp sốc điện (ECT) không hiệu quả.

Các chất ức chế monoamine oxidase (MAOI) được bán trên thị trường dưới dạng thuốc chống trầm cảm ở Hoa Kỳ (ví dụ: phenelzine, tranylcypromine, isocarboxazid) là không thể đảo ngược và không chọn lọc (ức chế MAO-A và MAO-B). Một loại MAOI khác (selegilin), ức chế chỉ MAO-B ở liều thấp, có sẵn ở dạng miếng dán.

Cơn tăng huyết áp có thể xảy ra nếu MAOI ức chế MAO-A và MAO-B được dùng đồng thời với thuốc kích thích giao cảm hoặc thực phẩm có chứa tyramine hoặc dopamine. Hiệu ứng này được gọi là phản ứng phô mát vì pho mát chín có hàm lượng cao tyramin. MAOI được sử dụng không thường xuyên vì lo lắng về phản ứng này. Liều thấp hơn của miếng selegilin được xem là an toàn khi sử dụng mà không có những hạn chế về chế độ ăn uống cụ thể, trừ khi liều lượng phải cao hơn mức khởi đầu (miếng dán 6 mg). Các MAOI chọn lọc và có thể đảo ngược hơn (ví dụ: moclobemide, befloxatone), có tác dụng ức chế MAO-A, tương đối không có các tương tác này nhưng không có sẵn ở Hoa Kỳ.

Để ngăn ngừa tăng huyết áp và sốt cao, bệnh nhân dùng MAOI nên tránh các thuốc kích thích giao cảm (ví dụ: pseudoephedrine), dextromethorphan, reserpine và meperidine cũng như bia mạch nha, rượu vang Chianti, rượu sherry, rượu mùi, và thực phẩm quá chín hoặc để lâu có chứa tyramine hoặc dopamine (ví dụ: đậu fava hoặc đậu rộng, chiết xuất từ men, quả sung đóng hộp, nho khô, sữa chua, pho mát, kem chua, nước tương, cá trích ngâm, trứng cá muối, gan, vỏ chuối, thịt được làm mềm kỹ).

Các tác dụng phụ thường gặp của MAOI gồm rối loạn cương dương (ít gặp nhất với tranylcypromin), lo âu, buồn nôn, chóng mặt, mất ngủ, phù phổi và tăng cân.

Không nên dùng MAOI cùng với các loại thuốc chống trầm cảm khác, và nên dừng ít nhất 2 tuần (5 tuần với fluoxetin, thuốc có thời gian bán hủy dài) giữa việc sử dụng 2 loại thuốc. MAOI được sử dụng với thuốc chống trầm cảm ảnh hưởng đến hệ thống 5-HT (ví dụ, SSRI) có thể gây ra hội chứng serotonin (một tình trạng có thể đe dọa tính mạng, theo đó bệnh nhân có thể biểu hiện thay đổi trạng thái tâm thần, tăng thân nhiệt, và tăng động thần kinh tự chủ và thần kinh cơ).

Những bệnh nhân đang dùng MAOI và cũng cần dùng thuốc chống hen hoặc chống dị ứng, gây tê cục bộ hoặc gây mê toàn thân nên được bác sĩ chuyên khoa tâm thần kết hợp với bác sĩ nội khoa, nha sĩ hoặc bác sĩ gây mê có chuyên môn về tâm thần kinh điều trị.

Agomelatine là thuốc chủ vận melatonergic (MT1/MT2) và chất đối kháng thụ thể 5-HT2C được dùng trước khi đi ngủ. Nó được sử dụng cho các giai đoạn trầm cảm chủ yếu.

Agomelatin ít có tác dụng phụ hơn hầu hết các thuốc chống trầm cảm và không gây buồn ngủ ban ngày, mất ngủ, tăng cân, rối loạn chức năng tình dục. Nó không gây nghiện và không gây triệu chứng cai nghiện. Nó có thể gây đau đầu, buồn nôn và tiêu chảy. Nó cũng có thể làm tăng men gan, và các men này phải được đo trước khi bắt đầu điều trị và sau mỗi 6 tuần. Không dùng cho bệnh nhân suy gan.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng liều ketamine dưới gây mê, thay vì gây mê, thường có thể giải quyết nhanh chóng, đặc biệt là trong thời gian ngắn, các triệu chứng trầm cảm ở những bệnh nhân mắc chứng rối loạn trầm cảm nặng kháng trị (1). Isome quang s của ketamine, esketamine, cũng có sẵn để sử dụng cho quần thể này (2).

Cơ chế tác dụng được cho là của ketamine dưới mức gây mê được đặc biệt quan tâm vì việc này không chủ yếu liên quan đến tác dụng ở các thụ thể monoamine, như trường hợp của hầu hết các thuốc chống trầm cảm khác hiện được phê duyệt. Thay vào đó, các hiệu ứng được cho là bắt đầu bằng việc phong tỏa axit N-methyl-D-aspartic (NMDA) thụ thể giải phóng glutamat. Điều này, đến lượt nó, làm tăng tổng hợp các yếu tố kích thích thần kinh có nguồn gốc từ não (BNF), và thông qua việc kích hoạt cả hai mục tiêu của động vật có vú là rapamycine (mTOR) và axit alpha-amino-3-hydroxy-5-methyl-4-isoxazoleproprionic (AMPA), dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng mật độ cột sống hình cây trong các tế bào hình chóp cụ thể bị ảnh hưởng bởi căng thẳng mạn tính và tăng cortisolemia.

Phần lớn bệnh nhân dùng liều thuốc chống trầm cảm có thể cải thiện triệu chứng trầm cảm trong 3 đến 4 giờ và sau đó, trong hầu hết các trường hợp, sẽ giảm dần trong 1 đến 2 tuần tiếp theo. Nhiều lần điều trị trong vài tuần sẽ kéo dài thời gian cải thiện, nhưng tỷ lệ tái phát cao trong những tháng tiếp theo. Nhiều phòng khám ketamine điều chỉnh khoảng thời gian giữa các lần điều trị, và một số bệnh nhân có thể duy trì sự cải thiện chỉ với các phương pháp điều trị hàng tháng

Tác dụng phụ thường giới hạn trong khoảng thời gian từ 1 đến 2 giờ sau khi dùng và bao gồm dị tật, tăng huyết áp, buồn nôn và nôn. Bởi vì ketamine có khả năng lạm dụng nổi tiếng, nên quản lý tại bệnh viện hoặc bệnh viện.

Ketamine thường được cho dùng theo đường tĩnh mạch trong trường hợp này nhưng cũng có sẵn bằng đường uống hoặc qua đường mũi. Esketamine được cho dùng qua đường mũi.

Bệnh nhân nên được theo dõi trong phòng khám trong 2 giờ sau khi dùng thuốc và được khuyên không nên lái xe cho đến ngày hôm sau. Tăng huyết áp cấp tính có thể cần can thiệp.

Tài liệu tham khảo về Ketamine và esketamine

1. Caddy C, Amit BH, McCloud TL, et al: Ketamine and other glutamate receptor modulators for depression in adults. Cochrane Database Syst Rev 9:CD011612, 2015 doi: 10.1002/14651858.CD011612.pub2. Cập nhật tại: Cochrane Database Syst Rev. 9:CD011612, 2021. PMID: 26395901

2. Singh JB, Fedgchin M, Daly E, et al: Intravenous esketamine in adult treatment-resistant depression: A double-blind, double-randomization, placebo-controlled study. Biol Psychiatry. 80(6):424-431, 2016 doi: 10.1016/j.biopsych.2015.10.018

Việc lựa chọn thuốc có thể được hướng dẫn theo đáp ứng trước đây với một loại thuốc chống trầm cảm cụ thể. Mặt khác, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) thường là loại thuốc được lựa chọn đầu tiên. Mặc dù các SSRI khác nhau đều có hiệu quả như nhau đối với các trường hợp điển hình, nhưng một số đặc tính nhất định khiến thuốc ít nhiều phù hợp với một số bệnh nhân nhất định (xem bảng Thuốc chống trầm cảm).

Nếu một SSRI không có hiệu quả, một SSRI khác có thể được thay thế, hoặc một thuốc chống trầm cảm khác nhóm có thể cân nhắc sử dụng. Tranylcypromine thường có hiệu quả đối với chứng trầm cảm khó chữa trước các thử nghiệm tuần tự của các thuốc chống trầm cảm khác; thuốc này phải được bác sĩ có kinh nghiệm sử dụng thuốc ức chế monoamine oxidase (MAOI) cho dùng. Hỗ trợ tâm lý của bệnh nhân và người thân là đặc biệt quan trọng trong các trường hợp kháng trị.

Mất ngủ, một tác dụng bất lợi thường gặp của SSRI, được kiểm soát bằng cách giảm liều, dùng thuốc vào buổi sáng hoặc thêm một liều thấp trazodone hoặc một thuốc chống trầm cảm an thần khác vào giờ đi ngủ. Cơn buồn nôn ban đầu và phân lỏng thường thuyên giảm, nhưng những cơn đau đầu nhói không phải lúc nào cũng thuyên giảm, đòi hỏi phải thay đổi nhóm thuốc. Một thuốc nhóm SSRI nên được dừng lại nếu nó gây ra kích động. Khi giảm ham muốn tình dục, bất lực, hoặc không thể đạt cực khoái trong quá trình điều trị bằng SSRI, giảm liều hoặc thay đổi sang thuốc điều hòa serotonin hoặc thuốc ức chế tái hấp thu norepinephrindopamine có thể giúp ích.

SSRI có xu hướng hoạt hóa ở bệnh nhân trầm cảm nên được cho vào buổi sáng. Dùng toàn bộ liều thuốc chống trầm cảm dị vòng lúc ngủ thường tránh được tác dụng yên dịu không cần thiết, giảm thiểu tác dụng phụ trong ngày, và cải thiện sự tuân thủ. Thuốc ức chế monoamine oxidase (MAOI) thường được dùng vào buổi sáng và đầu giờ chiều để tránh kích thích quá mức.

Với hầu hết các loại thuốc chống trầm cảm, đáp ứng điều trị thường xuất hiện trong khoảng từ 2 đến 3 tuần (đôi khi sớm nhất là 4 ngày hoặc muộn nhất là 8 tuần). Đối với một giai đoạn đầu tiên của chứng trầm cảm nhẹ hoặc trung bình, thuốc chống trầm cảm nên được cho trong 6 tháng, sau đó giảm dần dần trong vòng 2 tháng. Nếu đợt này nghiêm trọng hoặc tái phát hoặc nếu có nguy cơ tự tử, nên tiếp tục liều lượng gây thuyên giảm hoàn toàn làm liều duy trì.

Thuốc chống trầm cảm

Loại thuốc

Thuốc cụ thể

Các biện pháp phòng ngừa đã chọn*

Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI)

Gây triệu chứng dừng thuốc† nếu ngừng đột ngột (ít có khả năng hơn với fluoxetin)

Citalopram

Khả năng tương tác thuốc thấp hơn bởi vì ít có tác dụng lên isoenzym CYP450

Nguy cơ kéo dài khoảng QT giới hạn liều đến  40 mg/ngày

Escitalopram

Khả năng tương tác thuốc thấp hơn bởi vì ít có tác dụng lên isoenzym CYP450

Fluoxetine

Có thời gian bán hủy dài

Ít có khả năng gây ra các triệu chứng ngừng thuốc†

Thuốc chống trầm cảm duy nhất đã được chứng minh hiệu quả ở trẻ em

Fluvoxamin

Có thể làm tăng đáng kể mức theophyllin, warfarin, và clozapin máu trên lâm sàng

Có nguy cơ tương tác giữa các chất chuyển hóa có hoạt tính của nó và HCA, carbamazepin, thuốc chống loạn thần hoặc loại thuốc chống loạn nhịp tim dạng 1C

Có đặc tính CYP450 tương tự fluoxetin

Paroxetin

Có nguy cơ tương tác giữa các chất chuyển hóa có hoạt tính của nó và HCA, carbamazepin, thuốc chống loạn thần hoặc loại thuốc chống loạn nhịp tim dạng 1C

Có đặc tính CYP450 tương tự fluoxetin

Trong SSRI, có thể gây tăng cân nhiều nhất

Sertraline

Trong số các SSRI, tỷ lệ bị tiêu chảy cao nhất

Vilazodon

Có thể làm tăng nguy cơ bị chảy máu nếu dùng chung với aspirin, NSAID khác hoặc các thuốc khác ảnh hưởng đến đông máu

Không nên dừng đột ngột; giảm dần liều

Thuốc điều hòa serotonin (thuốc chẹn 5-HT2)

Gây triệu chứng ngừng thuốc† nếu ngưng đột ngột

Mirtazapine

Gây tăng cân và yên dịu

Có ít tác dụng bất lợi về tình dục hơn SSRI và SNRI

Đối với trầm cảm loạn thần, phối hợp giữa thuốc chống trầm cảm và thuốc chống loạn thần sẽ hiệu quả hơn so với chỉ dùng đơn lẻ (1). Bệnh nhân đã hồi phục từ trầm cảm loạn thần có nguy cơ tái phát cao hơn những bệnh nhân trầm cảm không có loạn thần, do đó điều trị dự phòng là đặc biệt quan trọng.

Tiếp tục điều trị với thuốc chống trầm cảm từ 6 đến 12 tháng (đến 2 năm ở bệnh nhân > 50) thường là cần thiết để ngăn ngừa tái phát.

Hầu hết các thuốc chống trầm cảm, đặc biệt là SSRI, nên giảm dần (giảm liều khoảng 25%/tuần) thay vì ngừng đột ngột; ngưng thuốc SSRI đột ngột có thể dẫn đến hội chứng ngưng thuốc (buồn nôn, ớn lạnh, đau cơ, chóng mặt, lo âu, dễ cáu, mất ngủ, mệt mỏi). Khả năng và mức độ nghiêm trọng của việc hội chứng cai tương quan ngược với thời gian bán thải của SSRI.

Tham khảo lựa chọn và sử dụng thuốc chống trầm cảm

1. Kruizinga J, Liemburg E, Burger H, et al: Pharmacological treatment for psychotic depression. Cochrane Database Syst Rev12(12):CD004044, 2021 doi: 10.1002/14651858.CD004044.pub5

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)

Rối loạn ám ảnh nghi thức và các rối loạn có liên quan

Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) đặc trưng bởi những suy nghĩ, những thôi thúc hoặc những hình ảnh (ám ảnh) lặp đi lặp lại, dai dẳng, không mong muốn và xâm nhập và/hoặc bởi các hành vi lặp đi lặp lại hoặc hành vi tinh thần lặp đi lặp lại mà bệnh nhân cảm thấy bị thôi thúc phải làm (cưỡng chế, nghi lễ) để thử làm giảm bớt hoặc ngăn chặn sự lo lắng mà những ám ảnh đó gây ra. Chẩn đoán dựa trên tiền sử. Điều trị bao gồm liệu pháp tâm lý (cụ thể là phòng ngừa phơi nhiễm và phản ứng cộng với, trong nhiều trường hợp, liệu pháp nhận thức), liệu pháp dược lý (cụ thể là thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc [SSRI] hoặc clomipramine), hoặc cả hai.

OCD phổ biến hơn một chút ở nữ giới so với nam giới ở tuổi trưởng thành và ảnh hưởng đến khoảng 1% đến 2% dân số tại bất kỳ thời điểm nào (1). Tuổi trung bình khởi phát OCD là từ 19 tuổi đến 20 tuổi, nhưng khoảng 25% số trường hợp bắt đầu khi 14 tuổi (xem Rối loạn ám ảnh cưỡng chế [OCD] và các rối loạn liên quan ở trẻ em và thanh thiếu niên). Có đến 30% người mắc chứng OCD cũng từng hoặc hiện bị rối loạn tic.

Tài liệu tham khảo chung

1. Stein DJ, Costa DLC, Lochner C, et al: Obsessive-compulsive disorder. Nat Rev Dis Primers 5(1):52, 2019. doi: 10.1038/s41572-019-0102-3

Ám ảnh là những suy nghĩ, thôi thúc hoặc hình ảnh tinh thần không mong muốn, có tính xâm nhập, sự hiện diện của các ám ảnh này thường gây ra đau khổ hoặc lo lắng rõ rệt. Các chủ đề nổi bật của nỗi ám ảnh bao gồm tổn hại (ví dụ: sợ làm hại bản thân hoặc người khác), làm sạch hoặc nhiễm bẩn (ví dụ: bệnh nhân có thể bị ám ảnh về việc bị nhiễm bẩn hoặc vi trùng), những suy nghĩ bị cấm đoán hoặc cấm kỵ (ví dụ: ám ảnh hung hăng hoặc tình dục), và nhu cầu đối xứng. Những ám ảnh là những trải nghiệm không thích thú. Do đó, bệnh nhân thường cố gắng phớt lờ và/hoặc ngăn chặn chúng, hoặc cố gắng vô hiệu hóa chúng bằng cách thực hiện một hành vi ép buộc.

Cưỡng chế (thường được gọi là nghi thức) là những hành vi có mục đích, lặp đi lặp lại quá mức mà mọi người cảm thấy họ phải làm để ngăn chặn hoặc giảm bớt lo lắng do những suy nghĩ ám ảnh của họ gây ra hoặc để hóa giải những ám ảnh của họ. Ví dụ:

  • Rửa (ví dụ, rửa tay, tắm vòi sen),

  • Kiểm tra (ví dụ như kiểm tra bếp đã tắt, cửa ra vào đã khóa hay chưa)

  • Đếm (ví dụ, lặp lại hành vi một số lần nhất định)

  • Sắp xếp theo thứ tự (ví dụ, sắp xếp bộ đồ ăn hoặc mặt hàng không gian làm việc theo một thứ tự cụ thể)

Hầu hết các nghi thức, chẳng hạn như rửa tay hoặc kiểm tra ổ khóa, đều có thể quan sát được, nhưng một số nghi thức tinh thần, chẳng hạn như đếm lặp đi lặp lại trong im lặng hoặc lẩm bẩm trong hơi thở, thì không. Thông thường, các nghi thức cưỡng bức phải được thực hiện một cách chính xác theo các quy tắc cứng nhắc. Các nghi thức có thể hoặc không kết nối thực sự với các sự kiện sợ hãi. Khi được kết nối một cách thực tế (ví dụ, tắm vòi sen để tránh bẩn, kiểm tra bếp để tránh hỏa hoạn), nghi thức rõ ràng là quá mức – ví dụ, tắm hàng giờ mỗi ngày hoặc luôn kiểm tra bếp 30 lần trước khi ra khỏi nhà. Trong mọi trường hợp, ám ảnh và/hoặc cưỡng chế phải tốn nhiều thời gian (nghĩa là chúng chiếm 1 tiếng mỗi ngày hoặc thường nhiều hơn) hoặc khiến bệnh nhân đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể; ở mức cực đoan, những ám ảnh và cưỡng chế có thể mất khả năng.

Mức độ thấu hiểu là khác nhau. Hầu hết những người mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) đều nhận ra ở một mức độ nào đó rằng niềm tin ẩn chứa nỗi ám ảnh của họ là không thực tế (ví dụ, họ thực sự sẽ không bị ung thư nếu chạm vào một cái gạt tàn). Tuy nhiên, thỉnh thoảng lại hoàn toàn thiếu sự thấu hiểu (nghĩa là bệnh nhân bị thuyết phục rằng niềm tin nằm dưới sự ám ảnh của họ là đúng và hành vi nghi thức của họ là hợp lý).

Bởi vì những người có rối loạn này sợ sự làm bối rối hoặc sự kỳ thị, họ thường che giấu sự ám ảnh và nghi thức của mình. Thời gian, sự căng thẳng hoặc hoạt động kém đi kèm với những ám ảnh và cưỡng chế có thể khiến các mối quan hệ bị gián đoạn và hiệu suất ở trường hoặc nơi làm việc giảm sút.

Nhiều người mắc chứng OCD có các rối loạn tâm lý trong quá khứ hoặc hiện tại cùng tồn tại, bao gồm

  • Các rối loạn lo âu (76%) (1)

  • Rối loạn tâm trạng (63%; phổ biến nhất là rối loạn trầm cảm trầm trọng [41%] (2))

  • Rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (23% đến 32%) (3)

Gần 50% số người mắc chứng OCD có ý định tự sát vào một thời điểm nào đó và khoảng 10% số người toan tự sát (xem Hành vi tự sát) ) (4, 5). Nguy cơ của một nỗ lực tăng lên nếu người ta cũng có rối loạn trầm cảm chủ yếu.

Tài liệu tham khảo về các dấu hiệu và triệu chứng

1. Pallanti S, Grassi G, Sarrecchia ED, et al: Obsessive-compulsive disorder comorbidity: Clinical assessment and therapeutic implications. Front Psychiatry 21;2:70, 2011. doi: 10.3389/fpsyt.2011.00070

2. Ruscio AM, Stein DJ, Chiu WT, et al: The epidemiology of obsessive-compulsive disorder in the National Comorbidity Survey Replication. Mol Psychiatry 15(1):53-63, 2010. doi: 10.1038/mp.2008.94

3. Coles ME, Pinto A,  Mancebo MC, et al: OCD with comorbid OCPD: A subtype of OCD? J Psychiatr Res 42(4):289-296, 2008. doi: 10.1016/j.jpsychires.2006.12.009

4. Pellegrini L, Maietti E, Rucci P, et al: Suicide attempts and suicidal ideation in patients with obsessive-compulsive disorder: A systematic review and meta-analysis. J Affect Disord 276:1001-1021, 2020. doi: 10.1016/j.jad.2020.07.115

5. American Psychiatric AssociationDiagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed. Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022.

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Chẩn đoán lâm sàng, dựa trên sự có mặt của ám ảnh, nghi thức, hoặc cả hai.

Ám ảnh được xác định bởi cả hai yếu tố sau đây:

  • Những suy nghĩ, thôi thúc hoặc hình ảnh lặp đi lặp lại và dai dẳng được trải nghiệm, vào một thời điểm nào đó trong quá trình xáo trộn, là xâm nhập và không mong muốn, và ở hầu hết các cá nhân gây ra lo lắng hoặc đau khổ rõ rệt.

  • Cá nhân cố gắng phớt lờ hoặc ngăn chặn những suy nghĩ, thôi thúc hoặc hình ảnh đó hoặc vô hiệu hóa chúng bằng một số suy nghĩ hoặc hành động khác (tức là bằng cách thực hiện một hành động cưỡng chế).

Các hành vi cưỡng chế được xác định bởi cả hai dấu hiệu sau đây:

  • Các hành vi lặp đi lặp lại (ví dụ: rửa tay, ra lệnh, kiểm tra) hoặc các hành vi tinh thần (ví dụ: cầu nguyện, đếm, lặp lại các từ trong im lặng) mà cá nhân cảm thấy bị thôi thúc phải thực hiện để đáp lại nỗi ám ảnh hoặc theo các quy tắc phải được áp dụng một cách cứng nhắc.

  • Các hành vi hoặc hoạt động tinh thần nhằm ngăn ngừa hoặc giảm lo lắng hoặc đau khổ hoặc ngăn chặn một số sự kiện hoặc tình huống đáng sợ; tuy nhiên, những hành vi hoặc hành vi tinh thần này hoặc không được kết nối một cách thực tế với những gì chúng được thiết kế để vô hiệu hóa hoặc ngăn chặn, hoặc rõ ràng là quá mức.

Những ám ảnh hoặc cưỡng chế phải tốn thời gian (ví dụ, > 1 giờ/ngày) hoặc gây ra tình trạng đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể về mặt lâm sàng. Ngoài ra, các tình trạng đó không được quy cho tác dụng sinh lý của một chất (ví dụ: thuốc, thuốc bất hợp pháp) hoặc một tình trạng bệnh khác.

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi (CBT)

  • Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) hoặc clomipramine, cộng với thuốc tăng cường, nếu cần

Liệu pháp hành vi nhận thức, bao gồm liệu pháp tiếp xúc và phòng ngừa nghi thức, đã được chứng minh là có hiệu quả đối với những bệnh nhân mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (1). Yếu tố thiết yếu của liệu pháp phòng ngừa tiếp xúc và nghi lễ là dần dần để bệnh nhân tiếp xúc với các tình huống hoặc những người gây ra những ám ảnh và nghi lễ gây lo lắng trong khi yêu cầu họ không thực hiện các nghi lễ của họ. Ví dụ, một bệnh nhân bị ám ảnh nhiễm bẩn và cưỡng chế rửa có thể được yêu cầu chạm vào một chỗ ngồi trong nhà vệ sinh mà không cần rửa tay. Cách tiếp cận này khiến cho lo lắng do tiếp xúc gây ra giảm bớt thông qua thói quen và học hỏi. Sự cải thiện thường kéo dài nhiều năm, đặc biệt là ở những bệnh nhân đã nắm được cách tiếp cận và sử dụng nó ngay cả sau khi điều trị chính thức kết thúc. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có phản ứng không đầy đủ (cũng như một số bệnh nhân dùng thuốc).

Các kỹ thuật trị liệu nhận thức (ví dụ, tái cấu trúc nhận thức) cũng có thể hữu ích trong việc nhắm mục tiêu vào một số triệu chứng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế.

Một số thuốc chống trầm cảm, bao gồm SSRI và clomipramin (thuốc chống trầm cảm ba vòng có tác động đến serotonergic) thường rất hiệu quả. Bệnh nhân thường cần liều cao hơn so với liều thông thường cần thiết cho trầm cảm và hầu hết các rối loạn lo âu.

Một số bệnh nhân không cải thiện đáng kể với các thử nghiệm đầy đủ về các loại thuốc này có thể được hưởng lợi từ việc tăng cường bằng một loại thuốc như thuốc an thần kinh không điển hình (ví dụ: aripiprazole, risperidone). Bệnh nhân mắc bệnh tic hiện tại hoặc trong quá khứ có thể đáp ứng tốt hơn với việc tăng cường bằng thuốc an thần kinh (2). Tăng cường với một loại thuốc điều biến glutamate (ví dụ, memantine, N-acetylcysteine) cũng đã cho thấy tiềm năng (3). Tuy nhiên, có nhiều dữ liệu hỗ trợ cho các thuốc an thần kinh thông thường như là các thuốc tăng cường SSRI hơn các thuốc khác.

Nhiều chuyên gia tin rằng tốt nhất nên phối hợp phòng ngừa phơi nhiễm và nghi thức với thuốc, đặc biệt đối với những trường hợp nặng.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Öst L-G, Havnen A, Hansen B, et al: Cognitive behavioral treatments of obsessive-compulsive disorder. A systematic review and meta-analysis of studies published 1993-2014. Clin Psychol Rev 40:156-169, 2015. doi: 10.1016/j.cpr.2015.06.003

2. Bloch MH, Landeros-Weisenberger A, Kelmendi B, et al: A systematic review: Antipsychotic augmentation with treatment refractory obsessive-compulsive disorder. Mol Psychiatry11(7):622-632, 2006. doi: 10.1038/sj.mp.4001823

3. Paydary K, Akamaloo A, Ahmadipour A, et al: N-acetylcysteine augmentation therapy for moderate-to-severe obsessive-compulsive disorder: Randomized, double-blind, placebo-controlled trial.  Clin Pharm Ther 41(2):214-219, 2016. doi: 10.1111/jcpt.12370

  • Sự ám ảnh là những suy nghĩ, những hình ảnh xâm nhập, không mong muốn hoặc sự thôi thúc không mong muốn mà thường gây ra sự căng thẳng hoặc lo âu.

  • Các nghi thức là các ép buộc quá mức, lặp đi lặp lại mà người bệnh cảm thấy họ phải làm để giảm bớt lo âu do những ý nghĩ ám ảnh của họ hoặc để làm dịu những nỗi ám ảnh của họ.

  • Những ám ảnh và/hoặc cưỡng chế phải tiêu tốn thời gian (ví dụ, > 1 giờ/ngày, thường nhiều hơn) hoặc khiến bệnh nhân đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể.

  • Điều trị bằng cách dần dần cho bệnh nhân tiếp xúc với các tình huống làm khởi phát những ám ảnh và nghi thức gây ra lo âu, đồng thời yêu cầu họ không thực hiện các hành vi nghi thức. Việc bổ sung các phương pháp tiếp cận nhận thức để phòng ngừa tiếp xúc và ứng phó có thể hữu ích.

  • Cân nhắc kết hợp phòng ngừa phơi nhiễm và nghi thức với thuốc (ví dụ: SSRI hoặc clomipramine), đặc biệt đối với các trường hợp nặng.

Rối loạn mặc cảm ngoại hình đặc trưng bởi mối bận tâm về những khiếm khuyết nhận thức được về ngoại hình không rõ ràng hoặc chỉ xuất hiện nhẹ đối với người khác. Mối bận tâm về ngoại hình phải gây ra đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng hoặc suy giảm chức năng. Bệnh nhân cũng thực hiện lặp đi lặp lại và quá mức các hành vi lặp đi lặp lại (ví dụ: soi gương) để đáp lại mối bận tâm về ngoại hình. Chẩn đoán dựa trên tiền sử. Điều trị bao gồm dùng thuốc (cụ thể là thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc [SSRI] hoặc clomipramine), liệu pháp tâm lý (cụ thể là liệu pháp hành vi nhận thức [CBT]) hoặc cả hai.

Rối loạn dị dạng cơ thể thường bắt đầu ở tuổi vị thành niên và có thể phần nào phổ biến hơn ở phụ nữ. Tại bất kỳ thời điểm nào, khoảng 1,7% đến 2,9% số người mắc chứng rối loạn đó (1).

Tài liệu tham khảo chung

1. Hartmann AS, Buhlmann U: Prevalence and Underrecognition of Body Dysmorphic Disorder. In Body Dysmorphic Disorder: Advances in Research and Clinical Practice, edited by Phillips KA. New York, NY, Oxford University Press, 2017

Triệu chứng có thể phát triển dần dần hoặc đột ngột. Mặc dù cường độ có thể thay đổi, rối loạn thường được xem là mạn tính trừ khi bệnh nhân được điều trị thích hợp.

Mối quan tâm thường liên quan đến khuôn mặt hoặc đầu nhưng có thể liên quan đến bất kỳ bộ phận hoặc bộ phận cơ thể nào và có thể thay đổi từ bộ phận này sang bộ phận khác theo thời gian. Ví dụ, bệnh nhân có thể lo lắng về tóc mỏng, mụn trứng cá, nếp nhăn, sẹo, mạch máu, màu da, hoặc lông mặt hoặc cơ thể quá nhiều. Hoặc họ có thể tập trung vào hình dạng hoặc kích thước của mũi, mắt, tai, miệng, ngực, mông, chân, hoặc một bộ phận cơ thể khác. Đàn ông (và hiếm khi phụ nữ) có thể có một dạng rối loạn gọi là rối loạn dị dạng cơ, liên quan đến sự bận tâm với ý tưởng rằng cơ thể của họ không đủ cơ bắp. Bệnh nhân có thể mô tả các bộ phận cơ thể bản thân không thích là xấu xí, không hấp dẫn, biến dạng, ghê tởm, hoặc kì quái.

Bệnh nhân thường dành nhiều giờ trong ngày để lo lắng về những khiếm khuyết nhận thức được của họ và thường nhầm tưởng rằng mọi người đặc biệt lưu ý hoặc chế nhạo họ vì những khiếm khuyết nhận thức được này. Họ nhìn bản thân mình thường xuyên trong gương, những người khác lại tránh soi gương, và những người khác vẫn luân phiên nhau giữa 2 hành vi.

Các hành vi cưỡng chế phổ biến khác bao gồm so sánh ngoại hình của họ với người khác, chải chuốt quá mức, cấu véo da (để loại bỏ hoặc sửa chữa các khuyết điểm trên da đã nhận biết), kéo hoặc nhổ tóc, tìm kiếm sự trấn an (về các khuyết điểm đã nhận thấy) và thay quần áo. Hầu hết cố gắng ngụy trang các khuyết điểm đó-ví dụ như bằng cách để râu nhằm che vết sẹo hoặc bằng cách đội mũ để giấu mái tóc mỏng. Nhiều người phải trải qua điều trị da liễu, nha khoa, phẫu thuật, hoặc các mỹ phẩm khác để sửa chữa các khuyết điểm cảm nhận của họ, nhưng điều trị như vậy thường không thành công và có thể làm gia tăng mối bận tâm của họ. Những người đàn ông mặc cảm thiếu cơ bắp có thể sử dụng steroid đồng hóa-androgen và các thực phẩm chức năng khác nhau để xây dựng cơ bắp và/hoặc giảm mỡ, điều này có thể gây nguy hiểm.

Bởi vì những người bị chứng rối loạn dị dạng cơ thể có cảm giác tự ý thức về sự xuất hiện của họ, họ có thể tránh ra ngoài nơi công cộng. Đối với hầu hết các khía cạnh về xã hội, nghề nghiệp, học tập và các khía cạnh khác của chức năng thường bị suy giảm – thường là do mối lo lắng của họ về diện mạo bên ngoài. Một số chỉ rời khỏi nhà vào ban đêm; những người khác, không ra ngoài cả ngày. Cô lập xã hội, trầm cảm, nhập viện tâm thần và hành vi tự sát là phổ biến. Trong một số trường hợp rất nặng, rối loạn mặc cảm ngoại hình gây mất khả năng vận động.

Mức độ thấu hiểu khác nhau, nhưng thường là ít hoặc không có sự thấu hiểu. Nghĩa là, hầu hết bệnh nhân thực sự tin rằng phần cơ thể không ưa thích có thể (ít thấu hiểu) hoặc chắc chắn (không có sự thấu hiểu) có vẻ bất thường, xấu xí, hoặc không hấp dẫn.

Trong suốt cuộc đời của họ, khoảng 80% những người bị rối loạn mặc cảm ngoại hình có ý định tự tử và khoảng 1/4 đến gần 30% toan tự sát (xem Hành vi tự sát). Rối loạn dị dạng cơ thể được đặc trưng bởi mức độ tự sát cao hơn đáng kể so với các rối loạn tâm thần khác (1, 2)

Tài liệu tham khảo về các dấu hiệu và triệu chứng

1. Angelakis I,  Gooding PA, Panagioti M: Suicidality in body dysmorphic disorder (BDD): A systematic review with meta-analysis. Psychol Rev 49:55-66, 2016. doi: 10.1016/j.cpr.2016.08.002

2. Snorrason I, Beard C, Christensen K, et al: Body dysmorphic disorder and major depressive episode have comorbidity-independent associations with suicidality in an acute psychiatric setting. J Affect Disord 259:266-270, 2019. doi: 10.1016/j.jad.2019.08.059

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Vì nhiều bệnh nhân quá xấu hổ và hổ thẹn khi bộc lộ các triệu chứng của họ, rối loạn cơ thể này có thể không được chẩn đoán trong nhiều năm. Nó được phân biệt với những mối quan tâm bình thường về diện mạo bởi vì sự bận tâm này làm tốn nhiều thời gian và gây ra những căng thẳng đáng kể, suy giảm chức năng, hoặc cả hai.

Chẩn đoán rối loạn biến đổi cơ thể dựa trên tiền sử. Nếu mối quan tâm duy nhất là hình dạng và trọng lượng cơ thể và hành vi ăn uống là bất thường, rối loạn ăn uống có thể là chẩn đoán chính xác hơn; nếu mối quan tâm duy nhất là sự xuất hiện của các đặc điểm giới tính thể chất, thì chẩn đoán về chứng phiền muộn giới có thể được xem xét.

Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn mặc cảm ngoại hình bao gồm:

  • Mối bận tâm về một hoặc nhiều khiếm khuyết nhận thấy về ngoại hình không thể quan sát được hoặc chỉ xuất hiện nhẹ đối với người khác

  • Thực hiện các hành vi lặp đi lặp lại (ví dụ, soi gương, chải chuốt quá mức) để đối phó với những lo ngại về ngoại hình tại một số thời điểm trong thời gian rối loạn

  • Sự bận tâm gây ra những căng thẳng đáng kể hoặc làm suy giảm các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực chức năng khác

  • Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) hoặc clomipramine cộng với, trong một số trường hợp, thuốc tăng cường

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

SSRI hoặc clomipramine (thuốc chống trầm cảm ba vòng có tác dụng serotonergic mạnh) thường rất hiệu quả ở những bệnh nhân mắc chứng rối loạn dị dạng cơ thể. SSRI thường được ưu tiên hơn clomipramine làm liệu pháp thuốc ban đầu. Bệnh nhân thường cần liều cao hơn so với liều thông thường cần thiết cho trầm cảm và hầu hết các rối loạn lo âu. Mặc dù dữ liệu còn hạn chế, một số bệnh nhân không cải thiện đáng kể với các thử nghiệm đầy đủ về các loại thuốc này có thể được hưởng lợi từ việc bổ sung thuốc tăng cường như thuốc an thần kinh không điển hình (ví dụ: aripiprazole), buspirone hoặc chất điều biến glutamate (ví dụ: N-acetylcysteine hoặc memantine).

Liệu pháp nhận thức-hành vi phù hợp với các triệu chứng cụ thể của rối loạn dị dạng cơ thể là liệu pháp tâm lý được lựa chọn. Các phương pháp tiếp cận nhận thức (ví dụ, tái cấu trúc nhận thức) và phòng ngừa phơi nhiễm và nghi lễ là những yếu tố cần thiết của liệu pháp. Các bác sĩ lâm sàng khuyến khích bệnh nhân dần dần đối mặt với những tình huống mà họ sợ hãi hoặc tránh né (thường là những tình huống xã hội) trong khi hạn chế thực hiện các nghi thức của họ, chẳng hạn như soi gương, chải chuốt quá mức và so sánh ngoại hình của họ với người khác.

Liệu pháp nhận thức-hành vi cũng bao gồm các yếu tố khác như đào tạo lại nhận thức và đào tạo đảo ngược thói quen để cạo da (cào da) hoặc giật tóc hoặc nhổ tóc nếu có. Huấn luyện đảo ngược thói quen bao gồm những điều sau đây:

  • Đào tạo nâng cao nhận thức (ví dụ, tự giám sát, xác định các yếu tố kích hoạt hành vi)

  • Kiểm soát kích thích (sửa đổi các tình huống – ví dụ, tránh các yếu tố khởi phát – để giảm khả năng bắt đầu hành vi)

  • Đào tạo phản ứng cạnh tranh (dạy cho bệnh nhân thay thế các hành vi khác, chẳng hạn như nắm chặt tay, đan hoặc ngồi trên tay, cho hành vi quá mức)

Vì hầu hết bệnh nhân có ít sự thấu hiểu hoặc không có sự thấu hiểu, cần phải phỏng vấn tạo động lực để tăng sự sẵn sàng tham gia và duy trì điều trị.

Nhiều chuyên gia tin rằng phối hợp liệu pháp nhận thức hành vi với thuốc là tốt nhất cho những trường hợp nặng.

Điều trị thẩm mỹ không được khuyến nghị. Nó hầu như luôn không hiệu quả và các bác sĩ lâm sàng cung cấp phương pháp điều trị như vậy có thể có nguy cơ về các hành vi hoặc hành vi đe dọa về mặt pháp lý hoặc thể chất của những bệnh nhân không hài lòng.

  • Bệnh nhân bận tâm với  1 khiếm khuyết nhận thức được về ngoại hình của họ không rõ ràng hoặc chỉ xuất hiện nhẹ đối với người khác.

  • Tại một số thời điểm trong quá trình rối loạn, bệnh nhân phản ứng với những lo lắng về ngoại hình của họ bằng cách thực hiện các hành vi lặp đi lặp lại (ví dụ: soi gương, chải chuốt quá mức).

  • Hầu hết bệnh nhân thực hiện các biện pháp để ngụy trang hoặc loại bỏ khiếm khuyết nhận thức được.

  • Bệnh nhân thường kém hoặc không có tự thị.

  • Điều trị bằng cách sử dụng liệu pháp nhận thức-hành vi được thiết kế riêng cho chứng rối loạn dị dạng cơ thể và/hoặc liệu pháp dược lý với SSRI hoặc clomipramine, thường ở liều tương đối cao.

  • Điều trị thẩm mỹ, hầu như luôn không hiệu quả, nên tránh.

Rối loạn lột da đặc trưng bởi việc tự lột da thường xuyên, dẫn đến tổn thương da.

Bệnh nhân bị rối loạn lột da liên tục cạo hoặc gãi da; việc cạo da không bị kích hoạt bởi các mối lo ngại về ngoại hình hoặc sức khỏe (ví dụ: để loại bỏ một tổn thương mà họ cho là không hấp dẫn hoặc có thể là ung thư). Một số bệnh nhân cấu những vùng da khỏe mạnh; những người khác lại cấu những vùng da có các tổn thương nhẹ như chỗ da bị chai, mụn nhọt, hoặc chỗ da có vảy.

Một số bệnh nhân cấu da của họ phần nào có tính tự động (nghĩa là, không có nhận thức đầy đủ); những người khác thì ý thức hơn về hoạt động này. Việc cấu véo da không bị kích hoạt bởi những ám ảnh hoặc lo lắng về ngoại hình (có thể là một triệu chứng của rối loạn mặc cảm ngoại hình). Tuy nhiên, việc cấu véo da có thể xảy ra trước cảm giác căng thẳng hoặc lo lắng được giải tỏa sau khi cấu véo vào da, thường đi kèm với cảm giác hài lòng.

Rối loạn này thường bắt đầu ở tuổi vị thành niên, mặc dù nó có thể bắt đầu ở các độ tuổi khác nhau. Tại bất kỳ thời điểm nào, khoảng 3% số người mắc chứng rối loạn này. Khoảng 75% trong số đó là nữ (1).

Tài liệu tham khảo chung

1. Farhat LC, Reid M, Bloch MH, et al: Prevalence and gender distribution of excoriation (skin-picking) disorder: A systematic review and meta-analysis. J Psychiatr Res161:412-418, 2023. doi: 10.1016/j.jpsychires.2023.03.034.

Tình trạng cấu véo da thường là mạn tính, với hiện tượng tẩy lông và giảm dần các triệu chứng nếu không được điều trị. Các vị trí cấu da có thể thay đổi theo thời gian. Các đặc điểm của việc cấu da khác nhau giữa các bệnh nhân với bệnh nhân. Một số có nhiều vùng da có sẹo; những người khác chỉ tập trung vào một vài tổn thương. Nhiều bệnh nhân cố gắng ngụy trang các tổn thương da bằng quần áo hoặc đồ trang điểm.

Sự cấu da có thể đi kèm với một loạt các hành vi hoặc nghi thức. Bệnh nhân có thể tìm kiếm một cách kĩ lưỡng những vùng da có vảy cụ thể để cấu; họ có thể cố gắng đảm bảo rằng những vùng da có vảy này được cấu theo cách cụ thể (bằng cách dùng ngón tay hoặc dụng cụ) và có thể cắn hoặc nuốt vảy sau khi nó được cậy ra.

Bệnh nhân bị rối loạn bóc da liên tục cố gắng ngừng cấu véo da hoặc cấu véo da ít thường xuyên hơn, nhưng họ không thể làm như vậy.

Bệnh nhân có thể cảm thấy xấu hổ hoặc hổ thẹn về sự xuất hiện của các vị trí mà da bị cấu đó. Do đó, bệnh nhân có thể tránh được các tình huống xã hội mà người khác có thể nhìn thấy các tổn thương trên da; họ thường không cấu véo da trước mặt người khác, có lẽ là ngoại trừ các thành viên trong gia đình. Bệnh nhân có thể bị suy giảm trong các lĩnh vực hoạt động khác (ví dụ như nghề nghiệp, học tập), chủ yếu vì họ tránh các tình huống xã hội.

Một số bệnh nhân có thể cấu da của người khác. Nhiều người cũng có những hành vi lặp đi lặp lại tập trung vào bộ phận khác, chẳng hạn như nhổ tóc hoặc cắn móng tay.

Nếu nghiêm trọng, việc lột da có thể gây ra sẹo, nhiễm trùng, chảy máu nhiều và thậm chí nhiễm trùng huyết.

Nhiều người bị rối loạn lột da cũng mắc các rối loạn sức khỏe tâm thần khác, chẳng hạn như rối loạn ám ảnh cưỡng chế hoặc rối loạn trầm cảm nặng.

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Để đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán về rối loạn bài tiết, bệnh nhân thường phải

  • Gây tổn thương da do cấu véo da có thể quan sát được (mặc dù một số bệnh nhân cố che dấu tổn thương bằng quần áo hoặc trang điểm)

  • Thực hiện những nỗ lực lặp đi lặp lại để làm giảm hoặc dừng việc cấu véo da

  • Cảm thấy đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể từ hoạt động

Sự đau khổ có thể bao gồm cảm giác xấu hổ hoặc hổ thẹn (ví dụ mất kiểm soát hành vi của mình, hoặc những hậu quả thẩm mỹ của tổn thương da).

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi (thường là đào tạo đảo ngược thói quen)

  • Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) hoặc clomipramine

  • N-acetylcystein hoặc memantine (thuốc điều biến glutamate)

Liệu pháp nhận thức-hành vi được điều chỉnh để điều trị các triệu chứng cụ thể của chứng rối loạn kích thích là liệu pháp tâm lý được lựa chọn. Huấn luyện đảo ngược thói quen, một liệu pháp chủ yếu là hành vi, đã được nghiên cứu chặt chẽ nhất; nó bao gồm những điều sau:

  • Đào tạo nâng cao nhận thức (ví dụ, tự giám sát, xác định các yếu tố kích hoạt hành vi)

  • Kiểm soát kích thích (thay đổi các tình huống – ví dụ, tránh các yếu tố kích thích – để giảm khả năng bắt đầu lựa chọn)

  • Đào tạo phản ứng cạnh tranh (dạy cho bệnh nhân thay thế các hành vi khác, chẳng hạn như nắm chặt tay, đan hoặc ngồi trên tay để cấu véo da)

SSRI hoặc clomipramine có thể hữu ích đối với chứng trầm cảm hoặc rối loạn lo âu cùng tồn tại, và bằng chứng hạn chế cho thấy những loại thuốc này cũng có thể làm giảm tình trạng cạo da (1, 2).

Các thuốc điều biến glutamate N-acetylcystein và memantine dường như giúp giảm mức độ nặng của triệu chứng, nhưng cần có thêm dữ liệu để hỗ trợ tính hiệu quả và an toàn lâu dài của các phương pháp này. Trong các thử nghiệm chọn ngẫu nhiên nhỏ, N-acetylcysteine và memantine giúp giảm các triệu chứng cạo da so với giả dược (3, 4).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Simeon D, Stein DJ, Gross S, et al : A double-blind trial of fluoxetine in pathologic skin picking. J Clin Psychiatry 58(8):341-347, 1997. doi: 10.4088/jcp.v58n0802

2. Bloch MR, Elliott M, Thompson H, et al: Fluoxetine in pathologic skin-picking: open-label and double-blind results. Tâm lý học 42(4):314-319, 2001. doi: 10.1176/appi.psy.42.4.314

3. Grant JE, Chamberlain SR, Redden SA, et alN-Acetylcysteine in the treatment of excoriation disorder: A randomized clinical trial. JAMA Psychiatry 73(5):490-496, 2016 doi: 10.1001/jamapsychiatry.2016.0060

4. Grant JE, Chesivoir E, Valle S, et al: Double-blind placebo-controlled study of memantine in trichotillomania and skin-picking disorder.  Am J Psychiatry 180(5):348-356, 2023. doi: 10.1176/appi.ajp.20220737

  • Trong chứng rối loạn kích thích (kén da), việc hái da không phải do ám ảnh hoặc lo lắng về ngoại hình, có thể xảy ra trước cảm giác căng thẳng hoặc lo lắng được giải tỏa sau khi cấu véo vào da, thường sau đó là cảm giác hài lòng.

  • Bệnh nhân bị rối loạn bóc da cố gắng ngừng cấu véo da hoặc ít thường xuyên hơn, nhưng họ không thể.

  • Rối loạn kích thích gây ra các tổn thương da có thể nhìn thấy.

  • Điều trị bằng cách sử dụng liệu pháp nhận thức-hành vi được điều chỉnh để điều trị các triệu chứng lột da cụ thể (bao gồm đào tạo đảo ngược thói quen) và/hoặc SSRI, clomipramine, N-acetylcysteine hoặc memantine.

Nhổ tóc bệnh lý được đặc trưng bởi việc nhổ tóc tái diễn dẫn đến giảm số lượng tóc trên đầu.

Bệnh nhân mắc chứng nhổ tóc bệnh lý liên tục lặp lại việc kéo tóc hoặc nhổ tóc mà không có lí do về thẩm mĩ. Thông thường, họ kéo tóc từ da đầu, lông mày, và/hoặc mí mắt, nhưng bất kỳ vùng nào có tóc của cơ thể đểu có thể bị nhổ ra. Các vị trí nhổ tóc có thể thay đổi theo thời gian.

Đối với một số bệnh nhân, hoạt động này có phần tự động (nghĩa là không có sự nhận thức đầy đủ); những người khác thì ý thức hơn về hoạt động này. Nhổ tóc không phải do ám ảnh hoặc lo lắng về ngoại hình (như trong rối loạn mặc cảm ngoại hình), có thể xuất hiện trước cảm giác căng thẳng hoặc lo lắng được giải tỏa sau khi nhổ tóc, sau đó thường là cảm giác hài lòng.

Bệnh nhân mắc chứng rối loạn giật tóc cố gắng ngừng nhổ tóc hoặc nhổ ít thường xuyên hơn, nhưng họ không thể làm như vậy.

Nhổ tóc bệnh lý thường bắt đầu ngay trước hoặc sau khi dậy thì. Tại bất kỳ thời điểm nào, tỷ lệ mắc rối loạn này là từ 1 đến 2%. Trong các mẫu lâm sàng, khoảng 80% đến 90% số người trưởng thành mắc thói bứt lông tóc là nữ.

Nhổ tóc thường là mạn tính, với sự dao động của các triệu chứng nếu không được điều trị.

Các đặc điểm về giảm số lượng tóc khác nhau từ bệnh nhân này đến bệnh nhân khác. Một số khu vực có thể hói hoàn toàn hoặc không có lông mi và/hoặc lông mày; những người khác chỉ có mái tóc mỏng đi.

Một loạt các hành vi (nghi thức) có thể đi kèm với nhổ tóc. Bệnh nhân có thể tìm kiếm kỹ lưỡng một loại tóc đặc biệt để nhổ; họ có thể cố gắng đảm bảo rằng tóc được nhổ ra theo một cách cụ thể. Họ có thể quấn tóc giữa các ngón tay của họ, kéo các sợi giữa các răng, hoặc cắn tóc một khi nó được nhổ ra. Nhiều bệnh nhân nuốt tóc. Nuốt phải lông đôi khi gây ra dị vật lông tóc (túm lông bị nuốt bị bó chặt lại không thể thoát ra ngoài đường tiêu hóa), hiếm khi dẫn đến các biến chứng y khoa (ví dụ như tắc nghẽn hoặc thủng dạ dày) và có thể phải phẫu thuật cắt bỏ.

Bệnh nhân có thể cảm thấy xấu hổ hoặc xấu hổ vì ngoại hình của họ hoặc không kiểm soát được hành vi của mình. Nhiều người cố gắng ngụy trang sự mất tóc bằng cách che các khu vực hói (ví dụ, đội tóc giả hoặc khăn quàng cổ). Một số bệnh nhân nhổ tóc rải rác từ nhiều khu vực để che giấu sự mất tóc. Họ có thể tránh những tình huống mà người khác có thể thấy sự mất tóc; thường thì họ không nhổ tóc trước người khác, có lẽ là ngoại trừ các thành viên trong gia đình.

Một số bệnh nhân nhổ tóc từ tóc của người khác hoặc từ vật nuôi hoặc kéo sợi từ các vật liệu dạng sợi (ví dụ như quần áo, chăn).

Hầu hết bệnh nhân cũng có các hành vi lặp đi lặp lại tập trung vào cơ thể, như là cấu da hoặc cắn móng tay. Nhiều người cũng có rối loạn trầm cảm chủ yếu.

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Tiêu chuẩn chẩn đoán cho chứng rối loạn cảm xúc thường bao gồm những điều sau:

  • Rứt bỏ tóc, dẫn đến rụng tóc

  • Những cố gắng lặp đi lặp lại nhiều lần để giảm hoặc dừng việc nhổ tóc

  • Trải qua đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể khỏi việc hoạt động

Mặc dù rụng tóc có nhiều nguyên nhân, nhưng những người mắc thói bứt lông tóc thường tình nguyện cho rằng chứng rụng tóc của họ là do nhổ tóc.

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi (thường là đào tạo đảo ngược thói quen)

  • Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) hoặc clomipramine

  • N-Acetylcystein hoặc memantine (thuốc điều biến glutamate)

Liệu pháp nhận thức-hành vi được điều chỉnh để điều trị các triệu chứng cụ thể của rối loạn giật tóc là liệu pháp ban đầu được ưu tiên (1). Huấn luyện đảo ngược thói quen, một liệu pháp chủ yếu là hành vi, được khuyến khích; nó bao gồm những điều sau:

  • Đào tạo nâng cao nhận thức (ví dụ, tự giám sát, xác định các yếu tố kích hoạt hành vi)

  • Kiểm soát kích thích (thay đổi tình huống-ví dụ, tránh các yếu tố kích thích – để giảm khả năng bắt đầu kéo

  • Đào tạo phản ứng cạnh tranh (dạy cho bệnh nhân thay thế các hành vi khác, chẳng hạn như nắm chặt tay, đan hoặc ngồi trên tay để kéo tóc)

Dữ liệu hạn chế cho thấy clomipramine (thuốc chống trầm cảm ba vòng có tác dụng serotonergic mạnh) có thể hữu ích để giảm mức độ nặng của các triệu chứng (2). Clomipramine dường như hiệu quả hơn desipramine (thuốc chống trầm cảm ba vòng ức chế tái hấp thu norepinephrine) (3). Các nghiên cứu về SSRI ở bệnh nhân trichotillia bị giới hạn bởi kích thước mẫu nhỏ và do đó không đủ sức mạnh thống kê.

Trong các thử nghiệm ngẫu nhiên, thuốc điều biến glutamate N-acetylcysteine và memantine có hiệu quả đối với người lớn (4, 5). Tuy nhiên, trong một nghiên cứu nhỏ ở trẻ em, N-acetylcysteine không hiệu quả hơn giả dược (6). Cũng có ít bằng chứng cho thấy thuốc chẹn dopamine liều thấp như olanzapine có hiệu quả, nhưng tỷ lệ rủi ro: lợi ích phải được đánh giá cẩn thận.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Farhat LC, Olfson E, Nasir M, et al: Pharmacological and behavioral treatment for trichotillomania: An updated systematic review with meta-analysis. Depress Anxiety 37(8):715-727, 2020 doi: 10.1002/da.23028

2. Hoffman J, William T, Rothbart R, et al: Pharmacotherapy for trichotillomania. Cochrane Database Syst Rev 9(9):CD007662, 2021. doi: 10.1002/14651858.CD007662.pub3

3. Swedo SE, Leonard HL, Rapoport JL, et al: A double-blind comparison of clomipramine and desipramine in the treatment of trichotillomania (hair pulling). N Engl J Med

4. Grant JE, Odlaug BL, Kim SWN-Acetylcysteine, a glutamate modulator, in the treatment of trichotillomania: A double-blind, placebo-controlled study. Arch Gen Psychiatry 66(7):756–763, 2009 doi: 10.1001/archgenpsychiatry.2009.60

5. Grant JE, Chesivoir E, Valle S, et al: Double-blind placebo-controlled study of memantine in trichotillomania and skin-picking disorder.  Am J Psychiatry 180(5):348-356, 2023. doi: 10.1176/appi.ajp.20220737

6. Bloch MH, Panza KE, Grant JE, et alN-Acetylcysteine in the treatment of pediatric trichotillomania: A randomized, double-blind, placebo-controlled add-on trial. J Am Acad Child Adolesc Psychiatry 52(3):231–240, 2013 doi: 10.1016/j.jaac.2012.12.020

  • Trong chứng rối loạn nhịp tim, nhổ tóc không phải do ám ảnh hoặc lo lắng về ngoại hình, có thể xuất hiện trước cảm giác căng thẳng hoặc lo lắng được giải tỏa sau khi nhổ tóc, thường sau đó là cảm giác hài lòng.

  • Các kiểu rụng tóc khác nhau từ các vùng của tóc mỏng đến thiếu lông mi và/hoặc lông mày đến các vùng rụng tóc hoàn toàn.

  • Bệnh nhân mắc rối loạn bứt râu tóc cố gắng ngừng nhổ tóc hoặc làm điều đó ít thường xuyên hơn, nhưng họ không thể.

  • Điều trị bằng liệu pháp nhận thức-hành vi được điều chỉnh để điều trị các triệu chứng bứt lông tóc cụ thể (cụ thể là huấn luyện đảo ngược thói quen) và có thể là SSRI hoặc clomipramine, N-acetylcysteine hoặc memantine.

Rối loạn hành vi lặp đi lặp lại tập trung vào cơ thể được đặc trưng bởi các hành vi lặp đi lặp lại tập trung vào cơ thể ngoài hành vi cạo da (chào da) hoặc giật tóc (chứng giật lông tóc) (ví dụ: cắn móng tay, cắn môi, nhai má) và cố gắng ngăn chặn các hành vi đó.

Rối loạn hành vi lặp đi lặp lại tập trung vào cơ thể là một ví dụ về “rối loạn liên quan và ám ảnh cưỡng chế được chỉ định khác” trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, phiên bản thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR). DSM-5 phân loại chứng bứt râu tóc (rối loạn giật tóc) và rối loạn lột da (cạo da) là các rối loạn riêng biệt trong chương về các rối loạn ám ảnh cưỡng chế và các rối loạn liên quan; những hành vi này cũng là những loại hành vi lặp đi lặp lại tập trung vào cơ thể.

Bệnh nhân bị rối loạn này liên tục tham gia vào các hoạt động tập trung vào cơ thể lặp đi lặp lại (ví dụ: cắn móng tay, cắn môi, nhai má).

Một số bệnh nhân thực hiện các hoạt động này phần nào có tính tự động (nghĩa là không nhận thức đầy đủ); những người khác thì ý thức hơn về hoạt động này. Các hành vi không bị kích hoạt bởi những ám ảnh hoặc những quan ngại về ngoại hình nhưng có thể theo sau bởi cảm giác căng thẳng hoặc lo âu mà có thể được làm giảm bớt bởi hành vi đó, thường đi kèm với cảm giác hài lòng. Những người có rối loạn hành vi tập trung vào cơ thể thường cố gắng ngăn chặn hành vi của họ hoặc làm điều đó ít thường xuyên hơn, nhưng họ không thể làm như vậy.

Hành vi cắn móng tay hoặc cấu móng tay trầm trọng (rối loạn cắn móng tay bệnh lý) có thể gây ra các biến dạng móng nghiêm trọng (ví dụ, biến dạng hình dáng bề mặt móng tay) và xuất huyết dưới móng. Các hành vi khác có thể gây chảy máu.

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Để đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn hành vi lặp đi lặp lại tập trung vào cơ thể DSM-5-TR, bệnh nhân thường phải

  • Có hành vi tập trung cơ thể lặp đi lặp lại khác ngoài việc nhổ tóc và cấu da

  • Thực hiện những nỗ lực lặp đi lặp lại để giảm hoặc ngừng các hành vi

  • Cảm thấy đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể từ các hành vi

  • N-Acetylcystein

  • Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) hoặc clomipramine

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi (thường là đào tạo đảo ngược thói quen)

Điều trị rối loạn hành vi lặp đi lặp lại tập trung vào cơ thể có thể bao gồm thuốc (ví dụ: N-acetylcysteine, SSRI hoặc clomipramine) và liệu pháp hành vi nhận thức (thường là đào tạo đảo ngược thói quen), mặc dù dữ liệu về hiệu quả còn rất hạn chế (1). Huấn luyện đảo ngược thói quen, liệu pháp chủ yếu là hành vi, có thể đặc biệt hữu ích và bao gồm những điều sau:

  • Đào tạo nâng cao nhận thức (ví dụ, tự giám sát, xác định các yếu tố kích hoạt hành vi)

  • Kiểm soát kích thích (sửa đổi các tình huống – ví dụ, tránh các yếu tố kích hoạt – để giảm khả năng bắt đầu hành vi tập trung vào cơ thể)

  • Đào tạo phản ứng cạnh tranh (dạy cho bệnh nhân thay thế các hành vi khác, chẳng hạn như nắm chặt bàn tay, đan hoặc ngồi trên tay, cho hành vi tập trung vào cơ thể)

Điều này tương tự như đối với nhổ tóc bệnh lý (rối loạn nhổ tóc) và rối loạn cấu da bệnh lý.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1.Lochner C, Roos Am Stein DJ: Excoriation (skin-picking) disorder: a systematic review of treatment options. Neuropsychiatr Dis Treat 13:1867-1872, 2017. doi: 10.2147/NDT.S121138

  • Rối loạn hành vi lặp đi lặp lại tập trung vào cơ thể bao gồm nhiều lần thực hiện hành vi tập trung vào cơ thể như cắn móng tay, cắn môi và nhai má.

  • Những hành vi tập trung vào cơ thể này không được kích hoạt bởi những ám ảnh hoặc lo lắng về ngoại hình, có thể đi trước bởi cảm giác căng thẳng hoặc lo lắng được giải tỏa sau những hành vi đó, thường theo sau là cảm giác hài lòng.

  • Bệnh nhân bị rối loạn này thường cố gắng ngăn chặn hành vi của họ hoặc để làm điều đó ít thường xuyên hơn, nhưng họ không thể.

  • Điều trị bằng liệu pháp hành vi nhận thức (thường là huấn luyện đảo ngược thói quen) và đôi khi dùng thuốc, bao gồm N-acetylcysteine, SSRI hoặc clomipramine.

Rối loạn tích trữ được đặc trưng bởi khó khăn dai dẳng trong việc thải loại hoặc vứt đi các vật sở hữu, bất kể giá trị thực tế của chúng. Sự khó khăn này dẫn đến sự tích lũy các vật sở hữu mà làm tắc nghẽn và gây ra sự lộn xộn khu vực sinh sống đến mức mà việc sử dụng có mục đích các khu vực thì bị ảnh hưởng đáng kể.

Rối loạn tích trữ thường bắt đầu ở mức độ nhẹ khi ở độ tuổi thanh thiếu niên và dần dần trở nên tồi tệ hơn theo độ tuổi, gây ra suy giảm đáng kể về mặt lâm sàng khi ở độ tuổi giữa 30. Tại bất kỳ thời điểm nào, ước tính có khoảng 2% đến 6% số người bị rối loạn này (1). Nó phổ biến như nhau ở nữ và nam.

Tài liệu tham khảo chung

1. Samuels JF, Bienvenu OJ, Grados MA, et al: Prevalence and correlates of hoarding behavior in a community-based sample. Behav Res Ther 46(7):836-844, 2008. doi: 10.1016/j.brat.2008.04.004

Rối loạn tích trữ thường là mạn tính, có ít hoặc không có sự dao động mức độ của triệu chứng hoặc sự thuyên giảm triệu chứng.

Bệnh nhân có nhu cầu rất lớn trong việc cất giữ đồ đạc, và họ gặp phải sự căng thẳng đáng kể khi phải bỏ đi những đồ vật đó hoặc có dự định bỏ đi những đồ vật đó. Bệnh nhân tích lũy một số lượng lớn các đồ vật mà không có đủ không gian; các đồ vật gây tắc nghẽn và lộn xộn không gian sống đến mức các khu vực rộng lớn trở nên không sử dụng được, ngoại trừ lưu trữ các đồ vật. Ví dụ: các tờ báo được tích trữ có thể lấp đầy bồn rửa và bao phủ trên bàn và lò nướng trong nhà bếp, khiến các khu vực này không thể sử dụng để chuẩn bị bữa ăn.

Các triệu chứng tích trữ thường làm suy giảm các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực hoạt động khác. Ví dụ, bệnh nhân có thể không cho phép người khác, bao gồm các thành viên trong gia đình, bạn bè và thợ sửa chữa vào nhà vì họ cảm thấy xấu hổ vì sự bừa bộn.

Việc tích trữ có thể dẫn đến các điều kiện sống không an toàn (ví dụ, bằng cách tạo ra nguy cơ hỏa hoạn hoặc tăng nguy cơ ngã) và có thể dẫn đến các vấn đề trục xuất hoặc pháp lý.

Tích trữ động vật là một hình thức của rối loạn tích trữ, trong đó bệnh nhân tích lũy một số lượng lớn động vật và không cung cấp dinh dưỡng, vệ sinh và chăm sóc thú y đầy đủ cho dù tình trạng xấu đi của con vật (ví dụ như giảm cân, bệnh tật) và/hoặc môi trường (ví dụ như quá tải quá mức, điều kiện mất vệ sinh cao).

Mức độ thấu hiểu là khác nhau. Một số bệnh nhân nhận ra rằng các niềm tin và hành vi liên quan đến tích trữ là có vấn đề, nhưng nhiều người khác thì không.

About 80 to 90% of people with hoarding disorder also excessively acquire items (eg, books, magazine subscriptions [1]).

Tài liệu tham khảo về các triệu chứng và dấu hiệu

1. Frost RO, Tolin DF, Steketee G, et al: Excessive acquisition in hoarding. J Anxiety Disord 23(5):632-639, 2009. doi: 10.1016/j.janxdis.2009.01.013

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Việc tích trữ được phân biệt với việc chất đống và làm bừa bộn tạm thời (ví dụ như khi tài sản được thừa kế) bởi tính dai dẳng của nó và các đặc trưng khác; ngoài ra, bệnh nhân cưỡng lại việc vứt đi hoặc bán những đồ vật được tích trữ. Người sưu tập (ví dụ, sách hoặc tượng nhỏ), giống như người tích trữ, có thể mua và giữ một số lượng lớn các vật phẩm, nhưng trái ngược với tích trữ, các bộ sưu tập được tổ chức và có hệ thống và không làm lộn xộn đáng kể không gian sống cần thiết và ảnh hưởng đến mục đích sử dụng hoặc làm suy giảm chức năng của chúng hoặc sự an toàn của môi trường gia đình.

Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn tích trữ bao gồm những điều sau đây;

  • Bệnh nhân gặp khó khăn dai dẳng trong việc thải loại hay là vứt đi các tài sản, bất kể giá trị thực tế của chúng.

  • Khó khăn trong việc thải loại là do sự nhận thức nhu cầu cần phải lưu các đồ vật và những khó chịu liên quan đến việc loại bỏ chúng.

  • Các đồ sở hữu được tích lũy làm tắc nghẽn và gây lộn xộn khu vực sống tích cực (không phải là tầng hầm hoặc khu vực lưu trữ) và làm ảnh hưởng đến mục đích sử dụng dự kiến của các khu vực này.

  • Sự tích trữ gây ra tình trạng đau khổ đáng kể hoặc làm suy giảm các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực hoạt động khác.

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

  • Vai trò hạn chế của dược trị liệu

Liệu pháp hành vi nhận thức được điều chỉnh để điều trị các triệu chứng tích trữ cụ thể thường là liệu pháp bước đầu. Tuy nhiên, các thử nghiệm lâm sàng đối với liệu pháp hành vi nhận thức đã cho thấy nhiều kết quả khác nhau (1, 2). Trị liệu tập trung vào việc giúp bệnh nhân vứt bỏ đồ vật, hạn chế mua đồ mới (nếu việc mua quá nhiều là một vấn đề) và cải thiện khả năng ra quyết định của họ.

Kỹ thuật tạo động lực thường là cần thiết để khuyến khích bệnh nhân tham gia và tiếp tục điều trị.

Không có thử nghiệm chọn ngẫu nhiên nào hỗ trợ việc sử dụng các liệu pháp dược lý để điều trị chứng rối loạn tích trữ. Can thiệp bằng thuốc có thể hiệu quả hơn đối với bệnh nhân mắc các bệnh kèm theo (ví dụ: rối loạn lo âu). Một số nghiên cứu quan sát nhỏ về bệnh nhân mắc chứng rối loạn tích trữ được điều trị bằng thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) hoặc thuốc ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine (SNRI) đã làm giảm mức độ tích trữ nặng (3, 4).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Rodgers B, McDonald S, Wootton BM: Cognitive behavioral therapy for hoarding disorder: An updated meta-analysis. J Affect 290:128-135, 2021. doi: 10.1016/j.jad.2021.04.067

2. Bodryzlova Y,  Audet S-B, Bergeron K, et al: Group cognitive-behavioural therapy for hoarding disorder: Systematic review and meta-analysis. Health Soc Care Community 27(3):517-530. doi: 10.1111/hsc.12598 

3. Saxena S, Sumner J: Venlafaxine extended-release treatment of hoarding disorder. Int Clin Psychopharmacol 29(5):266-2, 2014. doi: 10.1097/YIC.0000000000000036

4. Saxena S, Brody AL, Maidment KM, et al: Paroxetine treatment of compulsive hoarding. J Psychiatr Res 41(6):481-487, 2007. doi: 10.1016/j.jpsychires.2006.05.001

  • Tích trữ thường là một rối loạn mạn tính, trong đó những người tích trữ tích lũy tài sản làm tắc nghẽn và lộn xộn các khu vực sinh sống đang hoạt động, khiến những khu vực này rất khó sử dụng như dự định và đôi khi không an toàn.

  • Loại bỏ tài sản gây ra bệnh nhân rối loạn tích trữ đáng kể.

  • Điều trị bằng liệu pháp hành vi nhận thức được điều chỉnh để điều trị các triệu chứng tích trữ cụ thể. Nếu liệu pháp nhận thức-hành vi không hiệu quả, có thể xem xét thử nghiệm với SSRI hoặc SNRI, đặc biệt nếu bệnh nhân có bệnh đi kèm có khả năng đáp ứng.

Rối loạn tham chiếu khứu giác được đặc trưng bởi một người có niềm tin đau khổ hoặc suy giảm rằng họ phát ra mùi cơ thể hôi hoặc khó chịu; mùi nhẹ hoặc không thể nhận thấy đối với người khác.

Rối loạn tham chiếu khứu giác (thường được gọi là hội chứng tham chiếu khứu giác) là một ví dụ về “rối loạn liên quan và ám ảnh cưỡng chế được chỉ định khác” trong Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR) (1).

Tài liệu tham khảo chung

1. Phillips KA, Menard W: Olfactory reference syndrome: Demographic and clinical features of imagined body odor. Gen Hosp Psychiatry 33(4):398-406, 2011. doi: 10.1016/j.genhosppsych.2011.04.004

Bệnh nhân bị rối loạn liên quan đến khứu giác thường bận tâm, thường trong nhiều giờ mỗi ngày, với niềm tin buồn bã hoặc tuyệt vọng rằng họ phát ra một hoặc nhiều mùi cơ thể khó chịu hoặc khó chịu mà người khác không nhận ra hoặc thực sự chỉ là nhẹ. Ví dụ, họ có thể tin rằng họ có hơi thở rất nặng hoặc đổ mồ hôi có mùi hôi từ nách hoặc các vùng da khác của họ. Những lo lắng khác bao gồm phát ra mùi nước tiểu, đầy hơi hoặc mùi khó chịu từ vùng sinh dục. Đôi khi bệnh nhân tin rằng họ phát ra mùi hôi như rác thải hoặc thức ăn ôi thiu.

Mối bận tâm về mùi cơ thể thường đi kèm với các hành vi lặp đi lặp lại (ví dụ, ngửi bản thân, tắm quá nhiều, thay quần áo, tìm kiếm sự trấn an); những hành vi này cố gắng làm giảm bớt sự lo lắng đáng kể do mối quan tâm đến mùi cơ thể gây ra. Hầu hết những người bị rối loạn liên quan đến khứu giác cũng cố gắng ngụy trang mùi cảm nhận được (ví dụ, bằng nước hoa, chất khử mùi, nước súc miệng, kẹo cao su).

Thị giác thường kém hoặc không có (tức là hầu hết mọi người nghĩ rằng họ có thể hoặc chắc chắn phát ra mùi cơ thể khó chịu trong khi thực tế không phải như vậy). Rất ít người nhận ra rằng niềm tin của họ về mùi cơ thể là không chính xác, có thể vì nhiều người mắc rối loạn liên quan đến khứu giác cho biết bản thân họ thực sự ngửi thấy mùi đó. Một rối loạn co giật như động kinh thùy thái dương nên được xem xét và loại trừ nếu có các triệu chứng cho thấy có thể có rối loạn này.

Tư duy quy chiếu là phổ biến; ví dụ, bệnh nhân có thể tin một cách không chính xác rằng mùi cơ thể của họ là lý do khiến mọi người ngồi cách xa họ, mở cửa sổ hoặc chạm vào mũi họ.

Rối loạn quy chiếu khứu giác thường làm suy giảm đáng kể chức năng hoạt động và bệnh nhân thường tránh các tình huống xã hội, thường vì họ cảm thấy quá xấu hổ và xấu hổ về việc có mùi hôi. Nhiều người cũng tránh công việc hoặc các hoạt động quan trọng khác trong cuộc sống. Một số bệnh nhân hoàn toàn cố gắng trong nhà vì họ cảm thấy quá đau khổ, tự ti và xấu hổ về mùi cảm nhận được khi ở xung quanh người khác, hoặc vì họ sợ rằng mùi cơ thể của họ sẽ gây khó chịu cho người khác. Trong những trường hợp rất nghiêm trọng, rối loạn quy chiếu khứu giác gây mất khả năng hoạt động.

Mặc dù dữ liệu còn hạn chế, tỷ lệ tự sát có vẻ cao (1).

Bởi vì thường kém hoặc không có tự thị, nhiều bệnh nhân tìm cách điều trị (ví dụ: cắt amiđan để điều trị chứng hôi miệng, cắt bỏ trực tràng [cắt bỏ hậu môn] để điều trị mùi hậu môn/đầy hơi) từ các bác sĩ lâm sàng không phải bác sĩ tâm thần, việc này dường như không hữu ích.

Tài liệu tham khảo về các triệu chứng và dấu hiệu

1. Phillips KA, Menard W: Olfactory reference syndrome: Demographic and clinical features of imagined body odor. Gen Hosp Psychiatry 33(4):398-406, 2011. doi: 10.1016/j.genhosppsych.2011.04.004

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Các triệu chứng cốt lõi của rối loạn quy chiếu khứu giác thường bao gồm những điều sau:

  • Mối bận tâm của bệnh nhân với việc phát ra (các) mùi cơ thể hôi hoặc khó chịu mà người khác không nhận ra hoặc chỉ được coi là nhẹ

  • Mối bận tâm gây ra đau khổ hoặc suy giảm đáng kể trong các lĩnh vực hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc các hoạt động khác

  • Thực hiện các hành vi lặp đi lặp lại (ví dụ, ngửi mùi của chính mình để kiểm tra mùi cơ thể, tắm quá nhiều hoặc thay quần áo) để đối phó với các mối quan tâm về mùi và/hoặc cố gắng ngụy trang mùi đã nhận biết được

  • Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) hoặc clomipramine

  • Thuốc chống loạn thần (thường không điển hình)

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

Các nghiên cứu điều trị hội chứng tham chiếu khứu giác chủ yếu giới hạn ở các báo cáo trường hợp và loạt trường hợp nhỏ. Tuy nhiên, kinh nghiệm lâm sàng và bằng chứng sẵn có gợi ý rằng SSRI hoặc clomipramine, đơn độc hoặc được sử dụng cùng với thuốc chống loạn thần (ưu tiên loại không điển hình) nếu cần, và liệu pháp nhận thức-hành vi tương tự như liệu pháp điều trị rối loạn dị dạng cơ thể có thể hữu ích (1–3).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Begum M, McKenna PJ: Olfactory reference syndrome: a systematic review of the world literature. Psychol Med 41(3):453-461, 2011. doi: 10.1017/S0033291710001091

2. Teraishi T, Takahashi T, Suda T, et al: Successful treatment of olfactory reference syndrome with paroxetine. J Neuropsychiatry Clin Neurosci 24(1):E24, 2012. doi: 10.1176/appi.neuropsych.11020033

3. Michael S,  Boulton M, Andrews G: Two cases of olfactory reference syndrome responding to an atypical antipsychotic and SSRI. Aust N Z J Psychiatry48(9):878-879, 2014. doi: 10.1177/0004867414526791.

  • Bệnh nhân bận tâm với việc phát ra  1 mùi cơ thể được cảm nhận mà không rõ ràng hoặc chỉ xuất hiện nhẹ đối với người khác.

  • Bệnh nhân phản ứng với những lo ngại về mùi cơ thể của họ bằng cách thực hiện các hành vi lặp đi lặp lại (ví dụ, tắm quá nhiều, đánh răng, giặt quần áo) và/hoặc cố gắng ngụy trang mùi đã nhận biết (ví dụ, sử dụng quá nhiều nước hoa hoặc chất khử mùi).

  • Bệnh nhân thường kém hoặc không có tự thị.

  • Điều trị bằng cách sử dụng liệu pháp hành vi nhận thức tương tự như liệu pháp điều trị rối loạn dị dạng cơ thể và/hoặc liệu pháp dược lý với SSRI hoặc clomipramine, cùng với thuốc chống loạn thần không điển hình nếu cần.

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)

Lệch lạc tình dục và rối loạn lệch lạc tình dục

Rối loạn lệch lạc tình dục là những tưởng tượng, thôi thúc hoặc hành vi kích thích tình dục tái diễn, mãnh liệt, gây đau khổ hoặc tàn tật và liên quan đến các đồ vật vô tri, trẻ em hoặc người lớn không được sự đồng ý, hoặc sự đau khổ hoặc sỉ nhục của một người hoặc bạn tình, có khả năng gây hại.

Các lệch lạc tình dục liên quan đến kích thích tình dục đối với các đối tượng, tình huống và/hoặc mục tiêu không điển hình (ví dụ, trẻ em, xác chết, động vật). Tuy nhiên, một số lệch lạc tình dục có vẻ bất thường đối với một người khác lại không tăng đến mức độ rối loạn lệch lạc tình dục chỉ vì các rối loại này là bất thường. Mọi người có thể có các hứng thú lệch lạc về tình dục nhưng không đáp ứng các tiêu chuẩn cho một rối loạn lệch lạc tình dục.

Các mô hình kích thích tình dục bất thường trong các lệch lạc tình dục được coi là rối loạn bệnh lý chỉ khi có cả hai điều sau đây:

  • Chúng rất mãnh liệt và dai dẳng.

  • Chúng gây ra tình trạng đau khổ hoặc suy giảm đáng kể trong các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực hoạt động chức năng quan trọng khác, hoặc gây hại hoặc có khả năng gây hại đối với người khác (ví dụ, trẻ em, người lớn không đồng thuận).

Những người bị một rối loạn lệch lạc tình dục có thể bị suy giảm hoặc không có khả năng có tình thương yêu, tình cảm hai chiều và quan hệ tình dục với một đối tác đồng thuận. Các khía cạnh khác của việc thích ứng cá nhân và cảm xúc cũng có thể bị suy giảm.

Các mô hình kích thích tình dục bị rối loạn thường được phát triển khá hoàn thiện trước tuổi dậy thì. Có thể có ít nhất 3 quá trình liên quan:

  • Lo âu hoặc sang chấn cảm xúc từ sớm gây trở ngại cho sự phát triển tâm lý giới tính bình thường.

  • Kiểu kích thích tiêu chuẩn được thay thế bằng một kiểu khác, đôi khi thông qua việc tiếp xúc sớm với những trải nghiệm tình dục có tính tích cực cao nhằm củng cố trải nghiệm khoái cảm tình dục bất thường của người đó.

  • Các mô hình kích thích tình dục thường thu được các yếu tố tượng trưng và điều hoà (ví dụ, một sự sùng bái biểu tượng hóa đối tượng gây kích thích nhưng có thể đã được chọn vì sự sùng bái vô tình liên quan đến sự tò mò, khao khát và kích thích tình dục).

Người ta còn tranh luận về việc liệu tất cả sự phát triển của lệch lạc tình dục có phải là kết quả của các quá trình tâm động học này hay không và một số bằng chứng về sự thay đổi chức năng não và giải phẫu chức năng có hiện diện ở một số người lệch lạc tình dục (ví dụ như ấu dâm).

Ở hầu hết các nền văn hoá, các lệch lạc tình dục thường phổ biến hơn ở nam giới. Các nguyên nhân sinh học cho sự phân bố không đồng đều có thể tồn tại nhưng không rõ ràng.

Hàng chục các lệch lạc tình dục đã được mô tả, nhưng phần lớn là không thường gặp hoặc hiếm gặp. Các rối loạn lệch lạc tình dục phổ biến nhất là

  • Rối loạn thị dâm

  • Rối loạn phô dâm

  • Rối loạn loạn dục cọ xát

  • Rối loạn khổ dâm

  • Rối loạn bạo dâm

  • Rối loạn ấu dâm

  • Loạn dục với đồ vật

  • Rối loạn loạn dục cải trang

Một số loại lệch lạc tình dục (chẳng hạn như ấu dâm, cọ xát, thị dâm, một số dạng phô dâm) là bất hợp pháp và có thể dẫn đến việc bị bỏ tù và bị ghi danh suốt đời là tội phạm tình dục. Một số người phạm tội này còn có rối loạn nhân cách đáng kể (ví dụ như chống đối xã hộiái kỷ), khiến việc điều trị trở nên khó khăn.

Thông thường, nhiều hơn một rối loạn lệch lạc tình dục được biểu hiện.

Đối với các bác sĩ lâm sàng điều trị bệnh nhân mắc chứng rối loạn lệch lạc tình dục, có sẵn các hướng dẫn về việc sử dụng liệu pháp dược lý (1).

Tài liệu tham khảo chung

1. Thibaut F, Cosyns P, Fedoroff JP, et al: The World Federation of Societies of Biological Psychiatry (WFSBP) 2020 guidelines for the pharmacological treatment of paraphilic disorders. World J Biol Psychiatry 21(6):412-490, 2020. doi: 10.1080/15622975.2020.1744723

Thị dâm là sự đạt được kích thích tình dục bằng cách quan sát những người khỏa thân, cởi quần áo, hoặc đang tham gia quan hệ tình dục. Khi quan sát những người không nghi ngờ, hành vi tình dục này thường dẫn đến các vấn đề về pháp luật và các mối quan hệ. Rối loạn thị dâm bao gồm hành động theo sự thôi thúc hoặc tưởng tượng thị dâm với một người không được sự đồng ý của họ hoặc gặp phải tình trạng đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể do những thôi thúc và xung động đó ở một người ít nhất 18 tuổi.

Thị dâm là một dạng lệch lạc tình dục, nhưng hầu hết những người có sở thích thị dâm không đáp ứng các tiêu chuẩn lâm sàng cho rối loạn lệch lạc tình dục, đòi hỏi hành vi, tưởng tượng hoặc thôi thúc mãnh liệt của người đó dẫn đến đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng hoặc suy giảm chức năng hoặc gây hại cho người khác (trong đó thị dâm bao gồm hành động theo sự thôi thúc của một người không đồng ý). Tình trạng này cũng phải kéo dài  6 tháng.

Mong muốn quan sát người khác trong các tình huống tình dục là điều bình thường và bản thân nó không phải là bất thường. Sự loạn dục nhìn trộm thường bắt đầu trong giai đoạn vị thành niên hoặc giai đoạn sớm của tuổi trưởng thành. Loạn dục nhìn trộm tuổi vị thành niên thường được xem xét nhẹ nhàng hơn; một vài vị thành niên cũng đã bị bắt vì điều này. Khi loạn dục nhìn trộm trở thành bệnh lý, những người loạn dục nhìn trộm dành thời gian đáng kể để tìm kiếm các cơ hội nhìn trộm, thường để né tránh việc thực hiện những trách nhiệm quan trọng trong cuộc sống của họ. Cực khoái thường đạt được bằng cách thủ dâm trong hoặc sau khi thực hiện hoạt động nhìn trộm. Những người nhìn trộm không tìm kiếm sự tiếp xúc tình dục với những người đang được quan sát.

Ở nhiều nền văn hoá, những người nhìn trộm có nhiều cơ hội pháp lý để xem các hoạt động tình dục (ví dụ, kỹ thuật số hoặc bản in sách ảnh khiêu dâm). Tuy nhiên, các hành vi nhìn trộm là những hành vi tình dục phổ biến nhất mà đưa đến việc phạm luật mức độ nhẹ.

Việc xem riêng tư những hình ảnh và video khiêu dâm hiện được phổ biến rộng rãi trên internet không được coi là thị dâm vì nó thiếu yếu tố quan sát bí mật, vốn là dấu hiệu của thị dâm. Tuy nhiên, với sự thu nhỏ của camera giám sát và sự phổ biến của camera điện thoại di động, thị dâm bằng video liên quan đến việc những người không đồng ý cởi quần áo hoặc không đồng ý tham gia vào quan hệ tình dục ngày càng phổ biến và thường bị coi là tội phạm ở hầu hết các quốc gia.

Hầu hết những người có hành vi thị dâm không tìm kiếm trợ giúp về y tế; do đó, tỷ lệ hiện mắc rối loạn thị dâm trong dân số nói chung là không chắc chắn. Trong một nghiên cứu dựa trên dân số, khoảng 12% số nam giới và 4% số nữ giới đã báo cáo ít nhất một lần có hành vi thị dâm (1). Nhiều nghiên cứu khác nhau cho thấy tỷ lệ nam và nữ thị dâm là 2:1 đến 3:1 (1, 2). Hầu hết dữ liệu là từ các nghiên cứu về tội phạm tình dục bị giam giữ, không phải từ các mẫu cộng đồng. Những người mắc chứng rối loạn thị dâm được nghiên cứu ở cơ sở khám nghiệm tử thi có thể mắc chứng rối loạn tình dục đồng thời, rối loạn loạn dục phô bàytrầm cảmrối loạn hành vi hoặc rối loạn nhân cách chống đối xã hội.

Tài liệu tham khảo chung

1. Långström N, Seto MC: Exhibitionistic and voyeuristic behavior in a Swedish national population survey. Arch Sex Behav 35(4):427-435, 2006. doi: 10.1007/s10508-006-9042-6

2. Thomas A G, Stone B, Bennett P, et al: Sex differences in voyeuristic and exhibitionistic interests: Exploring the mediating roles of sociosexuality and sexual compulsivity from an evolutionary perspective. Arch Sex Behav 50(5): –2162, 2021 doi:10.1007/s10508-021-01991-0

  • Các tiêu chuẩn trong Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth Edition (DSM-5-TR)

Chẩn đoán rối loạn thị dâm cần phải có những tiêu chuẩn sau đây (1):

  • Bệnh nhân bị kích thích mãnh liệt và thường xuyên khi quan sát một người không nghi ngờ khỏa thân, cởi quần áo hoặc tham gia quan hệ tình dục; sự kích thích được thể hiện bằng những tưởng tượng, sự thôi thúc mãnh liệt hoặc hành vi.

  • Bệnh nhân đã hành động theo ham muốn tình dục của họ với một người không có sự đồng ý hoặc những tưởng tượng, ham muốn hoặc hành vi tình dục mãnh liệt này gây ra đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng hoặc suy giảm chức năng tại nơi làm việc, trong các tình huống xã hội hoặc trong các lĩnh vực quan trọng khác của cuộc sống.

  • Tình trạng này kéo dài  6 tháng.

Rối loạn loạn dục nhìn trộm không được chẩn đoán ở bệnh nhân < 18 tuổi.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth Edition,Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC.

  • Nhóm trị liệu tâm lý và hỗ trợ

  • Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) – được sử dụng với thành công hạn chế ở những người tự nguyện đến điều trị

  • Đôi khi dùng thuốc kháng androgen

Khi luật pháp bị phá vỡ và tình trạng phạm tội tình dục được cấu thành, điều trị thường bắt đầu bằng liệu pháp, các nhóm hỗ trợ và các SSRI.

Nếu những liệu pháp này không hiệu quả, trường hợp thường gặp và nếu rối loạn nặng, thì cần phải xem xét việc dùng thuốc làm giảm nồng độ testosterone và do đó làm giảm ham muốn tình dục. Những loại thuốc này được gọi là thuốc kháng androgen, mặc dù những loại thuốc được sử dụng phổ biến nhất có tác dụng ức chế giải phóng testosterone nhưng không ngăn chặn tác dụng của chất này. Dữ liệu hạn chế cho thấy thuốc làm giảm các hành vi tình dục có ý nghĩa lâm sàng có khả năng dẫn đến bị bắt giữ (1).

Thuốc bao gồm

  • Thuốc chủ vận hormone giải phóng Gonadotropin (GnRH) (ví dụ: leuprolide, goserelin)

  • Medroxyprogesteron acetat giải phóng chậm

Cả hai nhóm thuốc đều làm giảm quá trình sản sinh hormone tạo hoàng thể (LH) và hormone kích thích nang trứng (FSH) của tuyến yên và do đó làm giảm quá trình sản sinh testosterone. Cần có sự đồng ý đầy đủ và theo dõi thích hợp về men gan và nồng độ testosterone trong huyết thanh.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Turner D, Briken P: Treatment of paraphilic disorders in sexual offenders or men with a risk of sexual offending with luteinizing hormone-releasing hormone agonists: An updated systematic review. J Sex Med 5(1):77-93, 2018. doi: 10.1016/j.jsxm.2017.11.013

  • Hầu hết những người có hành vi thị dâm không đáp ứng các tiêu chuẩn lâm sàng về chứng rối loạn thị dâm.

  • Hành vi nhìn trộm là hành vi tình dục phổ biến nhất có thể liên quan đến pháp luật.

  • Chỉ chẩn đoán rối loạn thị dâm ở người lớn trên 18 tuổi nếu tình trạng này đã tồn tại  6 tháng và nếu bệnh nhân đã hành động theo ham muốn tình dục của họ với một người không có sự đồng ý hoặc nếu ảo tưởng, thôi thúc hoặc hành vi mãnh liệt của họ gây ra đau khổ hoặc suy yếu đáng kể về mặt lâm sàng hoạt động.

  • Hầu hết những người có hành vi thị dâm không tìm kiếm trợ giúp về y tế; trước tiên, hãy điều trị cho những bệnh nhân đã bị giam giữ vì tội phạm tình dục bằng liệu pháp tâm lý và SSRI và nếu cần điều trị bổ sung và nếu có sự chấp thuận rõ ràng, hãy điều trị bằng thuốc kháng androgen.

Loạn dục phô bày được đặc trưng bởi sự đạt được sự phấn khích tình dục thông qua phô bày bộ phận sinh dục, thường là với một người lạ ngẫu nhiên. Thuật ngữ này cũng có thể đề cập đến một mong muốn mạnh mẽ được quan sát bởi những người khác trong quá trình hoạt động tình dục. Rối loạn loạn dục phô bày bao gồm việc hành động theo những sự thúc dục này với một người không đồng thuận hoặc trải nghiệm một sự đau khổ đáng kể hoặc suy giảm chức năng vì những thúc giục và xung động như vậy.

Chứng phô dâm là một dạng lệch lạc tình dục, nhưng hầu hết những người mắc chứng phô dâm không đáp ứng các tiêu chuẩn lâm sàng của chứng rối loạn lệch lạc tình dục, đòi hỏi hành vi, tưởng tượng hoặc sự thôi thúc mãnh liệt của một người dẫn đến đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng hoặc suy giảm chức năng hoặc gây hại cho người khác (trong đó chứng phô dâm bao gồm hành động theo sự thôi thúc của một người không đồng ý). Tình trạng này cũng phải kéo dài  6 tháng.

Mặc dù tỷ lệ hiện mắc thực sự chưa được biết rõ nhưng tỷ lệ hiện mắc ước tính ở nam giới là khoảng 2% đến 4% (1); tỷ lệ hiện mắc dường như thấp hơn ở nữ giới. Rất ít nữ giới có chẩn đoán mắc chứng rối loạn phô dâm. Thomas et al (2) gợi ý rằng sự khác biệt về giới tính trong tình dục xã hội có thể liên quan đến sự khác biệt giới tính đã được quan sát từ lâu này.

Những người bị loạn dục phô bày (thường là nam giới) có thể thủ dâm trong khi phô bày hoặc tưởng tượng về việc sự phô bày của mình với người khác. Họ có thể nhận biết được nhu cầu của họ trong việc gây ngạc nhiên, gây sốc, hoặc gây ấn tượng với người quan sát không mong muốn. Nạn nhân hầu như luôn là một phụ nữ trưởng thành hay một đứa trẻ ở một trong hai giới. Quan hệ tình dục thực sự hiếm khi được tìm kiếm, và sự tổn hại về thể chất đối với nhân chứng bất ngờ là không thường gặp.

Khởi phát thường ở tuổi thiếu niên; đôi khi, hành động đầu tiên xảy ra ở nhiều lứa tuổi hơn, trong thời kỳ tiền thiếu niên hoặc trung niên.

Khoảng 30% tội phạm tình dục nam bị bắt là những người phô dâm (3). Tỷ lệ tái phạm cao tới khoảng 40% đã được báo cáo (4). Mặc dù được báo cáo là có xảy ra, nhưng phần lớn những người có chủ nghĩa phô bày không tham gia vào các hành vi tình dục mạnh mẽ.

Mặc dù nhiều người phô dâm kết hôn, nhưng cuộc hôn nhân thường gặp rắc rối do sự điều chỉnh về xã hội và tình dục kém, bao gồm cả rối loạn chức năng tình dục thường xuyên (xem Chức năng và rối loạn chức năng tình dục nam và Chức năng và rối loạn chức năng tình dục nữ).

Những người bị phô dâm cũng có thể mắc rối loạn nhân cách (thường là chống đối xã hội) hoặc rối loạn hành vi (5).

Đối với một số người, loạn dục phô bày được biểu hiện dưới dạng một mong muốn mãnh liệt để được người khác theo dõi các hành vi tình dục của họ. Điều hấp dẫn đối với những người như vậy không phải là hành động gây ngạc nhiên đối với một khán giả mà đúng hơn là được nhìn bởi một khán giả bất ngờ. Những người có dạng loạn dụng phô bày này có thể làm các bộ phim khiêu dâm hoặc trở thành người giải trí dành cho người lớn. Họ hiếm khi cảm thấy đau khổ hoặc suy yếu do ham muốn này và do đó có thể không bị rối loạn tâm thần.

Tài liệu tham khảo chung

1. Långström N, Seto MC: Exhibitionistic and voyeuristic behavior in a Swedish national population survey. Arch Sex Behav 35(4):427-435, 2006. doi: 10.1007/s10508-006-9042-6

2. Thomas AG, Stone B, Bennett P, et al: Sex differences in voyeuristic and exhibitionistic interests: Exploring the mediating roles of sociosexuality and sexual compulsivity from an evolutionary perspective. Arch Sexual Behav 50:215102162, 2021 doi: 10.1007/s10508-021-01991-0

3. Abel GG, Becker JV, Cunningham-Rathner J: Multiple paraphilic diagnoses among sex offenders. Bull Am Acad Psychiatry Law 16(2):153-168, 1988. PMID: 3395701

4. Firestone P, Kingston DA, Wexler A, et al: Long-term follow-up of exhibitionists: psychological, phallometric, and offense characteristics, J Am Acad Psychiatry Law 34(3):349-359, 2006 PMID: 17032959

5. Grant JE: Clinical characteristics and psychiatric comorbidity in males with exhibitionism. J Clin Psychiatry 66(11):1367-1371, 2005. doi: 10.4088/jcp.v66n1104.

  • Các tiêu chuẩn trong Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth Edition (DSM-5-TR)

Chẩn đoán rối loạn phô dâm cần phải có những tiêu chuẩn sau đây (1):

  • Bệnh nhân bị kích thích tình dục mãnh liệt và thường xuyên do để lộ bộ phận sinh dục của mình cho một người không nghi ngờ, biểu hiện bằng những tưởng tượng, thôi thúc hoặc hành vi.

  • Bệnh nhân đã hành động theo nhu cầu tình dục của họ với một người không có sự đồng thuận của họ, hoặc những thôi thúc hay tưởng tượng tình dục này gây ra đau khổ hoặc suy giảm đáng kể về mặt lâm sàng trong các lĩnh vực hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc quan trọng khác.

  • Tình trạng này kéo dài  6 tháng.

Bác sĩ lâm sàng phải xác định xem bệnh nhân có bị kích thích tình dục bằng cách để lộ bộ phận sinh dục cho trẻ chưa dậy thì hay người trưởng thành về mặt thể chất hay cả hai.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth Edition,Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC.

  • Nhóm trị liệu tâm lý và hỗ trợ

  • Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI)

  • Đôi khi dùng thuốc kháng androgen

Khi luật pháp bị vi phạm và được quy định là tội phạm tình dục, việc điều trị chứng rối loạn phô dâm thường bắt đầu bằng liệu pháp tâm lý, các nhóm hỗ trợ và SSRI (1, 2).

Nếu SSRI không hiệu quả và nếu rối loạn nặng, thì cần phải xem xét việc dùng thuốc làm giảm nồng độ testosterone và do đó làm giảm ham muốn tình dục. Những loại thuốc này được gọi là thuốc kháng androgen, mặc dù những loại thuốc được sử dụng phổ biến nhất không thực sự ngăn chặn tác dụng của testosterone. Những loại thuốc này bao gồm thuốc chủ vận hormone giải phóng gonadotropin (GnRH) (ví dụ, leuprolide) và medroxyprogesterone acetate dự trữ; cả hai đều làm giảm quá trình sản sinh hormone tạo hoàng thể (LH) và hormone kích thích nang trứng (FSH) của tuyến yên. Sự thông tin đầy đủ và theo dõi một cách thích hợp về chức năng gan và nồng độ testosteron huyết thanh là bắt buộc.

Tỷ lệ tái lại là rất cao. Hiệu quả của việc điều trị được theo dõi dựa trên tự báo cáo, đo dòng máu đến dương vật và hồ sơ bắt giữ.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Garcia FD, Thibaut F: Current concepts in the pharmacotherapy of paraphilias. Drugs 71(6):771-790, 2011. doi: 10.2165/11585490-000000000-00000

2. Thibaut F: Pharmacological treatment of paraphilias. Isr J Psychiatry Relat Sci 49(4):297-305, 2012. Isr J Psychiatry Relat Sci 2012;49(4):297-305. PMID: 23585467

  • Hầu hết những người có hành vi phô dâm không đáp ứng được các tiêu chuẩn lâm sàng của chứng rối loạn phô dâm.

  • Khoảng 30% số tội phạm tình dục nam bị bắt là những người phô dâm; tội phạm tình dục thường xuyên tái diễn.

  • Chỉ chẩn đoán rối loạn phô dâm nếu tình trạng này đã tồn tại  6 tháng và nếu bệnh nhân đã hành động theo ham muốn tình dục với một người không có sự đồng thuận hoặc hành vi của họ khiến họ đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể về mặt lâm sàng.

  • Nhiều người có hành vi phô dâm không tìm cách điều trị; trước tiên hãy điều trị cho những bệnh nhân đã phạm tội tình dục bằng liệu pháp tâm lý và SSRI; nếu cần điều trị bổ sung và nếu có chấp thuận tham gia, hãy điều trị bằng thuốc kháng androgen.

Loạn dục cọ xát là sự hưng phấn tình dục mãnh liệt khi chạm vào hoặc cọ xát vào một người không đồng ý. Rối loạn loạn dục cọ xát được chẩn đoán khi một người trải qua, trong ít nhất 6 tháng, bị kích thích dữ dội và tái phát do chứng loạn dục cọ xát (biểu hiện bằng những tưởng tượng, sự thôi thúc hoặc hành vi) và đã hành động theo những thôi thúc tình dục này hoặc sự thôi thúc đó gây ra đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể về mặt lâm sàng.

Rối loạn loạn dục cọ xát là một dạng lệch lạc tình dục. Từ frottage xuất phát từ frotter của tiếng Pháp, có nghĩa là “chà xát hoặc gây áp lực lên ai đó”. Thuật ngữ này hiện nay liên quan đến việc đạt được kích thích tình dục mãnh liệt do chạm vào (không phải do bẩm sinh) hoặc cọ xát vùng sinh dục của một người với người không đồng ý.

Một phần hưng phấn dường như nằm ở nguy cơ bị bắt gặp ở nơi công cộng. Các địa điểm thường xảy ra hiện tượng trượt tuyết là tàu điện ngầm, xe buýt, thang máy, sự kiện thể thao và các sự kiện công cộng đông người khác. Hầu hết các trường hợp này xảy ra khi nam giới chạm vào nữ giới, mặc dù đã có trường hợp người thuộc bất kỳ giới tính nào chạm vào người khác thuộc bất kỳ giới tính nào (1). Ngoài ra, còn có trường hợp người lớn thuộc mọi giới tính chạm vào trẻ em thuộc mọi giới tính. Hành vi như vậy của người lớn bị coi là phạm tội hình sự vì đây là một hình thức quan hệ tình dục không có sự đồng thuận.

Đây là một trong những nghiên cứu ít được nghiên cứu nhất về các lệch lạc tình dục chính, có thể vì hầu hết những người bị loạn dục cọ xát không có mặt để đánh giá hoặc điều trị, và rất khó để bắt những người bị loạn dục cọ xát trong không gian công cộng đông đúc (2). Nhiều phụ nữ trên khắp thế giới cho biết họ là nạn nhân của những người bị loạn dục cọ xát. Ví dụ, trong một nghiên cứu về các hành khách nữ trẻ (ở độ tuổi 20 hoặc 30) trên các chuyến tàu công cộng ở Tokyo, hơn 66% cho biết họ đã từng phải chịu các hành vi sờ soạng (xoa, chạm, mò mẫm) (2). Tỷ lệ hiện mắc của rối loạn này chưa được biết rõ, nhưng việc cọ xát hoặc chạm vào người khác một cách vô thức để thỏa mãn tình dục, phần lớn ở nam giới, đã được báo cáo ở mức từ 7,9% đến 35% (3).

Nguyên nhân chính xác của tình trạng loạn dục cọ xát vẫn chưa được hiểu đầy đủ; tuy nhiên, một số yếu tố có thể góp phần vào sự phát triển của tình trạng này. Tình trạng này bao gồm sự kết hợp của các yếu tố tâm lý, xã hội và sinh học, chẳng hạn như:

  • Sự gián đoạn hoặc thay đổi trong sự phát triển tâm lý tình dục: Loạn dục cọ xát có thể liên quan đến những trải nghiệm ban đầu và sự phát triển tâm lý tình dục của một cá nhân. Các yếu tố như chấn thương thời thơ ấu, lạm dụng tình dục hoặc tiếp xúc với nội dung tình dục không phù hợp có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của rối loạn lệch lạc tình dục này.

  • Các yếu tố xã hội và yếu tố môi trường: Các yếu tố văn hóa và yếu tố xã hội, chẳng hạn như thiếu giáo dục giới tính, thái độ hạn chế đối với tình dục hoặc hạn chế tiếp cận các mối quan hệ tình dục đồng thuận, có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của loạn dục cọ xát. Sự cô lập về mặt xã hội hoặc những khó khăn trong việc thiết lập các mối quan hệ thân mật lành mạnh cũng có thể là những yếu tố góp phần gây ra tình trạng này.

  • Các rối loạn tâm thần liên quan: Loạn dục cọ xát có thể đi kèm các rối loạn khác, chẳng hạn như rối loạn nhân cáchrối loạn tâm trạng hoặc có thêm các lệch lạc tình dục.

Tài liệu tham khảo chung

1. Ranger R, Fedoroff P: Frotteurism. The International Encyclopedia of Human Sexuality. First Edition. 369-426, 2015.

2. Stan IC: Frotteuristic disorder. In Transtheoretical approaches to paraphilic disorders, Chapter 6. Edited by Rusu DO, Cristian D. Internat J Adv Stud Sexology 2019-2020, ISSN 2668-7194 (print), ISSN 2668-9987 (online).  doi: 10.46388/ijass.2020.13.17

3. Johnson RS, Ostermeyer B, Sikes KA, et al: Prevalence and treatment of frotteurism in the community: a systematic review. J Am Acad Psychiatry Law 42(4):478-483, 2014. PMID: 25492074.

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Chẩn đoán rối loạn loạn dục cọ xát cần phải có các tiêu chuẩn sau đây (1):

  • Kích thích tình dục mãnh liệt và tái diễn do chạm vào hoặc cọ xát vào người không có sự đồng ý, biểu hiện bằng tưởng tượng, thôi thúc hoặc hành vi.

  • Người đó đã hành động theo những thôi thúc tình dục này với một người không có sự đồng ý, hoặc những thôi thúc hay tưởng tượng tình dục đó gây ra đau khổ hoặc suy giảm đáng kể về mặt lâm sàng trong các lĩnh vực hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc quan trọng khác.

  • Tình trạng này kéo dài  6 tháng.

Bác sĩ lâm sàng phải xác định xem cá nhân đó có đang sống trong môi trường được kiểm soát hay không (ví dụ: cơ sở chăm sóc) hay đã thuyên giảm hoàn toàn (tức là ít nhất 5 năm không bị đau khổ/suy giảm trong môi trường không được kiểm soát).

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth Edition,Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC.

  • Tâm lý trị liệu (cá nhân hoặc nhóm)

  • Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI)

  • Đôi khi dùng thuốc kháng androgen

Không có nghiên cứu lớn nào về các phương pháp điều trị cụ thể đối với chứng rối loạn loạn dục cọ xát. Các phương pháp tiếp cận thông thường đối với chứng lệch lạc tình dục nói chung đã được thử nghiệm (ví dụ: điều trị các rối loạn tâm thần đi kèm, kết hợp liệu pháp tâm lý nhóm hoặc cá nhân với việc sử dụng SSRI và thuốc kháng androgen như chất chủ vận hormone giải phóng gonadotropin [GnRH], medroxyprogesterone axetat và cyproterone axetat [1]). Những người bị tình trạng này thường được yêu cầu điều trị sau khi bị bắt vì tội tấn công tình dục và thường không sẵn lòng và không có động lực tham gia vào chương trình điều trị của họ (2).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Ranger R, Fedoroff P: Frotteurism. The International Encyclopedia of Human Sexuality. First Edition. 369-426, 2015.

2. Stan IC: Frotteuristic disorder. Transtheoretical approaches to paraphilic disorders, Chapter 6. Internat J Adv Stud Sexology 2019-2020, ISSN 2668-7194 (print), ISSN 2668-9987 (online).  doi: 10.46388/ijass.2020.13.17

Loạn dục thích đau là cố ý tham gia vào một hoạt động liên quan đến việc bị làm nhục, bị đánh đập, bị bó buộc, hoặc bị lạm dụng để trải nghiệm sự phấn khích tình dục. Rối loạn khổ dâm được chẩn đoán khi bệnh nhân bị kích thích tình dục mãnh liệt, tái diễn từ những hoạt động này nhưng đồng thời cũng có biểu hiện đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể về mặt lâm sàng.

Khổ dâm là một dạng lệch lạc tình dục, nhưng hầu hết những người có sở thích khổ dâm không đáp ứng các tiêu chuẩn lâm sàng về rối loạn lệch lạc tình dục, một tình trạng đòi hỏi hành vi, tưởng tượng hoặc sự thôi thúc mãnh liệt của người đó dẫn đến đau khổ hoặc suy yếu đáng kể về mặt lâm sàng. Tình trạng này cũng phải kéo dài  6 tháng.

Những người mắc chứng khổ dâm tình dục thường công khai thừa nhận việc quan tâm hoặc tham gia của họ vào các hoạt động tình dục khổ dâm. Thuật ngữ BDSM (trói buộc-thống trị-bạo dâm-khổ dâm) là một thuật ngữ mô tả bao quát bao gồm những người bạo dâm tình dục đáp ứng hoặc không đáp ứng các tiêu chuẩn lâm sàng để chẩn đoán rối loạn khổ dâm.

Tỷ lệ hiện mắc của rối loạn khổ dâm vẫn chưa được biết. Tuy nhiên, một báo cáo dữ liệu duy nhất từ một cuộc khảo sát qua điện thoại ở Úc từ 2001 đến 2002 cho thấy 2,2% số nam giới và 1,3% số nữ giới cho biết có liên quan đến các hành vi BDSM trong 12 tháng trước đó (1).

Những tưởng tượng và hành vi tình dục gây đau giữa những người trưởng thành đồng thuận là rất phổ biến. Hoạt động tình dục thích đau có xu hướng bị nghi thức hóa và tồn tại lâu dài. Đối với hầu hết những người tham gia (tương tự như hầu hết các sở thích lệch lạc tình dục khác), hành vi sỉ nhục và đánh đập chỉ đơn giản là diễn ra; những người tham gia biết rằng đây là một trò chơi và cẩn thận tránh sự sỉ nhục hoặc tổn thương thực sự, thường thông qua việc sử dụng “từ an toàn” đã được thương lượng trước. Tuy nhiên, một số người bị khổ dâm làm tăng mức độ nặng của hoạt động của họ theo thời gian và có thể ngừng sử dụng từ an toàn để bảo vệ bản thân, điều này có thể dẫn đến thương tổn nghiêm trọng hoặc tử vong.

Đối với những người tham gia vào các hoạt động khổ dâm, đây có thể là phương thức được ưa thích hoặc độc chiếm để tạo ra hưng phấn tình dục. Mọi người có thể hành động theo tưởng tượng tình dục thích đau hướng vào bản thân mình – ví dụ:

  • Tự buộc mình

  • Tự châm vào da của mình

  • Giật điện

  • Tự đốt cháy

  • Tự ngạt thở khi thủ dâm (loạn dục tự gây ngạt)

Hoặc họ có thể tìm kiếm một bạn tình có thể là một người loạn dục gây đau. Các hoạt động với bạn tình có thể bao gồm:

  • Buộc mình

  • Bịt mắt

  • Đánh vào mông

  • Đánh bằng roi (đánh)

  • Bị sỉ nhục bằng cách bị đi tiểu hoặc đi ngoài lên người

  • Buộc phải mặc đồ khác giới

  • Bị ép buộc quan hệ tình dục

  • Tự gây ngạt một phần, thường là lúc đạt cực khoái

Thủ dâm tự gây ngạt (loạn dục tự gây ngạt)

Loạn dục tự gây ngạt được coi là một dưới nhóm của rối loạn loạn dục thích đau. Là một phần của quá trình chẩn đoán, bác sĩ lâm sàng nên lưu ý xem hành vi này là “có” hay “không có”.

Trong rối loạn này, mọi người hạn chế thở (tự gây ngạt một phần) – hoặc cho phép bạn tình làm như vậy – vào hoặc gần thời điểm đạt cực khoái để nâng cao trải nghiệm tình dục chứ không phải là cách để làm hại bản thân. Thông thường, những người này sử dụng các sản phẩm y phục (ví dụ, khăn quàng cổ, đồ lót) như một dây buộc để tự gây ngạt. Các dây buộc thường bị treo lơ lửng trên một đồ vật trong phòng (ví dụ, tay nắm cửa, cột giường).

Mất ý thức có thể xảy ra nhanh chóng do sự tắc nghẽn tĩnh mạch từ não làm giảm tưới máu não, ngay cả trước khi tình trạng thiếu oxy và tăng các bon đã trở nên đáng kể. Những người tự gây ngạt theo cách này mà dây buộc không bị nới lỏng ra nếu họ mất ý thức có thể vô tình gây tổn thương não vĩnh viễn hoặc tử vong.

Tài liệu tham khảo chung

1. Richters J, Grulich AE, de Visser RO, et al: Sex in Australia: Autoerotic, esoteric and other sexual practices engaged in by a representative sample of adults. Aust N Z J Public Health 27(2):180-190, 2003. doi: 10.1111/j.1467-842x.2003.tb00806.x

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Các tiêu chuẩn lâm sàng cụ thể như sau (1):

  • Bệnh nhân bị kích thích tình dục mãnh liệt và thường xuyên do hành động bị sỉ nhục, đánh đập, trói buộc hoặc chịu đựng đau khổ. Kích thích này được thể hiện bằng những tưởng tượng, sự thôi thúc mãnh liệt hoặc hành vi.

  • Những tưởng tượng, sự thôi thúc hoặc hành vi mãnh liệt của họ gây ra đau khổ đáng kể hoặc suy giảm chức năng tại nơi làm việc, trong các tình huống xã hội hoặc trong các lĩnh vực quan trọng khác của cuộc sống.

  • Tình trạng này kéo dài  6 tháng.

Bác sĩ lâm sàng phải xác định liệu

  • Loạn dục tự gây ngạt có hay không

  • Bệnh nhân đang sống trong một môi trường được kiểm soát (nơi khó có thể thực hiện các hành vi khổ dâm)

  • Bệnh nhân đã thuyên giảm hoàn toàn (nghĩa là đã trải qua ít nhất 5 năm mà không bị đau khổ/suy chức năng trong môi trường không được kiểm soát)

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth Edition,Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC.

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

  • Liệu pháp kháng androgen

Việc điều trị khổ dâm là không cần thiết nếu cá nhân đó không có biểu hiện đau khổ hoặc suy yếu chức năng đáng kể về mặt lâm sàng. Mặc dù có rất ít nghiên cứu lớn, nhưng đối với những người được chẩn đoán mắc chứng rối loạn khổ dâm, sự kết hợp giữa liệu pháp nhận thức-hành vi và phương pháp điều trị bằng thuốc kháng androgen dường như có hiệu quả nhất (1).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Lykins A, Hucker SJ: Treatment of sexual masochism. In Case Studies in Sexual Deviance: Toward Evidence-Based Practice, edited by T Downhiller, Routledge/Taylor & Francis Group, 2014, pp. 102–116.

Bạo dâm là việc gây ra đau khổ về thể chất hoặc tâm lý (ví dụ như sỉ nhục, khủng bố) lên người khác để kích thích hưng phấn tình dục và cực khoái. Rối loạn bạo dâm là bạo dâm tình dục gây ra đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể về mặt lâm sàng hoặc được thực hiện bởi một người không có sự đồng ý.

Những người bị rối loạn bạo dâm đã hành động theo những thôi thúc mãnh liệt hoặc có những tưởng tượng gây suy nhược hoặc đau khổ về chủ đề bạo dâm mà họ không hề hành động. Tình trạng này cũng phải kéo dài  6 tháng.

Bạo dâm là một dạng lệch lạc tình dục, nhưng hành vi tình dục tàn bạo nhẹ là một hành vi tình dục phổ biến giữa những người trưởng thành đồng ý và thường bị giới hạn về phạm vi, được thực hiện theo cách không gây hại và không đáp ứng các tiêu chí lâm sàng cho chứng rối loạn lệch lạc tình dục. Tuy nhiên, ở một số người, các hành vi có thể leo thang đến mức nguy hiểm. Việc xác định khi nào bạo dâm trở thành bệnh lý là vấn đề ở mức độ.

Hầu hết những người nghiện tình dục đều có những tưởng tượng dai dẳng trong đó sự phấn khích về tình dục là kết quả của sự đau đớn gây ra cho bạn tình, đồng ý hay không. Khi quan hệ tình dục với các bạn tình không đồng thuận, loạn dục gây đau cấu thành hoạt động tội phạm và có thể sẽ tiếp tục cho đến khi người loạn dục gây đau bị bắt. Tuy nhiên, bạo dâm không đồng nghĩa với cưỡng hiếp, nó là sự kết hợp phức tạp giữa cưỡng bức tình dục và quyền lực tác động lên nạn nhân. Bạo dâm được chẩn đoán trong < 10% số người phạm tội cưỡng hiếp nhưng có mặt từ 37 đến 75% số người đã phạm tội giết người có động cơ tình dục.

Loạn dục gây đau là đặc biệt nguy hiểm khi liên quan đến rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Kết hợp của các rối loạn này có thể dẫn đến bạo dâm hình sự liên quan đến việc bắt cóc hoặc bắt cóc những bên không muốn, những người có thể bị tổn hại hoặc bị giết (1). Những cá nhân bị cả hai tình trạng này được coi là đặc biệt ngoan cố trong việc điều trị tâm thần (2). Những cá nhân như vậy, khi bị bắt và kết án, đôi khi bị coi là kẻ săn mồi bạo lực tình dục trong nhiều thập kỷ do không có phương pháp điều trị hiệu quả (3).

Tài liệu tham khảo chung

1. Jones S, Chan HCO: The psychopathic–sexually sadistic offender. In Routledge International Handbook of Psychopathy and Crime Routledge/Taylor & Francis Group, 2018, pp. 398-412.

2. Meloy JR: The psychology of wickedness: Psychopathy and sadism. Psychiatric Annals 27(9):630-633, 1997 https://doi.org/10.3928/0048-5713-19970901-10

3. DeClue G: Paraphilia NOS (nonconsenting) and antisocial personality disorder. J Psychiatry Law 34(4):495-514, 2006 https://doi.org/10.1177/009318530603400404

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Các tiêu chuẩn lâm sàng cụ thể như sau (1):

  • Bệnh nhân bị kích thích tình dục thường xuyên và mãnh liệt từ sự đau khổ về thể chất hoặc tâm lý của người khác; sự kích thích được thể hiện bằng những tưởng tượng, sự thôi thúc mãnh liệt hoặc hành vi.

  • Bệnh nhân đã hành động theo sự thôi thúc của họ với một người không đồng ý, hoặc những tưởng tượng hay sự thúc giục này gây ra đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng hoặc làm suy giảm chức năng tại nơi làm việc, trong các tình huống xã hội hoặc các lĩnh vực quan trọng khác trong cuộc sống của họ.

  • Tình trạng này kéo dài  6 tháng.

Bác sĩ lâm sàng phải xác định xem bệnh nhân có đang sống trong một môi trường được kiểm soát (ví dụ: nhà tù, viện dưỡng lão) hay thuyên giảm hoàn toàn (nghĩa là không hành động theo sự thôi thúc với bạn tình không đồng ý và không có căng thẳng/suy giảm về mặt xã hội, nghề nghiệp). hoặc các lĩnh vực khác hoạt động ít nhất 5 năm trong môi trường không được kiểm soát).

Rối loạn bạo dâm có thể được chẩn đoán ở những bệnh nhân phủ nhận rằng họ có ảo tưởng hoặc thôi thúc liên quan đến hưng phấn tình dục được gây ra bởi nỗi đau hoặc sự đau khổ của người khác, đặc biệt nếu những bệnh nhân này cho biết có nhiều giai đoạn tình dục gây đau đớn hoặc đau khổ cho một người không tự nguyện.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth Edition,Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC.

  • Đôi khi trị liệu nhận thức-hành vi (nhóm hoặc cá nhân)

  • Đôi khi dùng thuốc kháng androgen

Điều trị bạo dâm tình dục là không cần thiết nếu sở thích, tưởng tượng và hành vi không liên quan đến những người không có sự đồng ý và không có biểu hiện đau khổ hoặc suy yếu đáng kể về mặt lâm sàng. Đối với những người có chứng bạo dâm tình dục tăng đến mức rối loạn bạo dâm tình dục, các phương pháp điều trị áp dụng cho các paraphilia khác (ví dụ: xem Điều trị: Rối loạn phô dâm) được áp dụng phổ biến nhất, bao gồm liệu pháp nhận thức-hành vi nhóm hoặc cá nhân có hoặc không sử dụng thuốc kháng androgen.

Nếu rối loạn nhân cách chống đối xã hội cũng xuất hiện, các phương pháp điều trị chưa được chứng minh là có hiệu quả đặc biệt.

Rối loạn ấu dâm được đặc trưng bởi những tưởng tượng, sự thôi thúc hoặc hành vi kích thích tình dục mãnh liệt, tái diễn liên quan đến hoạt động tình dục với trẻ em trước tuổi dậy thì (thường  13 tuổi); dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng, bệnh chỉ được chẩn đoán khi bệnh nhân  16 tuổi và lớn hơn trẻ  5 tuổi là mục tiêu của những tưởng tượng hoặc hành vi.

Ấu dâm là một dạng lệch lạc tình dục gây tổn hại cho người khác và do đó được coi là một chứng rối loạn lệch lạc tình dục. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng có sự khác biệt cả về cấu trúc và chức năng trong não của những kẻ ấu dâm so với nhóm đối chứng, ở cả vùng vỏ não và dưới vỏ não (ví dụ: hệ viền, vùng trán vân) (1).

Các hành vi tấn công tình dục đối với trẻ em chiếm một tỷ lệ đáng kể các hành vi tình dục phạm pháp được báo cáo. Đối với thanh thiếu niên lớn tuổi hơn (tức là từ 17 tuổi đến 18 tuổi), việc quan tâm hoặc liên quan đến tình dục liên tục với trẻ 12 tuổi hoặc 13 tuổi có thể không đáp ứng các tiêu chuẩn lâm sàng về chứng rối loạn, vì tiêu chí DSM quy định người phạm tội phải trên 16 tuổi và khoảng cách tuổi tác với người đã quan hệ tình dục ít nhất là 5 năm. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn pháp lý có thể khác với các tiêu chuẩn tâm thần. Ví dụ, hoạt động tình dục giữa một người 19 tuổi và một người 16 tuổi có thể là một hành vi phạm pháp và không phải là chứng rối loạn loạn dục với trẻ em, tùy theo thẩm quyền. Hướng dẫn về độ tuổi chẩn đoán có thể không áp dụng cho tất cả các nền văn hóa. Nhiều nền văn hóa chấp nhận hoạt động tình dục, kết hôn và sinh con ở độ tuổi trẻ hơn và chấp nhận sự chênh lệch tuổi tác lớn hơn nhiều giữa các bạn tình.

Hầu hết các trường hợp loạn dục với trẻ em là nam giới. Tỷ lệ hiện mắc chưa rõ nhưng ước tính lên tới 3% dân số nam giới trưởng thành và thấp hơn đáng kể ở nữ giới (2). Tình trạng thu hút có thể là trẻ em hoặc thanh thiếu niên thuộc một hoặc nhiều giới tính. Nhưng những người bị ấu dâm thích trẻ khác giới hơn trẻ cùng giới 2:1 (3). Trong hầu hết các trường hợp, người lớn được trẻ biết đến và có thể là thành viên trong gia đình, cha mẹ kế hoặc người có thẩm quyền (ví dụ: giáo viên, giáo sĩ, huấn luyện viên). Việc nhìn trẻ em cởi quần áo và vuốt ve bộ phận sinh dục của trẻ có vẻ phổ biến hơn so với giao hợp đối với các trường hợp ấu dâm không loạn luân (4).

Các đối tượng loạn dục trẻ em chỉ có thể bị thu hút bởi trẻ em (dạng độc nhất) hoặc cũng có thể cả người trưởng thành (dạng không độc nhất); một số chỉ bị thu hút bởi những đứa trẻ có quan hệ họ hàng với họ (loạn luân).

Nhiều người trong số những trường hợp loạn dục với trẻ em nghiêm trọng có thể có rối loạn nhân cách chống đối xã hội, có thể sử dụng vũ lực và đe dọa gây hại về thể chất đối với trẻ em hoặc vật nuôi của đứa trẻ nếu sự lạm dụng được tiết lộ. Khi cùng có cả rối loạn nhân cách chống đối xã hội và ấu dâm, các phương pháp điều trị đã được chứng minh là có giá trị hạn chế so với những phương pháp điều trị chỉ dành cho bệnh ấu dâm khi được đo bằng tỷ lệ bỏ điều trị tăng lên và tỷ lệ tái phạm tăng lên đối với những người bị cả hai tình trạng (4, 5).

Tiến triển của loạn dục với trẻ em là mạn tính, và những kẻ phạm tội thường có hoặc phát triển rối loạn sử dụng chất gây nghiện và trầm cảm. Các rối loạn chức năng gia đình lan tỏa, tiền sử cá nhân về lạm dụng tình dục, và xung đột về hôn nhân là phổ biến. Các rối loạn đồng diễn bao gồm rối loạn tăng động giảm chú ýrối loạn lo âu, và rối loạn stress sau sang chấn.

Tài liệu tham khảo chung

1. Kirk-Provencher KT, Rebecca J Nelson-Aguiar RJ, Spillane NS: Neuroanatomical differences among sexual offenders: A targeted review with limitations and implications for future directions. Violence Gend 7(3):86-97, 2020. doi: 10.1089/vio.2019.0051

2. Seto MC, Kingston DA, Bourget D: Assessment of the paraphilias. Psychiatr Clin North Am 37(2):149-161 2014. doi: 10.1016/j.psc.2014.03.001

3. Freund K, Watson RJ: The proportions of heterosexual and homosexual pedophiles among sex offenders against children: An exploratory study. J Sex Marital Ther 18(1):34-43, 1992. doi: 10.1080/00926239208404356

4. Hall RC, Hall RCW: A profile of pedophilia: Definition, characteristics of offenders, recidivism, treatment outcomes, and forensic issues. Mayo Clin Proc 82(4):457-471, 2007. doi: 10.4065/82.4.457

5. Cohen LJ, Galynker II: Clinical features of pedophilia and implications for treatment. J Psychiatr Pract 8(5):276-289, 2002. DOI: 10.1097/00131746-200209000-00004

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Việc sử dụng rộng rãi văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em là một dấu hiệu đáng tin cậy về sự thu hút tình dục hướng tới trẻ em và có thể là chỉ thị duy nhất về rối loạn này. Tuy nhiên, bản thân việc sử dụng văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em không đáp ứng các tiêu chuẩn cho chứng rối loạn với trẻ em, mặc dù điều này thường là bất hợp pháp.

Nếu bệnh nhân phủ nhận sự hấp dẫn tình dục đối với trẻ em nhưng hoàn cảnh lại cho thấy điều ngược lại, một số công cụ chẩn đoán nhất định (thường là trong bối cảnh liên quan đến pháp lý) có thể giúp xác nhận sự hấp dẫn đó. Các công cụ bao gồm đo biến thiên thể tích dương vật (nam giới), chụp quang tuyến thể tích âm đạo (phụ nữ), và thời gian xem các tài liệu khiêu dâm được chuẩn hoá; tuy nhiên, sở hữu tài liệu như vậy, thậm chí cho các mục đích chẩn đoán, có thể là bất hợp pháp trong phạm vi luật pháp nhất định.

Tiêu chuẩn lâm sàng chẩn đoán (dựa trên Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth Edition, Text Revision [DSM-5-TR]) về chứng rối loạn ấu dâm như sau (1):

  • Những hành vi, thôi thúc hoặc tưởng tượng kích thích tình dục tái diễn, mãnh liệt liên quan đến trẻ trước tuổi vị thành niên hoặc trẻ em (thường là  13 tuổi) hiện diện trong thời gian ≥ 6 tháng.

  • Người hành động theo thôi dục như vậy hoặc đang rất đau khổ hoặc đang có bất thường trong sự thôi thúc và tưởng tượng tình dục. Trải nghiệm đau khổ về những thôi thúc hoặc hành vi này không phải là yêu cầu để chẩn đoán, vì nhiều người mắc bệnh này phủ nhận bất kỳ sự đau khổ hoặc suy chức năng nào.

  • Người  16 tuổi và  5 tuổi so với đứa trẻ là mục tiêu của những tưởng tượng hoặc hành vi (nhưng loại trừ một vị thành niên lớn tuổi mà đang có quan hệ tình cảm với một người 12 hoặc 13 tuổi).

Bác sĩ lâm sàng phải xác định liệu

  • Bệnh nhân có sự hấp dẫn đặc biệt đối với trẻ em trước tuổi dậy thì (thể độc chiếm) hoặc bị thu hút bởi cả trẻ em và người lớn (loại không độc chiếm).

  • Bệnh nhân bị hấp dẫn tình dục bởi nam, nữ hoặc cả hai.

  • Những hành vi/sự thúc giục/tưởng tượng chỉ giới hạn ở mức loạn luân.

Việc xác định một bệnh nhân có khả năng là người ấu dâm đôi khi gây ra một cuộc khủng hoảng đạo đức cho các bác sĩ lâm sàng. Tuy nhiên, các bác sĩ lâm sàng có trách nhiệm bảo vệ cộng đồng trẻ em. Các bác sĩ lâm sàng cần phải biết các yêu cầu về việc báo cáo ở tiểu bang của họ. Nếu các bác sĩ lâm sàng có lý do hợp lý để nghi ngờ về việc lạm dụng tình dục hoặc thể chất trẻ em thì luật pháp yêu cầu phải báo cáo vụ việc đó cho chính quyền. Các yêu cầu báo cáo thay đổi theo quốc gia (xem Child Welfare Information Gateway).

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth Edition,Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC.

  • Trị liệu tâm lý cá nhân và/hoặc nhóm

  • Điều trị các rối loạn đồng diễn

  • Điều trị bằng thuốc (ví dụ: thuốc kháng androgen, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc [SSRI])

Trị liệu tâm lý cá nhân hoặc nhóm lâu dài, đặc biệt là liệu pháp nhận thức-hành vi, thường cần thiết và có thể đặc biệt hữu ích khi nó là một phần của điều trị đa phương thức bao gồm đào tạo kỹ năng xã hội, điều trị các rối loạn thể chất và tâm thần kèm theo và điều trị bằng thuốc.

Điều trị loạn dục với trẻ em ít hiệu quả hơn khi tòa án yêu cầu, mặc dù nhiều người phạm tội tình dục đã được xét xử đã được hưởng lợi từ các phương pháp điều trị, chẳng hạn như liệu pháp tâm lý nhóm và các thuốc kháng androgen. Một số phòng khám đã điều trị cho những bệnh nhân tự giới thiệu và theo lệnh của tòa án đã tích lũy các nghiên cứu theo dõi lâu dài bằng cách sử dụng phương pháp theo dõi ghi biến đổi thể tích khi tác động đến dương vật. Họ đã báo cáo những cải thiện đáng kể khi điều trị trong thời gian dài với tỷ lệ tái phạm thấp (1).

Một số người bị loạn dục với trẻ em ngại cam kết điều trị và giám sát có thể kiềm chế hoạt động loạn dục với trẻ em và có thể được tái hoà nhập vào xã hội. Những kết quả này có nhiều khả năng xảy ra hơn khi không có rối loạn tâm thần nào khác, đặc biệt là rối loạn nhân cách.

M Thuốc, trị liệu đang dùng (Medications)

Tại Hoa Kỳ, phương pháp điều trị được lựa chọn cho bệnh ấu dâm là

  • Medroxyprogesteron acetat giải phóng chậm

Bằng cách ngăn chặn tuyến yên sản xuất hormone tạo hoàng thể (LH) và hormone kích thích nang trứng (FSH), medroxyprogesterone làm giảm quá trình sản sinh ra testosterone và do đó làm giảm ham muốn tình dục.

Thuốc chủ vận hormone giải phóng Gonadotropin (GnRH) (ví dụ: leuprolide, goserelin), làm giảm quá trình sản sinh ra LH và FSH của tuyến yên và do đó làm giảm quá trình sản sinhtestosterone, cũng là một lựa chọn và cần tiêm bắp ít thường xuyên hơn (trong khoảng thời gian từ 1 tháng đến 6 tháng) hơn medroxyprogesterone (2). Tuy nhiên, chi phí thường cao hơn đáng kể.

Cyproterone acetate, thuốc chặn thụ thể testosterone, được sử dụng ở Châu Âu. Nồng độ testosteron trong huyết thanh nên được theo dõi và duy trì trong phạm vi nữ giới bình thường (< 62 ng/dL [2,15 nmol/L]) ở bệnh nhân nam. Việc điều trị thường kéo dài vì những tưởng tượng ấu dâm thường tái phát vài tuần đến vài tháng sau khi ngừng điều trị. Nên thực hiện các xét nghiệm về gan và theo dõi huyết áp, mật độ chất khoáng trong xương và công thức máu khi cần.

Tính hữu dụng của thuốc chống trầm cảm ở nữ loạn dục với trẻ em ít được biết đến.

Ngoài thuốc kháng androgen, dữ liệu hạn chế cho thấy SSRI có thể hữu ích (2).

Thuốc có hiệu quả nhất khi được sử dụng như một phần của chương trình điều trị đa phương thức bao gồm liệu pháp nhận thức-hành vi.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Federoff JP: Pedophilia: Interventions that work. Psychiatric Times 33(7): 2016.

2. Hall RCW, Hall RCW: A profile of pedophilia: Definition, characteristics of offenders, recidivism, treatment outcomes, and forensic issues. Mayo Clin Proc 82(4):457-471, 2007. doi: 10.4065/82.4.457

  • Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) hoặc clomipramine

  • Thuốc chống loạn thần (thường không điển hình)

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

Các nghiên cứu điều trị hội chứng tham chiếu khứu giác chủ yếu giới hạn ở các báo cáo trường hợp và loạt trường hợp nhỏ. Tuy nhiên, kinh nghiệm lâm sàng và bằng chứng sẵn có gợi ý rằng SSRI hoặc clomipramine, đơn độc hoặc được sử dụng cùng với thuốc chống loạn thần (ưu tiên loại không điển hình) nếu cần, và liệu pháp nhận thức-hành vi tương tự như liệu pháp điều trị rối loạn dị dạng cơ thể có thể hữu ích (1–3).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Begum M, McKenna PJ: Olfactory reference syndrome: a systematic review of the world literature. Psychol Med 41(3):453-461, 2011. doi: 10.1017/S0033291710001091

2. Teraishi T, Takahashi T, Suda T, et al: Successful treatment of olfactory reference syndrome with paroxetine. J Neuropsychiatry Clin Neurosci 24(1):E24, 2012. doi: 10.1176/appi.neuropsych.11020033

3. Michael S,  Boulton M, Andrews G: Two cases of olfactory reference syndrome responding to an atypical antipsychotic and SSRI. Aust N Z J Psychiatry48(9):878-879, 2014. doi: 10.1177/0004867414526791.

  • Bệnh nhân bận tâm với việc phát ra  1 mùi cơ thể được cảm nhận mà không rõ ràng hoặc chỉ xuất hiện nhẹ đối với người khác.

  • Bệnh nhân phản ứng với những lo ngại về mùi cơ thể của họ bằng cách thực hiện các hành vi lặp đi lặp lại (ví dụ, tắm quá nhiều, đánh răng, giặt quần áo) và/hoặc cố gắng ngụy trang mùi đã nhận biết (ví dụ, sử dụng quá nhiều nước hoa hoặc chất khử mùi).

  • Bệnh nhân thường kém hoặc không có tự thị.

  • Điều trị bằng cách sử dụng liệu pháp hành vi nhận thức tương tự như liệu pháp điều trị rối loạn dị dạng cơ thể và/hoặc liệu pháp dược lý với SSRI hoặc clomipramine, cùng với thuốc chống loạn thần không điển hình nếu cần.

Loạn dục với đồ vật là việc sử dụng một vật vô tri (tôn sùng) hoặc các bộ phận cơ thể không phải bộ phận sinh dục làm phương pháp ưa thích để tạo ra hưng phấn tình dục. Rối loạn loạn dục với đồ vật đề cập đến kích thích tình dục mãnh liệt, tái diễn do sử dụng một vật vô tri hoặc từ sự tập trung rất cụ thể vào một bộ phận (hoặc các bộ phận) cơ thể không thuộc cơ quan sinh dục gây ra tình trạng đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể về mặt lâm sàng ở một hoặc nhiều lĩnh vực quan trọng của cuộc sống.

Loạn dục với đồ vật là một dạng lệch lạc tình dục, nhưng hầu hết những người bị loạn dục với đồ vật không đáp ứng các tiêu chuẩn lâm sàng về rối loạn loạn dục với đồ vật, đòi hỏi hành vi, tưởng tượng hoặc sự thôi thúc mãnh liệt của người đó dẫn đến đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể về mặt lâm sàng. Tình trạng này cũng phải kéo dài  6 tháng.

Có rất nhiều món đồ tôn sùng; những món đồ tôn sùng phổ biến bao gồm tạp dề, giày, đồ da hoặc mủ cao su, bàn chân và quần áo lót của phụ nữ. Đối tượng tình dục là đồ vật có thể thay thế hoạt động tình dục thông thường với một người bạn tình hoặc có thể được tích hợp vào hoạt động tình dục với một người bạn tình tự nguyện. Hành vi loạn dục với đồ vật thứ yếu như là một sự bổ xung cho hành vi tình dục đồng thuận không được xem là một rối loạn vì không có tình trạng đau khổ, loạn hoạt năng, và rối loạn chức năng đáng kể. Các mô hình và hành vi kích thích loạn dục với đồ vật mang tính cưỡng bức cao, bắt buộc và mãnh liệt hơn có thể gây ra các vấn đề trong mối quan hệ hoặc trở nên hoàn toàn ám ảnh và gây hủy hoại cuộc sống của một con người.

Các món đồ tôn sùng có thể bao gồm quần áo của giới tính khác (ví dụ: đồ lót của phụ nữ), nhưng nếu kích thích tình dục xảy ra chủ yếu do mặc quần áo đó (tức là mặc đồ khác giới) thay vì sử dụng nó theo cách khác thì hành vi đó được coi là mặc quần áo của giới tính khác như một khuynh hướng tình dục.

  • Trị liệu tâm lý hoặc trị liệu cặp đôi

  • Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI)

Các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc và các chiến lược giảm androgen đã được sử dụng với thành công hạn chế ở một số bệnh nhân yêu cầu điều trị (1). Giống như hầu hết những người bị lệch lạc tình dục khác, rất ít người mắc chứng bệnh này tự nguyện tìm kiếm sự trợ giúp từ chuyên gia.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Eusei D, Delcea C: Fetishistic disorder. In Theoretical-Experimental Models in Sexual and Paraphilic Dysfunctions. Edited by Delea C. Int J Adv Stud Sexology 1(1):67-21, 2020 https://www.researchgate.net/publication/344473505 

Loạn dục cải trang liên quan đến sự kích thích tình dục tái diễn và mãnh liệt từ việc cải trang ngược giới tính, điều đó có thể là biểu thị của những tưởng tượng, sự thôi thúc hoặc hành vi. Rối loạn mặc quần áo của giới tính khác như một khuynh hướng tình dục là mặc quần áo của giới tính khác như một khuynh hướng tình dục gây ra đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể về mặt lâm sàng ở một hoặc nhiều lĩnh vực quan trọng của cuộc sống.

Người cải trang là một thuật ngữ thông dụng hơn và có thể chấp nhận được hơn là loạn dục cải trang. Bản thân việc mặc quần áo khác giới không được coi là một chứng rối loạn tâm thần. Mặc quần áo chéo xảy ra ở cả nam giới dị tính và đồng tính nam. Nó ít xảy ra hơn ở nữ giới, mặc dù họ có nhiều loại quần áo được coi là phù hợp với giới tính hơn. Những người không phải nhị phân mặc trang phục thường gắn liền với giới tính khác thường không tham gia vào việc “mặc quần áo khác giới”. Một số người mặc quần áo khác giới làm như vậy vì nhiều lý do mà bây giờ và có thể chưa bao giờ liên quan đến kích thích tình dục (ví dụ: trang phục). Tuy nhiên, đối với những người mặc quần áo khác giới gặp phải tình trạng đau khổ hoặc suy yếu đáng kể về mặt lâm sàng do bị thôi thúc hoặc hành vi mặc quần áo khác giới, chẩn đoán rối loạn mặc quần áo của giới tính khác như một khuynh hướng tình dục có thể phù hợp.

Những nam giới mặc quần áo của nữ giới thường bắt đầu hành vi như vậy trong thời thơ ấu. Có tới 3% số nam giới từng mặc đồ khác giới và bị kích thích tình dục ít nhất một lần, nhưng rất ít người cho biết họ thường xuyên mặc quần áo khác giới (1). Cải trang có liên quan, ít nhất là ban đầu, với sự kích thích tình dục mãnh liệt. Kích thích tình dục do chính quần áo tạo ra (không phải do mặc quần áo) được coi là một dạng loạn dục với đồ vật và có thể xảy ra cùng hoặc độc lập với việc mặc quần áo khác giới.

Các đặc tính nhân cách của những nam cải trang nói chung tương tự như các tiêu chuẩn thông thường về tuổi tác và chủng tộc. Phiền muộn giới tính phổ biến hơn ở nam giới có giới tính khi sinh bị tình trạng mặc quần áo của giới tính khác như một khuynh hướng tình dục. Những cá nhân như vậy có thể cho biết cảm giác thích thú khi mặc quần áo thường dành cho phụ nữ khi còn ở tuổi thiếu niên và giảm dần hoặc biến mất sau này khi lớn lên, kèm theo mong muốn được sống trọn vẹn với giới tính nữ. Một số người bị rối loạn mặc quần áo của giới tính khác như một khuynh hướng tình dục cũng có thể gặp phải chứng phiền muộn giới tính không liên tục liên quan đến mất mát, đau buồn, sử dụng chất gây nghiện hoặc trầm cảm.

Khi bạn tình của họ hợp tác hoặc sẵn sàng tham gia, nam giới cải trang có thể tham gia vào hoạt động tình dục trong một phần hoặc toàn bộ trang phục nữ giới. Khi đối tác của họ không hợp tác, họ có thể cảm thấy lo âu, trầm cảm, cảm thấy tội lỗi, và xấu hổ vì họ mong muốn cải trang và có thể trải nghiệm rối loạn chức năng tình dục trong mối quan hệ của họ. Để đối phó với những cảm nhận này, những người này thường thanh lọc tủ quần áo của họ bao gồm trang phục nữ. Sau việc thanh lọc này có thể là các chu kỳ bổ sung tích lũy quần áo, tóc giả và đồ trang điểm của phụ nữ, với nhiều cảm giác xấu hổ và tội lỗi hơn, sau đó là nhiều cuộc thanh lọc hơn.

Tài liệu tham khảo chung

1. Långström N, Zucker KZ: Transvestic fetishism in the general population: Prevalence and correlates. J Sex Marital Ther 31(2):87-95, 2005. doi: 10.1080/00926230590477934

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Chẩn đoán rối loạn mặc quần áo của giới tính khác như một khuynh hướng tình dục cần phải có các tiêu chuẩn sau (1):

  • Bệnh nhân bị kích thích mãnh liệt và thường xuyên khi mặc quần áo khác giới, biểu hiện bằng những tưởng tượng, sự thôi thúc hoặc hành vi mãnh liệt.

  • Những tưởng tượng, sự thôi thúc hoặc hành vi tình dục mãnh liệt này gây ra tình trạng đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng hoặc làm suy giảm chức năng tại nơi làm việc, trong các tình huống xã hội hoặc trong các lĩnh vực quan trọng khác của cuộc sống.

  • Tình trạng này kéo dài  6 tháng.

Bác sĩ lâm sàng phải xác định liệu

  • Loạn dục với đồ vật (kích thích tình dục bằng vải, chất liệu hoặc quần áo) hoặc chứng yêu bản thân như một phụ nữ (kích thích bởi suy nghĩ hoặc hình ảnh về bản thân là phụ nữ).

  • Bệnh nhân đang sống trong một môi trường được kiểm soát (ví dụ: cơ sở chăm sóc) hoặc thuyên giảm hoàn toàn (nghĩa là ít nhất 5 năm không bị đau khổ/suy giảm trong môi trường không được kiểm soát)

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth Edition,Text Revision (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC.

  • Các nhóm xã hội và các nhóm hỗ trợ

  • Đôi khi là tâm lý trị liệu

Hầu hết những người mặc quần áo khác giới đều không đến điều trị và hầu hết những người mặc quần áo khác giới đều không mắc chứng rối loạn tâm thần liên quan đến việc họ mặc quần áo khác giới. Những người có mặt để đánh giá hoặc điều trị thường do người phối ngẫu không hạnh phúc đưa đến, được tòa án giới thiệu hoặc tự giới thiệu vì lo ngại về việc phải gánh chịu những hậu quả tiêu cực về xã hội và việc làm. Một số người mặc đồ người khác giới được nhận biết khi họ điều trị rối loạn định dạng giớirối loạn sử dụng chất gây nghiện, hoặc trầm cảm.

Mặc dù không có nghiên cứu được kiểm soát, nhưng các nhóm xã hội và hỗ trợ, cả trực tiếp và trên internet, đối với những người đàn ông mặc đồ khác giới thường rất hữu ích (1, 2).

Không có loại thuốc nào có hiệu quả đáng tin cậy, mặc dù các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc đã được thử và đôi khi có lợi ở những bệnh nhân có thành phần ám ảnh cưỡng chế đáng kể trong biểu hiện lâm sàng của họ (3).

Tâm lý trị liệu, khi được chỉ định, nhằm mục đích giúp bệnh nhân tự chấp nhận, liệu pháp gia đình và điều chỉnh các hành vi nguy cơ.

Ở giai đoạn sau của cuộc đời, đôi khi ở những năm 50 tuổi hoặc 60 tuổi, những người nam cải trang có thể tìm kiếm chăm sóc y tế vì các triệu chứng phiền muộn giới và sau đó có thể đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán phiền muộn giới.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Newring K, Wheeler J, Draper C: Transvestic fetishism: Assessment and Treatment. In Sexual Deviance: Theory, Assessment, and Treatment, Edited by Laws DR and O’Donohue WT. Guilford Press. p. 285.

2. Moser C, Kleinplatz PJ: Transvestic fetishism: Psychopathology or iatrogenic artifact? NJ Psychologist, 52(2):16-17, 2002.

3. Balon Rez-Sierra D, Balgobin C, Wise TN: Treatment of paraphilic disorders. In Practical Guide to Paraphilia and Paraphilic Disorders. Edited by Balon R. Springer/Springer International Publishing AG. 2016 p. 43-62.

  • Hầu hết những người nam cải trang không đáp ứng các tiêu chuẩn lâm sàng của một rối loạn loạn dục cải trang.

  • Chỉ chẩn đoán rối loạn mặc quần áo của giới tính khác như một khuynh hướng tình dục nếu việc mặc quần áo khác giới gây ra tình trạng đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng hoặc làm suy giảm chức năng và tình trạng này đã tồn tại  6 tháng.

  • Không có loại thuốc nào có hiệu quả đáng tin cậy; các nhóm trị liệu tâm lý và hỗ trợ có thể hiệu quả.

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)

Rối loạn nhân cách

Những rối loạn nhân cách nói chung là các hình thái lan tỏa và kéo dài về suy nghĩ, nhận thức, phản ứng, và liên quan đến việc gây ra tình trạng đau khổ đáng kể hoặc suy giảm chức năng. Các rối loạn nhân cách khác nhau đáng kể trong các biểu hiện của chúng, nhưng tất cả đều được cho là do sự kết hợp của các yếu tố di truyền và môi trường. Nhiều rối loạn dần trở nên ít trầm trọng hơn theo độ tuổi, nhưng những đặc tính nhất định vẫn có thể tồn tại ở một mức độ nào đó sau các triệu chứng cấp tính dẫn đến việc gợi ý chẩn đoán giảm đi. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí lâm sàng. Điều trị bằng các liệu pháp tâm lý xã hội và đôi khi bằng thuốc.

Đặc tính nhân cách đại diện cho các mẫu suy nghĩ, nhận thức, phản ứng và các mối quan hệ có tính chất tương đối ổn định theo thời gian.

Rối loạn nhân cách tồn tại khi những đặc tính trở nên rõ ràng, cứng nhắc, và không thích nghi làm suy giảm chức năng tương tác cá nhân và/hoặc công việc. Những sự không thích nghi xã hội này có thể gây ra những khó chịu đáng kể với những người có rối loạn nhân cách và những người xung quanh họ. Đối với những người có rối loạn nhân cách (không giống như những người khác tìm kiếm đến sự tư vấn), nỗi đau khổ do hậu quả của hành vi không thích nghi xã hội của bản thân thường là lý do họ tìm kiếm đến sự điều trị, hơn là bất kỳ sự không thoải mái nào với những suy nghĩ và cảm xúc của họ. Do đó, đầu tiên bác sĩ lâm sàng phải giúp bệnh nhân nhận thấy rằng đặc tính nhân cách của họ là gốc rễ của vấn đề.

Rối loạn nhân cách thường bắt đầu trở nên rõ ràng trong giai đoạn muộn ở độ tuổi vị thành niên hoặc giai đoạn đầu ở độ tuổi người lớn, và các đặc tính và các triệu chứng của chúng khác nhau đáng kể về mức độ kéo dài của chúng; nhiều trường hợp cần thời gian để giải quyết. Các đặc tính và các triệu chứng của chúng khác nhau đáng kể về mức độ kéo dài của chúng; nhiều trường hợp cần thời gian để giải quyết.

Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, tái bản lần thứ 5, Bản sửa đổi Văn bản (DSM-5-TR) liệt kê 10 loại rối loạn nhân cách, mặc dù hầu hết bệnh nhân đáp ứng tiêu chuẩn cho một loại cũng đáp ứng tiêu chuẩn cho một hoặc nhiều loại khác. Một số loại (ví dụ, chống đối xã hộiranh giới) có xu hướng giảm bớt hoặc biến mất khi con người già đi; những người khác (ví dụ, ám ảnh cưỡng chế, tâm thần phân liệt) ít có khả năng làm như vậy.

Khoảng 9% dân số nói chung (1) và tới một nửa số bệnh nhân tâm thần ở các khoa của bệnh viện và phòng khám mắc chứng rối loạn nhân cách (2). Nhìn chung, không có sự khác biệt rõ ràng về giới tính, tầng lớp kinh tế xã hội và chủng tộc. Tuy nhiên, đối với rối loạn nhân cách chống đối xã hội, nam nhiều hơn nữ với tỷ lệ 3:1 (3). Trong rối loạn nhân cách ranh giới, tỷ lệ nữ nhiều hơn nam 3:1 (nhưng chỉ trong cơ sở lâm sàng, không phải trong dân số nói chung) (4).

Đối với hầu hết các rối loạn nhân cách, tỉ lệ di truyền khoảng 50%, tương đương hoặc cao hơn nhiều so với nhiều rối loạn tâm thần điển hình khác. Tỷ lệ di truyền này đối ngược với giả thuyết chung rằng các rối loạn nhân cách là những khiếm khuyết về nhân cách chủ yếu hình thành bởi một môi trường bất lợi.

Chi phí chăm sóc sức khỏe trực tiếp và các chi phí gián tiếp của việc mất năng suất lao động liên quan đến rối loạn nhân cách, đặc biệt là rối loạn nhân cách ranh giới và rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế, lớn hơn đáng kể so với các chi phí tương tự liên quan đến rối loạn trầm cảm điển hình hoặc rối loạn lo âu lan tỏa.

DSM-5-TR nhóm 10 loại rối loạn nhân cách thành 3 nhóm (A, B và C), dựa trên các đặc điểm tương tự. Tuy nhiên, sự hữu ích lâm sàng của các nhóm này vẫn chưa được thiết lập.

Nhóm A được đặc trưng bởi tính kỳ quặc hoặc lập dị. Nó bao gồm các rối loạn nhân cách sau đây với các đặc điểm phân biệt của chúng:

  • Hoang tưởng: Không tin tưởng và nghi ngờ

  • Phân liệt: Mất quan tâm đến người khác

  • Loại phân liệt: Ý tưởng và hành vi lập dị

Nhóm B được đặc trưng bởi tính kịch tính, xúc cảm, hoặc thất thường. Nó bao gồm các rối loạn nhân cách sau đây với các đặc điểm phân biệt của chúng:

  • Chống đối xã hội: Thiếu trách nhiệm với xã hội, không tôn trọng người khác, lừa dối, và thao túng người khác vì lợi ích cá nhân

  • Ranh giới: Sự trống rỗng bên trong, các mối quan hệ không ổn định và rối loạn điều chỉnh cảm xúc

  • Kịch tính: Tìm kiếm sự chú ý và cảm xúc quá mức

  • Tự yêu bản thân: Tự cao tự đại, cần được ngưỡng mộ và thiếu sự đồng cảm

Nhóm C được đặc trưng bởi đặc tính lo âu hoặc sợ hãi. Nó bao gồm các rối loạn nhân cách sau đây với các đặc điểm phân biệt của chúng:

  • Né tránh: Né tránh sự tiếp xúc giữa các cá nhân do tính nhạy cảm về sự bị từ chối

  • Phụ thuộc: Tính phục tùng và nhu cầu phải được chăm sóc

  • Ám ảnh nghi thức: Chủ nghĩa hoàn hảo, cứng nhắc, và sự bướng bỉnh

Tài liệu tham khảo chung

1. Lenzenweger MF, Lane MC, Loranger AW, et al: DSM-IV personality disorders in the National Comorbidity Survey Replication. Biol Psychiatry 62(6):553-564, 2007. doi: 10.1016/j.biopsych.2006.09.019

2. Zimmerman M, Chelminski I, Young D: The frequency of personality disorders in psychiatric patients. Psychiatr Clin North Am 31(3):405-220, 2008 vi. doi: 10.1016/j.psc.2008.03.015

3. Alegria AA, Blanco C, Petry NM, et al: Sex differences in antisocial personality disorder: Results from the National Epidemiological Survey on Alcohol and Related Conditions. Personal Disord 4(3):214-222, 2013. doi: 10.1037/a0031681

4. Sansone RA, Sansone LA: Gender patterns in borderline personality disorder. Innov Clin Neurosci 8(5):16-20, 2011. PMID: 21686143

Theo DSM-5-TR, rối loạn nhân cách chủ yếu là vấn đề về

  • Sự tự xác định bản thân

  • Hoạt động giữa các cá nhân

Các vấn đề tự xác định bản thân có thể biểu hiện như một hình ảnh không ổn định về bản thân (ví dụ như có người dao động bản thân giữa sự tự tế hay sự xấu xa) hoặc là những điểm không nhất quán trong các giá trị, mục tiêu và ngoại hình (ví dụ như có người có tính tôn giáo sâu sắc khi ở nhà thờ, nhưng lại báng bổ và thiếu tôn trọng ở những nơi khác).

Những vấn đề liên quan đến tương tác cá nhân thường biểu hiện bởi sự thất bại trong việc phát triển hoặc duy trì các mối quan hệ gần gũi và/hoặc thiếu nhạy cảm với người khác (ví dụ, không thể đồng cảm).

Những người có rối loạn nhân cách thường có vẻ không nhất quán, bối rối và bực bội đối với những người xung quanh họ (bao gồm cả các bác sĩ lâm sàng). Những người này có thể gặp khó khăn trong việc biết ranh giới giữa chính họ và những người khác. Lòng tự trọng của họ cao hay thấp một cách không thích hợp. Họ có thể có các hình thức nuôi dạy con không phù hợp, tách rời, quá xúc cảm, lạm dụng, hoặc không có trách nhiệm, có thể dẫn đến các vấn đề về thể chất và tinh thần ở vợ/chồng và/hoặc con cái của họ.

Những người bị rối loạn nhân cách thường thiếu hiểu biết sâu sắc về tác động của hành vi của họ đối với các mối quan hệ giữa các cá nhân.

  • Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, tái bản lần thứ 5, Tiêu chuẩn sửa đổi văn bản (DSM-5-TR)

Rối loạn nhân cách bị chẩn đoán thiếu. Khi những người bị rối loạn nhân cách tìm cách điều trị, những phàn nàn chủ yếu của họ thường là trầm cảm hoặc lo âu hơn là những biểu hiện của rối loạn nhân cách của họ. Một khi các nhà lâm sàng nghi ngờ có một rối loạn nhân cách, họ đánh giá các khuynh hướng nhận thức, cảm xúc, tương tác cá nhân và hành vi sử dụng các tiêu chuẩn chẩn đoán cụ thể. Có nhiều công cụ chẩn đoán tinh vi và thực nghiệm hơn dành cho các chuyên gia lâm sàng chuyên sâu hơn.

Chẩn đoán rối loạn nhân cách đòi hỏi một mô hình đặc điểm kém thích nghi dai dẳng, không linh hoạt và lan rộng liên quan đến  2 trong số các đặc điểm sau (1):

  • Nhận thức (tức là cách nhận thức và giải thích bản thân, người khác và các sự kiện)

  • Ảnh hưởng (tức là phạm vi, cường độ, khả năng không ổn định và sự phù hợp của phản ứng cảm xúc)

  • Hoạt động giữa các cá nhân

  • Kiểm soát xung động

  • Mô hình dai dẳng của các đặc điểm kém thích nghi phải gây ra đau khổ đáng kể hoặc suy giảm chức năng trong các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp và các lĩnh vực quan trọng khác.

  • Kiểu này ổn định và khởi phát sớm (bắt nguồn từ ít nhất là ở tuổi thiếu niên hoặc đầu tuổi trưởng thành)

Ngoài ra, phải loại trừ các nguyên nhân khác gây ra các triệu chứng này (ví dụ như rối loạn sức khỏe tâm thần khác, sử dụng chấtchấn thương đầu).

Để chẩn đoán rối loạn nhân cách ở bệnh nhân < 18 tuổi, dạng rối loạn này phải tồn tại  1 năm, ngoại trừ rối loạn nhân cách chống đối xã hội, không thể chẩn đoán được ở bệnh nhân < 18 tuổi.

Do nhiều bệnh nhân rối loạn nhân cách thiếu hiểu biết sâu sắc về tình trạng của họ nên bác sĩ lâm sàng có thể cần hỏi bệnh sử từ các bác sĩ lâm sàng khác đã từng điều trị cho những bệnh nhân này trước đây, thành viên gia đình, bạn bè hoặc những người khác có tiếp xúc với họ.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp. 733-737.

  • Tâm lý trị liệu

  • Đôi khi thuốc điều trị các triệu chứng cụ thể hoặc rối loạn tâm thần kèm theo

Tiêu chuẩn vàng điều trị rối loạn nhân cách là liệu pháp tâm lý. Cả trị liệu tâm lý cá nhân và nhóm đều có hiệu quả đối với nhiều loại rối loạn nếu bệnh nhân tìm kiếm sự điều trị và có động cơ để thay đổi.

Thông thường, rối loạn nhân cách không đáp ứng tốt với thuốc, mặc dù một số loại thuốc có thể tác động hiệu quả đến các triệu chứng cụ thể (ví dụ như trầm cảm, lo âu).

Rối loạn thường xảy ra đồng thời với rối loạn nhân cách (ví dụ như rối loạn trầm cảmlo âu, rối loạn lạm dụng chất kích thích, rối loạn triệu chứng cơ thể và rối loạn ăn uống) có thể làm cho điều trị trở nên khó khăn, kéo dài thời gian cho sự thuyên giảm, tăng nguy cơ tái phát và mặt khác giảm đáp ứng với các điều trị hiệu quả. Để biết các phương pháp điều trị thường được sử dụng cho từng rối loạn, xem bảng Điều trị rối loạn nhân cách.

Nguyên tắc chung trong điều trị

Nói chung, điều trị rối loạn nhân cách nhằm mục đích

  • Giảm bớt khó chịu chủ quan

  • Giúp bệnh nhân hiểu rằng vấn đề của họ là bên trong bản thân họ

  • Giảm đáng kể các hành vi không thích nghi và không thích hợp về mặt xã hội

  • Điều chỉnh các đặc tính nhân cách có vấn đề

Giảm sự khó chịu chủ quan (ví dụ, lo âu, trầm cảm) là mục tiêu đầu tiên. Những triệu chứng này thường đáp ứng với sự hỗ trợ tâm lý xã hội gia tăng, thường bao gồm việc đưa bệnh nhân ra khỏi các tình huống căng thẳng hoặc mối quan hệ căng thẳng. Liệu pháp dùng thuốc cũng có thể giúp giảm căng thẳng. Giảm căng thẳng giúp điều trị các rối loạn nhân cách tiềm ẩn dễ dàng hơn.

Nỗ lực giúp bệnh nhân nhận ra rằng vấn đề của họ là do nội tại cần được thực hiện sớm. Bệnh nhân cần hiểu rằng các vấn đề của họ trong công việc hoặc các mối quan hệ là do cách họ liên hệ với thế giới không thích hợp (ví dụ như với nhiệm vụ, với quyền lực hoặc trong các mối quan hệ thân mật). Đạt được sự hiểu biết như vậy đòi hỏi phải có một khoảng thời gian, sự kiên nhẫn và cam kết đáng kể của bác sĩ lâm sàng. Các bác sĩ cũng cần có sự hiểu biết cơ bản về các lĩnh vực nhạy cảm về cảm xúc của bệnh nhân và cách đối phó thông thường của bệnh nhân. Các thành viên trong gia đình và bạn bè có thể giúp xác định những vấn đề mà bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng không biết đến.

Điều trị rối loạn nhân cách

Chẩn đoán

Tâm lý trị liệu

M Thuốc, trị liệu đang dùng (Medications)

Chống đối xã hội*

Liệu pháp nhận thức-hành vi

Quản lý dự phòng

Thuốc chống trầm cảm (SSRI)

Thuốc chỉnh khí sắc (lithium, valproat)

Né tránh

Liệu pháp tâm lý động

Liệu pháp tâm lý hỗ trợ

Liệu pháp nhận thức-hành vi

Thuốc chống trầm cảm (MAOI, SSRI)

Thuốc giảm lo âu

Ranh giới

Quản lý tâm thần chung và các cách tiếp cận quản lý lâm sàng cấu trúc khác

Liệu pháp tâm lý hỗ trợ

Liệu pháp hành vi biện chứng

Phương pháp trị liệu dựa trên sự tâm thần hóa

Liệu pháp tâm lý tập trung vào sự di chuyển

Liệu pháp tập trung vào giản đồ

Đào tạo hệ thống để dự đoán cảm xúc và giải quyết vấn đề

Thuốc chỉnh khí sắc (lamotrigin, topiramat) đối với các triệu chứng cảm xúc, xung động, và lo âu

Thuốc an thần kinh không điển hình (thế hệ 2) để điều trị các triệu chứng loạn thần tạm thời, điều chỉnh tâm trạng và các vấn đề tức giận

Thuốc chống trầm cảm (không có hại nhưng có hiệu quả hạn chế)

Tránh dùng benzodiazepin và các chất kích thích

Phụ thuộc

Liệu pháp tâm lý động

Liệu pháp nhận thức-hành vi

Thuốc chống trầm cảm (MAOI, SSRI)

Kịch tính

Liệu pháp tâm lý động

Ái kỷ

Liệu pháp tâm lý động

Phương pháp trị liệu dựa trên sự tâm thần hóa

Liệu pháp tâm lý tập trung vào sự di chuyển

Ám ảnh nghi thức

Liệu pháp tâm lý động

Liệu pháp nhận thức-hành vi

Thuốc chống trầm cảm (SSRI)

Hoang tưởng

Liệu pháp tâm lý hỗ trợ

Liệu pháp nhận thức-hành vi

Thuốc chống trầm cảm

Thuốc an thần kinh không điển hình

Phân liệt

Liệu pháp tâm lý hỗ trợ

Đào tạo kỹ năng xã hội

Loại phân liệt

Liệu pháp tâm lý hỗ trợ

Đào tạo kỹ năng xã hội

Liệu pháp nhận thức-hành vi giúp quản lý lo âu

Thuốc an thần kinh không điển hình

* Vẫn còn tranh cãi về việc liệu rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể điều trị được hay không.

MAOI = thuốc ức chế monoamine oxidase; SSRI = thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc.

Những hành vi không thích nghi và không mong muốn (ví dụ, thiếu thận trọng, cô lập xã hội, thiếu quyết đoán, bùng nổ) nên nhanh chóng giải quyết để giảm thiểu việc ảnh hưởng đến công việc và mối quan hệ hiện tại. Thay đổi hành vi là quan trọng nhất đối với những bệnh nhân bị rối loạn nhân cách sau đây:

  • Ranh giới

  • Chống đối xã hội

  • Né tránh

Hành vi thường có thể được cải thiện trong vòng vài tháng bằng liệu pháp nhóm và thay đổi hành vi; giới hạn về hành vi thường phải được thiết lập và tuân theo. Đôi khi bệnh nhân được điều trị trong bệnh viện ban ngày hoặc khu nhà ở. Các nhóm tự lực hoặc liệu pháp gia đình cũng có thể giúp thay đổi hành vi không mong muốn về mặt xã hội. Bởi vì các thành viên trong gia đình và bạn bè có thể hành động theo cách củng cố hoặc làm giảm bớt hành vi hoặc suy nghĩ không thích hợp của bệnh nhân nên việc tham gia của họ rất hữu ích; kèm theo huấn luyện, họ có thể là đồng minh trong việc điều trị.

Việc sửa đổi các đặc điểm tính cách không thích ứng (ví dụ: phụ thuộc, nghi ngờ, kiêu ngạo, lôi kéo) thường mất > 1 năm. Nền tảng để thực hiện sự thay đổi đó là liệu pháp tâm lý cá nhân.

Trong quá trình điều trị, bác sĩ lâm sàng cố gắng xác định các vấn đề về mối quan hệ giữa các cá nhân như khi chúng xảy ra trong đời sống của bệnh nhân. Các bác sĩ sẽ giúp bệnh nhân hiểu được những vấn đề này liên quan đến tính cách của họ như thế nào và cung cấp đào tạo kỹ năng để phát triển những cách tương tác mới tốt hơn. Thông thường, bác sĩ lâm sàng phải chỉ ra nhiều lần các hành vi không mong muốn và hậu quả của chúng trước khi bệnh nhân nhận thức được chúng. Chiến lược này có thể giúp bệnh nhân thay đổi hành vi không thích nghi và nhầm lẫn niềm tin. Mặc dù các bác sĩ lâm sàng nên tác động với sự nhạy cảm, họ nên biết rằng sự tử tế và lời khuyên nhạy cảm của họ không làm thay đổi các rối loạn nhân cách.

  • Rối loạn nhân cách bao gồm các tính cách cứng nhắc, không thích nghi được cho là đủ để gây ra tình trạng đau khổ đáng kể hoặc làm suy giảm đến công việc và/hoặc chức năng tương tác giữa các cá nhân.

  • Các phương pháp trị liệu trở nên hiệu quả chỉ sau khi bệnh nhân thấy rằng các vấn đề của họ là ở bên trong chính họ, không chỉ là các nguyên nhân bên ngoài.

  • Trị liệu tâm lý xã hội là trụ cột của điều trị.

  • Thuốc chỉ giúp kiểm soát các triệu chứng cụ thể trong một số trường hợp nhất định – ví dụ: để kiểm soát tình trạng lo lắng đáng kể, cơn giận dữ bộc phát và trầm cảm.

  • Rối loạn nhân cách thay đổi chậm và có thể dần dần trở nên ít nghiêm trọng hơn theo thời gian.

Rối loạn nhân cách hoang tưởng được đặc trưng bởi một dạng phổ biến của mất lòng tin và nghi ngờ không chính đáng đối với người khác, liên quan đến việc giải thích động cơ của họ là ác ý. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị bằng liệu pháp nhận thức-hành vi và đôi khi dùng thuốc.

Bệnh nhân bị rối loạn nhân cách hoang tưởng không tin tưởng vào người khác và cho rằng những người khác có ý định làm hại hoặc đánh lừa họ, ngay cả khi họ không có hoặc không đủ sự biện minh cho những cảm giác này.

Tỷ lệ lưu hành trung vị ước tính là 3,2% nhưng có thể cao tới 4,4% (1, 2). Nó được cho là phổ biến hơn ở nam giới.

Có một số bằng chứng về sự gia tăng tỷ lệ trong gia đình. Một số bằng chứng cho thấy mối liên hệ giữa rối loạn này và sự lạm dụng tình cảm và/hoặc thể chất và sự đối xử tàn nhẫn trong thời thơ ấu.

Bệnh lý đồng diễn là phổ biến. Rối loạn nhân cách hoang tưởng hiếm khi được chẩn đoán đơn độc. Các bệnh đi kèm thường gặp bao gồm rối loạn suy nghĩ (ví dụ: tâm thần phân liệt), rối loạn lo âu (ví dụ: ám ảnh sợ xã hội [rối loạn lo âu xã hội]), rối loạn căng thẳng sau chấn thươngrối loạn sử dụng rượu và rối loạn nhân cách khác (ví dụ: rối loạn nhân cách ranh giới).

Tài liệu tham khảo chung

1. Grant BF, Hasin DS, Stinson FS, et al: Prevalence, correlates, and disability of personality disorders in the United States: Results from the national epidemiologic survey on alcohol and related conditions. J Clin Psychiatry 65(7):948-958, 2004. doi: 10.4088/jcp.v65n0711

2. Morgan TA, Zimmerman M: Epidemiology of personality disorders. In Handbook of Personality Disorders: Theory, Research, and Treatment. 2nd ed, edited by WJ Livesley, R Larstone, New York, NY: The Guilford Press, 2018, pp. 173-196.

Bệnh nhân bị rối loạn nhân cách hoang tưởng nghi ngờ rằng những người khác đang có kế hoạch khai thác, đánh lừa hoặc làm hại họ. Họ cảm thấy rằng họ có thể bị tấn công bất cứ lúc nào và không có lý do. Mặc dù có ít hoặc không có bằng chứng, nhưng họ vẫn dai dẳng duy trì những nghi ngờ và suy nghĩ của họ.

Thông thường, những bệnh nhân này nghĩ rằng những người khác có nhiều ý định làm tổn thương họ. Họ luôn cảnh giác với những lời phỉ báng tiềm tàng, sự coi thường, những mối đe dọa, và sự không trung thành và tìm kiếm những ý nghĩa ẩn trong nhận xét và hành động. Họ xem xét kỹ lưỡng những người khác để tìm kiếm bằng chứng ủng hộ những nghi ngờ của họ. Ví dụ, họ có thể giải thích sai một lời đề nghị giúp đỡ như hàm ý rằng họ không thể tự thực hiện nhiệm vụ. Nếu họ nghĩ rằng họ đã bị sỉ vả hoặc bị tổn thương bằng bất kỳ cách nào, họ sẽ không tha thứ cho người đã làm tổn thương họ. Họ có xu hướng phản công hoặc trở nên giận dữ khi phản ứng với những điều mà họ nghĩ là bị làm tổn thương. Bởi vì họ không tin tưởng vào người khác, họ cảm thấy cần sự tự trị và trong tầm kiểm soát.

Những bệnh nhân này do dự để tin tưởng hoặc phát triển mối quan hệ gần gũi với người khác vì họ lo lắng rằng thông tin có thể được sử dụng để chống lại họ. Họ nghi ngờ lòng trung thành của bạn bè và sự trung thành của vợ/chồng hoặc bạn tình của họ. Họ có thể rất ghen và có thể liên tục đặt câu hỏi về các hoạt động và động cơ của vợ/chồng hoặc bạn tình của họ trong nỗ lực để biện minh cho tính ghen tuông của họ.

Bệnh nhân mắc chứng rối loạn nhân cách hoang tưởng thường gặp khó khăn trong các mối quan hệ giữa các cá nhân. Khi những người khác phản ứng tiêu cực với họ, họ lấy những phản ứng này như là xác nhận những nghi ngờ ban đầu của họ.

Cả hai yếu tố di truyền và môi trường (ví dụ, lạm dụng trong thời thơ ấu) đều góp phần vào sự phát triển của rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Một cơ chế có thể là bốc đồng hơn là gây hấn có kế hoạch, liên quan đến chức năng vận chuyển serotonin bất thường. Không quan tâm đến sự đau đớn của người khác trong thời thơ ấu có liên quan với hành vi chống đối xã hội vào giai đoạn sau của thời kì thanh thiếu niên.

Rối loạn nhân cách chống đối xã hội phổ biến hơn ở những người thân có quan hệ huyết thống bậc một của bệnh nhân mắc chứng rối loạn này so với dân số nói chung (1). Nguy cơ phát triển rối loạn này tăng lên ở cả trẻ được nhận nuôi và cả trẻ là con đẻ của cha mẹ có rối loạn.

Nếu rối loạn hành vi kèm theo rối loạn tăng động giảm chú ý phát triển trước 10 tuổi, nguy cơ phát triển rối loạn nhân cách chống đối xã hội ở tuổi trưởng thành sẽ tăng lên (2). Nguy cơ rối loạn hành vi tiến triển thành rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể tăng lên khi cha mẹ lạm dụng hoặc bỏ bê trẻ hoặc không nhất quán trong kỷ luật hoặc phong cách nuôi dạy con cái (ví dụ: chuyển từ nồng nhiệt và hỗ trợ sang lạnh lùng và chỉ trích [3]).

Tài liệu tham khảo về căn nguyên

1. Polderman TJC, Benyamin B,  de Leeuw CA, et al: Meta-analysis of the heritability of human traits based on fifty years of twin studies. Nat Genet 47(7):702-709, 2015. doi: 10.1038/ng.3285

2. Storebø OJ, Simonsen EJ: The association between ADHD and antisocial personality disorder (ASPD): A review. Atten Disord: 20(10):815-24, 2016. doi: 10.1177/0194599819859885

3. Reti IM, Samuels JF, Eaton WW, et al: Adult antisocial personality traits are associated with experiences of low parental care and maternal overprotection. Acta Psychiatr Scand 106(2):126-133, 2002. doi: 10.1034/j.1600-0447.2002.02305.x

  • Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, tái bản lần thứ 5, Tiêu chuẩn sửa đổi văn bản (DSM-5-TR)

Để chẩn đoán rối loạn nhân cách hoang tưởng (1), bệnh nhân phải có

  • Không tin tưởng và nghi ngờ người khác

Tình trạng không tin tưởng và nghi ngờ này được thể hiện qua sự hiện diện của  4 trong số những điều sau đây (1):

  • Những nghi ngờ không có lý lẽ rằng những người khác đang khai thác, làm tổn thương hoặc lừa dối họ

  • Sự bận tâm với những nghi ngờ không có căn cứ về độ tin cậy của bạn bè và đồng nghiệp của họ

  • Sự miễn cưỡng tin tưởng người khác vì sợ rằng thông tin được sử dụng chống lại họ

  • Giải thích sai những nhận xét hoặc sự kiện ôn hòa là có ý làm giảm giá trị, thù địch, hoặc đe dọa tiềm ẩn

  • Giữ những thù hận vì những lời xúc phạm, sự làm tổn thương, hoặc sự coi thường

  • Sẵn sàng nghĩ rằng tính cách hoặc danh tiếng của họ đã bị tấn công và nhanh chóng phản ứng giận dữ hoặc phản công

  • Những nghi ngờ thường xuyên, không hợp lý rằng vợ/chồng hoặc bạn tình của họ không chung thủy

Ngoài ra, các triệu chứng phải bắt đầu từ giai đoạn sớm của thời kì trưởng thành.

Chẩn đoán phân biệt

Các bác sĩ lâm sàng có thể phân biệt rối loạn nhân cách hoang tưởng với những rối loạn nhân cách khác bởi sự lan tỏa những hoang tưởng đối với những người khác (ví dụ như trái ngược với hoang tưởng tạm thời của nhân cách ranh giới) bởi đặc điểm cốt lõi của mỗi rối loạn:

  • Rối loạn nhân cách phân liệt: Không quan tâm (như trái ngược với sự không tin tưởng trong hoang tưởng)

  • Rối loạn nhân cách loại phân liệt: Ý tưởng, lời nói và hành vi kì quặc

  • Rối loạn nhân cách ranh giới: Sự phụ thuộc

  • Rối loạn nhân cách ái kỷ: Sự tự cao

  • Rối loạn nhân cách chống đối xã hội: Sự bóc lột

  • Rối loạn nhân cách né tránh: Lo sợ bị từ chối

Rối loạn nhân cách hoang tưởng có thể được phân biệt với rối loạn hoang tưởng (loại hoang tưởng bị hại), bệnh tâm thần phân liệt và rối loạn trầm cảm hoặc rối loạn lưỡng cực các đặc trưng loạn thần bởi vì trong những rối loạn này, các giai đoạn triệu chứng loạn thần (hoang tưởng, ảo giác) là nổi bật.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp 737-741.

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

  • Đôi khi dùng các loại thuốc giảm đau

Nguyên tắc chung trong điều trị rối loạn nhân cách hoang tưởng cũng giống như nguyên tắc điều trị cho tất cả các rối loạn nhân cách.

Không có phương pháp điều trị nào được chứng minh có hiệu quả đối với rối loạn nhân cách hoang tưởng.

Mức độ cao của sự nghi ngờ và không tin tưởng của bệnh nhân khiến việc thiết lập mối quan hệ gặp phải khó khăn. Thể hiện sự thừa nhận bất kỳ giá trị nào trong sự nghi ngờ của bệnh nhân có thể tạo điều kiện cho một mối quan hệ giữa bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng. Liên minh này sau đó có thể cho phép bệnh nhân tham gia liệu pháp nhận thức-hành vi hoặc sẵn sàng dùng bất kỳ loại thuốc nào (ví dụ: thuốc chống trầm cảm, thuốc chống loạn thần không điển hình) được kê đơn để điều trị các triệu chứng cụ thể. Thuốc chống loạn thần không điển hình (thế hệ 2) có thể giúp giảm lo lắng (1) mặc dù chưa có nghiên cứu đối chứng giả dược nào chứng minh được hiệu quả.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Birkeland SF: Psychopharmacological treatment and course in paranoid personality disorder: A case series. Int Clin Psychopharmacol 28(5):283-285, 2013. doi: 10.1097/YIC.0b013e328363f676

Rối loạn nhân cách phân liệt được đặc trưng bởi một hình thái lan tỏa của sự tách rời và không quan tâm trong các mối quan hệ xã hội và một phạm vi giới hạn của cảm xúc trong mối quan hệ giữa các cá nhân. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị bằng liệu pháp nhận thức – hành vi.

Trong rối loạn nhân cách phân liệt, khả năng liên kết với người khác một cách ý nghĩa là rất hạn chế.

Tỷ lệ hiện mắc trung vị ước tính là 0,9% nhưng có thể cao tới 3,1% (1, 2). Một số nghiên cứu cho thấy nó phổ biến hơn một chút ở nam giới, trong khi các nghiên cứu khác không tìm thấy sự khác biệt về giới tính. Rối loạn này có thể phổ biến hơn ở những người có tiền sử gia đình mắc bệnh tâm thần phân liệt hoặc rối loạn nhân cách loại phân liệt.

Bệnh lý đồng diễn là phổ biến. Có tới một nửa số bệnh nhân đã có ít nhất một giai đoạn trầm cảm nặng. Họ cũng thường mắc các chứng rối loạn nhân cách khác, phổ biến nhất là bệnh tâm thần phân liệthoang tưởngranh giới hoặc né tránh.

Tài liệu tham khảo chung

1. Grant BF, Hasin DS, Stinson FS, et al: Prevalence, correlates, and disability of personality disorders in the United States: Results from the national epidemiologic survey on alcohol and related conditions. J Clin Psychiatry 65(7):948-958, 2004. doi: 10.4088/jcp.v65n0711

2. Morgan TA, Zimmerman M: Epidemiology of personality disorders. In Handbook of Personality Disorders: Theory, Research, and Treatment. 2nd ed, edited by WJ Livesley, R Larstone, New York, NY: The Guilford Press, 2018, pp. 173-196.

Có những người chăm sóc lạnh lùng về cảm xúc, bỏ rơi và không gắn bó trong giai đoạn thơ ấu có thể góp phần vào sự phát triển của rối loạn nhân cách phân liệt bằng cách thúc đẩy cảm giác của trẻ rằng các mối quan hệ giữa các cá nhân là không thú vị.

Bệnh nhân rối loạn nhân cách phân liệt dường như không có mong muốn xây dựng mối quan hệ gần gũi với người khác, kể cả người thân. Họ không có bạn bè thân thiết hoặc người bạn tâm tình, ngoại trừ đôi khi là một người họ hàng đời thứ 1. Họ hiếm khi hẹn hò và thường không kết hôn. Họ thích tự mình, lựa chọn các hoạt động và sở thích mà không cần tương tác với người khác (ví dụ, trò chơi máy tính). Hoạt động tình dục với người khác rất ít, nếu có, thật sự quan tâm đến họ. Họ cũng cảm thấy ít hứng thú hơn với sự nhận cảm và những trải nghiệm thể xác (ví dụ như đi bộ trên bãi biển).

Những bệnh nhân này dường như không bận tâm bởi những gì người khác nghĩ về họ – dù là tốt hay xấu. Bởi vì họ không nhận thấy các dấu hiệu thông thường của sự tương tác xã hội, họ có thể dường như lạc lõng, biệt lập xã hội, hoặc chỉ quan tâm đến bản thân. Họ hiếm khi phản ứng (ví dụ bằng cách mỉm cười hoặc gật đầu) hoặc thể hiện cảm xúc trong các tình huống xã hội. Họ khó có thể biểu lộ sự tức giận, ngay cả khi họ bị kích động. Họ không phản ứng thích hợp với các sự kiện quan trọng trong cuộc sống và có vẻ như thụ động phản ứng lại với những thay đổi trong hoàn cảnh. Kết quả là, họ có vẻ như không có phương hướng trong cuộc sống của họ.

Hiếm khi những bệnh nhân này cảm thấy thoải mái khi bộc lộ bản thân, họ thừa nhận rằng họ cảm thấy đau đớn, đặc biệt là trong các giao tiếp xã hội.

Các triệu chứng của rối loạn nhân cách phân liệt có khuynh hướng ổn định theo thời gian, nhiều hơn so với những rối loạn nhân cách khác.

  • Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, tái bản lần thứ 5, Tiêu chuẩn sửa đổi văn bản (DSM-5-TR)

Để chẩn đoán rối loạn nhân cách phân liệt (1), bệnh nhân phải có một dạng rối loạn nhân cách dai dẳng.

  • Sự tách rời và không quan tâm đến các mối quan hệ xã hội

  • Hạn chế biểu hiện cảm xúc trong tương tác giữa các cá nhân

Mô hình này được thể hiện bằng sự hiện diện của  4 trong số những điều sau:

  • Không có ham muốn hay sự thích thú đối với các mối quan hệ thân thiết, bao gồm cả những thành viên trong gia đình

  • Đặc biệt ưa thích những hoạt động một mình

  • Ít, nếu có, hoặc không quan tâm đến hoạt động tình dục với người khác

  • Thích thú với rất ít các hoạt động, nếu có

  • Thiếu những người bạn thân hay những người bạn tâm tình, ngoại trừ những người họ hàng bậc 1 của họ

  • Thờ ơ rõ ràng với lời khen ngợi hoặc chỉ trích của người khác

  • Tình cảm lạnh lùng, tách biệt, hoặc cùn mòn cảm xúc

Ngoài ra, các triệu chứng phải bắt đầu từ giai đoạn sớm của thời kì trưởng thành.

Chẩn đoán phân biệt

Các bác sĩ nên phân biệt rối loạn nhân cách phân liệt với các rối loạn sau:

  • Tâm thần phân liệt và các rối loạn liên quan: Bệnh nhân bị rối loạn nhân cách phân liệt, không giống như những người bị tâm thần phân liệt, không có rối loạn nhận thức hoặc tri giác (ví dụ, hoang tưởng, ảo giác).

  • Rối loạn phổ tự kỷ: Sự suy yếu về mặt xã hội và các hành vi định hình hoặc những mối quan tâm rập khuôn ít nổi bật hơn ở những bệnh nhân rối loạn nhân cách phân liệt.

  • Rối loạn nhân cách loại phân liệt: Rối loạn này được đặc trưng bởi nhận thức và suy nghĩ sai lệch; những đặc trưng này không có trong rối loạn nhân cách phân liệt.

  • Rối loạn nhân cách né tránh: Sự cô lập xã hội trong rối loạn nhân cách phân liệt là do sự tách rời và sự mất quan tâm trong các mối quan hệ xã hội trong khi trong rối loạn nhân cách né tránh, đó là do sợ bị xấu hổ hoặc bị từ chối.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp 741-744.

  • Đào tạo kỹ năng xã hội

Nguyên tắc chung để điều trị rối loạn nhân cách phân liệt cũng giống như nguyên tắc điều trị cho tất cả các rối loạn nhân cách.

Không có nghiên cứu có kiểm soát nào được công bố về liệu pháp tâm lý hoặc dược lý đối với chứng rối loạn nhân cách phân liệt.

Nói chung, những nỗ lực để chia sẻ sự quan tâm đến các chủ đề không phải là cá nhân (ví dụ, tài sản, sưu tập, sở thích) thu hút những người thích các hoạt động một mình có thể giúp thiết lập mối quan hệ với bệnh nhân và có thể tạo điều kiện cho sự tương tác trị liệu.

Các phương pháp nhận thức-hành vi tập trung vào việc đào tạo các kỹ năng xã hội cũng có thể giúp bệnh nhân thay đổi. Vì bệnh nhân bị rối loạn nhân cách phân liệt thiếu sự quan tâm đến người khác nên họ có thể không có động lực thay đổi.

Rối loạn nhân cách loại phân liệt được đặc trưng bởi một hình thái lan tỏa của sự khó chịu dữ dội và giảm khả năng cho các mối quan hệ gần gũi, do nhận thức và cảm nhận sai lầm, và do hành vi lập dị. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị bằng thuốc (ví dụ: thuốc chống loạn thần, thuốc chống trầm cảm), liệu pháp nhận thức-hành vi và đôi khi là liệu pháp tâm lý hỗ trợ.

Trong rối loạn nhân cách loại phân liệt, trải nghiệm nhận thức phản ánh sự hoa mĩ xa rời thực tế (ví dụ, ý tưởng liên hệ, ý tưởng hoang tưởng, ảo tưởng cơ thể, tư duy huyền diệu) và một sự rối loạn lớn hơn về tư duy và lời nói hơn là xảy ra trong các rối loạn nhân cách khác.

Tỷ lệ hiện mắc trung vị ước tính là 0,6% nhưng có thể cao tới 3,9% (1, 2). Rối loạn này có thể phổ biến hơn một chút ở nam giới.

Bệnh lý đồng diễn là phổ biến. Hơn một nửa số bệnh nhân bị rối loạn nhân cách loại phân liệt đã có  1 giai đoạn rối loạn trầm cảm điển hình, và 30 đến 50% trong số họ có rối loạn trầm cảm nặng khi rối loạn nhân cách loại phân liệt được chẩn đoán. Những bệnh nhân này thường có rối loạn sử dụng chất.

Tài liệu tham khảo chung

1. Pulay AJ, Stinson FS, Dawson DA, et al: Prevalence, correlates, disability, and comorbidity of DSM-IV schizotypal personality disorder: Results from the wave 2 national epidemiologic survey on alcohol and related conditions. Prim Care Companion J Clin Psychiatry 11(2):53-67, 2009. doi: 10.4088/pcc.08m00679

2. Morgan TA, Zimmerman M: Epidemiology of personality disorders. In Handbook of Personality Disorders: Theory, Research, and Treatment. 2nd ed, edited by WJ Livesley, R Larstone, New York, NY: The Guilford Press, 2018, pp. 173-196.

Nguyên nhân của rối loạn nhân cách loại phân liệt chủ yếu được cho là nguyên nhân sinh học bởi vì nó có nhiều bất thường não bộ đặc trưng của tâm thần phân liệt. Rối loạn này phổ biến hơn trong số các họ hàng bậc một của người bị tâm thần phân liệt hoặc rối loạn tâm thần khác.

Bệnh nhân rối loạn nhân cách dạng phân liệt không có bạn thân hoặc người bạn tâm giao, ngoại trừ người thân có quan hệ huyết thống bậc một. Họ rất khó chịu khi tiếp xúc với mọi người. Họ chỉ tương tác với mọi người nếu họ phải làm như vậy nhưng thường là không thích vì họ cảm thấy họ khác và không thuộc về họ. Tuy nhiên, họ có thể nói rằng việc thiếu các mối quan hệ khiến họ không vui. Họ rất lo lắng trong các tình huống xã hội, đặc biệt là với những người không quen. Dành nhiều thời gian hơn trong một tình huống không làm giảm sự lo âu của họ.

Những bệnh nhân này thường giải thích không chính xác những sự kiện thông thường như có ý nghĩa đặc biệt đối với họ (ý tưởng liên hệ). Họ có thể mê tín hoặc nghĩ rằng họ có quyền lực bí ẩn đặc biệt cho phép họ cảm nhận được sự kiện trước khi xảy ra hoặc đọc được tâm trí của người khác. Họ có thể nghĩ rằng họ có quyền kiểm soát ma thuật đối với người khác, nghĩ rằng họ làm cho người khác thực hiện những điều bình thường (ví dụ như cho chó ăn) hoặc thực hiện các nghi lễ phép thuật có thể ngăn ngừa được các tác hại (ví dụ như rửa tay 3 lần có thể ngăn ngừa bệnh tật).

Ngôn ngữ có thể kì quặc. Nó có thể là quá trừu tượng hoặc quá cụ thể hoặc chứa các cụm từ kỳ quặc hoặc sử dụng các cụm từ hoặc các từ theo cách không bình thường. Bệnh nhân mắc chứng rối loạn nhân cách phân liệt thường ăn mặc kỳ quặc hoặc ăn mặc lôi thôi (ví dụ như mặc quần áo không vừa vặn hoặc bẩn thỉu) và có cách cư xử kỳ quặc. Họ có thể bỏ qua các tập quán xã hội thông thường (ví dụ như không giao tiếp bằng mắt), và bởi vì họ không hiểu những tín hiệu xã hội thông thường, họ có thể tương tác với người khác một cách không hợp lý hoặc cứng nhắc.

Bệnh nhân rối loạn nhân cách loại phân liệt thường nghi ngờ và có thể nghĩ rằng những người khác ra ngoài để bắt họ.

  • Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, tái bản lần thứ 5, Tiêu chuẩn sửa đổi văn bản (DSM-5-TR)

Đối với chẩn đoán rối loạn nhân cách dạng phân liệt(1), bệnh nhân phải có

  • Hình thái dai dẳng của khó chịu dữ dội và giảm khả năng xây dựng các mối quan hệ gần gũi

  • Nhận thức hoặc méo mó nhận thức và lập dị của hành vi

Mô hình này được thể hiện bằng sự hiện diện của  5 trong số sau:

  • Ý tưởng liên hệ (ý niệm về sự xuất hiện hàng ngày có ý nghĩa đặc biệt hoặc ý nghĩa cá nhân đáng kể dành cho hoặc hướng đến chính họ) nhưng không có hoang tưởng liên hệ (cũng là triệu chứng tương tự nhưng với sự thuyết phục lớn hơn)

  • Những niềm tin kỳ quặc hay những suy nghĩ huyền diệu (ví dụ, tin tưởng vào khả năng nhìn thấu, thần giao cách cảm, hoặc giác quan thứ sáu, đang bị bận tâm với những hiện tượng siêu phàm)

  • Những trải nghiệm tri giác bất thường (ví dụ, nghe một giọng nói thầm thì tên của họ)

  • Kiểu suy nghĩ và ngôn ngữ kì quặc (ví dụ, mơ hồ, ẩn dụ, quá phức tạp, hoặc rập khuôn)

  • Nghi ngờ hoặc những tư duy hoang tưởng

  • Cảm xúc không phù hợp hoặc giới hạn

  • Hành vi/ngoại hình kỳ lạ, lập dị hay kỳ quặc

  • Thiếu những người bạn thân hay người bạn tâm tình, ngoại trừ những người họ hàng bậc một của họ

  • Sự lo âu xã hội quá mức không được làm giảm đi với sự quen thuộc và liên quan chủ yếu đến những nỗi sợ hãi hoang tưởng

Ngoài ra, các triệu chứng phải bắt đầu từ giai đoạn sớm của thời kì trưởng thành.

Chẩn đoán phân biệt

Việc điều trị chính đối với rối loạn nhân cách loại phân liệt là thuốc

  • Các rối loạn tư duy: Những rối loạn này (ví dụ, tâm thần phân liệtrối loạn lưỡng cực hoặc là rối loạn trầm cảm với các đặc trưng loạn thần), thường có biểu hiện nghiêm trọng hơn, đi kèm với các hoang tưởng và ảo giác.

Chẩn đoán phân biệt bao gồm:

  • Rối loạn nhân cách hoang tưởng và rối loạn nhân cách phân liệt: Rối loạn nhân cách và loại phân liệt có thể được phân biệt với rối loạn nhân cách hoang tưởng và phân liệt bởi vì những bệnh nhân bị những rối loạn này không có tư duy và hành vi kỳ lạ, thiếu tổ chức.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp 744-748.

  • Thuốc chống loạn thần và thuốc chống trầm cảm không điển hình (thế hệ thứ 2)

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

  • Liệu pháp tâm lý hỗ trợ

Nguyên tắc chung để điều trị rối loạn nhân cách dạng phân liệt cũng giống như nguyên tắc điều trị cho tất cả các rối loạn nhân cách.

Rối loạn nhân cách dạng phân liệt thường được điều trị bằng thuốc. Thuốc chống loạn thần không điển hình làm giảm lo lắng và các triệu chứng giống loạn thần (1); thuốc chống trầm cảm cũng có thể giúp giảm bớt lo âu do xã hội ở bệnh nhân rối loạn nhân cách dạng phân liệt.

Liệu pháp nhận thức-hành vi tập trung vào việc có được kỹ năng xã hội và kiểm soát lo âu có thể hữu ích. Liệu pháp như vậy cũng có thể làm tăng nhận thức của bệnh nhân về việc hành vi của họ có thể được nhận thức như thế nào.

Liệu pháp tâm lý hỗ trợ cũng có tác dụng. Mục đích là thiết lập một mối quan hệ tình cảm, khuyến khích, hỗ trợ với bệnh nhân và do đó giúp bệnh nhân phát triển các cơ chế bảo vệ lành mạnh, đặc biệt là trong các mối quan hệ giữa các cá nhân.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Jakobsen KD, Skyum E, Hashemi N, et al: Antipsychotic treatment of schizotypy and schizotypal personality disorder: A systematic review. J Psychopharmacol. 31(4):397-405, 2017 doi: 10.1177/0194599819859885

Rối loạn nhân cách chống đối xã hội được đặc trưng bởi một hình thái của việc không quan tâm đến hậu quả và quyền lợi của người khác. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị có thể bao gồm liệu pháp nhận thức hành vi, thuốc chống loạn thần và thuốc chống trầm cảm.

Người có rối loạn nhân cách chống đối xã hội có hành động trái pháp luật, lừa dối, bóc lột, liều lĩnh vì lợi ích hoặc sự thích thú cá nhân và không hối hận; họ có thể làm như sau:

  • Bào chữa hoặc hợp lý hóa hành vi của họ (ví dụ, suy nghĩ rằng kẻ thua cuộc xứng đáng bị như vậy, bảo vệ vị trí số một của bản thân)

  • Đổ lỗi cho nạn nhân là ngu xuẩn hay bất lực

  • Thờ ơ với những ảnh hưởng có hại và mang tính bóc lột trong hành động của họ đối với người khác

Ước tính tỷ lệ mắc chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội trong đời dao động từ 2% đến 5% dựa trên một số khảo sát dịch tễ học lớn từ Hoa Kỳ và Vương quốc Anh (1, 2). Rối loạn nhân cách chống đối xã hội phổ biến ở nam giới hơn nữ giới (3:1) (3), và có yếu tố di truyền mạnh mẽ. Tỷ lệ hiện mắc giảm dần theo độ tuổi (4), cho thấy bệnh nhân có thể học được cách thay đổi hành vi không thích nghi của mình theo thời gian.

Bệnh lý đồng diễn là phổ biến. Hầu hết bệnh nhân cũng có rối loạn sử dụng chất kích thích (và khoảng một nửa số người mắc chứng rối loạn sử dụng chất kích thích đáp ứng các tiêu chuẩn về rối loạn nhân cách chống đối xã hội) (3). Bệnh nhân rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường có rối loạn kiểm soát xung độngrối loạn tâm trạngrối loạn lo âu, rối loạn cờ bạc, rối loạn tăng động/giảm chú ý hoặc rối loạn nhân cách ranh giới.

Tài liệu tham khảo chung

1. Lenzenweger MF, Lane MC, Loranger AW, et al: DSM-IV personality disorders in the National Comorbidity Survey Replication. Biol Psychiatry 62(6):553-564, 2007. doi: 10.1016/j.biopsych.2006.09.019

2. Trull TJ, Jahng S, Rachel L Tomko, et al: Revised NESARC personality disorder diagnoses: Gender, prevalence, and comorbidity with substance dependence disorders. J Pers Disord 24(4):412-426, 2010. doi: 10.1521/pedi.2010.24.4.412

3. Regier DA, Farmer ME, Rae DS, et al: Comorbidity of mental disorders with alcohol and other drug abuse. Results from the Epidemiologic Catchment Area (ECA) Study. JAMA 264(19):2511-2518, 1990 PMID: 2232018.

4. d’Huart D, Seker S, Burgin D, et al: The stability of personality disorders and personality disorder criteria: A systematic review and meta-analysis. Clin Psychol Rev 102:102284, 2023. doi: 10.1016/j.cpr.2023.102284

Cả hai yếu tố di truyền và môi trường (ví dụ, lạm dụng trong thời thơ ấu) đều góp phần vào sự phát triển của rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Một cơ chế có thể là bốc đồng hơn là gây hấn có kế hoạch, liên quan đến chức năng vận chuyển serotonin bất thường. Không quan tâm đến sự đau đớn của người khác trong thời thơ ấu có liên quan với hành vi chống đối xã hội vào giai đoạn sau của thời kì thanh thiếu niên.

Rối loạn nhân cách chống đối xã hội phổ biến hơn ở những người thân có quan hệ huyết thống bậc một của bệnh nhân mắc chứng rối loạn này so với dân số nói chung (1). Nguy cơ phát triển rối loạn này tăng lên ở cả trẻ được nhận nuôi và cả trẻ là con đẻ của cha mẹ có rối loạn.

Nếu rối loạn hành vi kèm theo rối loạn tăng động giảm chú ý phát triển trước 10 tuổi, nguy cơ phát triển rối loạn nhân cách chống đối xã hội ở tuổi trưởng thành sẽ tăng lên (2). Nguy cơ rối loạn hành vi tiến triển thành rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể tăng lên khi cha mẹ lạm dụng hoặc bỏ bê trẻ hoặc không nhất quán trong kỷ luật hoặc phong cách nuôi dạy con cái (ví dụ: chuyển từ nồng nhiệt và hỗ trợ sang lạnh lùng và chỉ trích [3]).

Tài liệu tham khảo về căn nguyên

1. Polderman TJC, Benyamin B,  de Leeuw CA, et al: Meta-analysis of the heritability of human traits based on fifty years of twin studies. Nat Genet 47(7):702-709, 2015. doi: 10.1038/ng.3285

2. Storebø OJ, Simonsen EJ: The association between ADHD and antisocial personality disorder (ASPD): A review. Atten Disord: 20(10):815-24, 2016. doi: 10.1177/0194599819859885

3. Reti IM, Samuels JF, Eaton WW, et al: Adult antisocial personality traits are associated with experiences of low parental care and maternal overprotection. Acta Psychiatr Scand 106(2):126-133, 2002. doi: 10.1034/j.1600-0447.2002.02305.x

Bệnh nhân có rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể biểu hiện sự coi thường người khác và pháp luật bằng cách phá hủy tài sản, quấy rối người khác hoặc ăn cắp. Họ có thể lừa dối, bóc lột, lừa đảo hoặc thao túng con người để có được thứ chúng muốn (ví dụ như tiền, quyền lực, tình dục). Họ có thể sử dụng một bí danh.

Những bệnh nhân này rất bốc đồng; họ không lập kế hoạch trước hoặc xem xét hậu quả hoặc sự an toàn của bản thân hoặc người khác. Do đó, họ có thể đột nhiên thay đổi công việc, nhà cửa, hoặc các mối quan hệ. Họ có thể tăng tốc và lái xe trong tình trạng say xỉn, đôi khi dẫn đến va chạm. Họ có thể uống quá nhiều rượu hoặc dùng ma túy bất hợp pháp.

Bệnh nhân có rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường không có trách nhiệm về mặt xã hội và tài chính. Họ có thể thay đổi công việc mà không có kế hoạch cho một công việc khác. Họ không thể kiếm được việc làm khi có cơ hội. Họ có thể không thanh toán hóa đơn của họ, không trả tiền vay, hoặc không trả tiền cấp dưỡng nuôi con.

Những bệnh nhân này thường dễ bị khiêu khích và kích động thể chất; họ có thể bắt đầu đánh nhau hoặc lạm dụng vợ/chồng hoặc bạn tình. Trong mối quan hệ tình dục, họ có thể thiếu trách nhiệm và bóc lột bạn tình và không thể duy trì một vợ một chồng.

Không có sự hối hận cho những hành động. Bệnh nhân có rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể hợp lý hóa hành động của họ bằng cách đổ lỗi cho những người mà họ làm tổn thương (ví dụ như họ xứng đáng bị như vậy) hoặc cho cuộc sống (ví dụ, không công bằng). Họ quyết định không để bị đẩy ra xung quanh và làm những gì họ nghĩ là tốt nhất cho mình bằng bất kỳ giá nào.

Những bệnh nhân này không đồng cảm với người khác và có thể khinh thường hoặc thờ ơ với những cảm xúc, quyền lợi và đau khổ của người khác.

Bệnh nhân rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể rất cố chấp, tự tin hoặc kiêu ngạo. Họ có thể quyến rũ, ba hoa, và nhanh nhẹn trong lời nói nhằm nỗ lực đạt được những gì họ muốn.

  • Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, tái bản lần thứ 5, Tiêu chuẩn Sửa đổi Văn bản, (DSM-5-TR)

Để chẩn đoán rối loạn nhân cách chống đối xã hội (1), bệnh nhân phải có

  • Sự coi thường quyền lợi của người khác

Nó được xác định bởi sự có mặt của  3 trong số những rối loạn sau đây:

  • Không quan tâm đến luật pháp, được thể hiện bằng cách liên tục thực hiện các hành vi bị bắt giữ

  • Lừa dối, được thể hiện bằng cách nói dối lặp đi lặp lại, sử dụng các bí danh, hoặc chỉ huy người khác để đạt được lợi ích hoặc sự thích thú cá nhân

  • Hành động bốc đồng hoặc không có kế hoạch trước

  • Dễ dàng bị khiêu khích hoặc kích động, được thể hiện bởi việc liên tục đánh nhau hoặc tấn công người khác

  • Không quan tâm đến sự an toàn của họ hoặc sự an toàn của người khác

  • Liên tục hành động vô trách nhiệm, được thể hiện bằng cách bỏ việc mà không có kế hoạch cho một công việc khác hoặc không thanh toán hóa đơn

  • Không cảm thấy hối hận, được biểu hiện bởi sự thờ ơ hoặc hợp lý hóa việc gây tổn thương hoặc ngược đãi người khác

Ngoài ra, bệnh nhân phải có bằng chứng chứng minh rằng một rối loạn hành vi đã xuất hiện từ 15 tuổi. Rối loạn nhân cách chống đối xã hội được chẩn đoán chỉ ở người  18 tuổi.

Chẩn đoán phân biệt

Rối loạn nhân cách chống đối xã hội nên được phân biệt với những rối loạn sau:

  • Rối loạn sử dụng chất: Xác định liệu sự bốc đồng và thiếu trách nhiệm là do rối loạn sử dụng chất hoặc do rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể là một việc khó khăn nhưng có thể dựa trên việc xem xét lại tiền sử của bệnh nhân, bao gồm cả tiền sử từ nhỏ, để kiểm tra giai đoạn không sử dụng chất. Đôi khi rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể được chẩn đoán dễ dàng hơn sau khi rối loạn sử dụng chất đồng thời được điều trị, nhưng rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể được chẩn đoán ngay cả khi có biểu hiện của rối loạn sử dụng chất.

  • Rối loạn hành vi: Rối loạn hành vi có một khuôn mẫu phổ biến tương tự của việc vi phạm các chuẩn mực và quy tắc xã hội, nhưng rối loạn hành vi phải xuất hiện trước tuổi 15.

  • Rối loạn nhân cách ái kỷ: Bệnh nhân đều có sự tương tự về tính khai thác và thiếu sự đồng cảm, nhưng họ không có khuynh hướng hung hăng và lừa dối như xảy ra trong rối loạn nhân cách chống đối xã hội.

  • Rối loạn nhân cách ranh giới: Bệnh nhân có sự tương tự về sự thao túng nhưng làm như vậy để được nuôi dưỡng hơn là nhận được những gì họ muốn (ví dụ, tiền, quyền lực) như xảy ra trong rối loạn nhân cách chống đối xã hội.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp 748-752.

  • Quản lý dự phòng

  • Thuốc trong các trường hợp được lựa chọn

Không có bằng chứng nào cho thấy bất kỳ điều trị cụ thể nào dẫn tới sự cải thiện lâu dài. Do đó, điều trị nhằm đạt được một số mục tiêu ngắn hạn khác, chẳng hạn như tránh các hậu quả pháp lý, thay vì thay đổi bệnh nhân. Kiểm soát dự phòng (tức là cho hoặc giữ lại những gì bệnh nhân muốn tùy thuộc vào hành vi của họ) có thể mang lại lợi ích hạn chế (1). Các rối loạn đi kèm (ví dụ như rối loạn tâm trạngrối loạn sử dụng chất kích thích) cũng nên được điều trị theo phương pháp ưu tiên của họ.

Những bệnh nhân hung hăng có tính bốc đồng nổi bật và ảnh hưởng không ổn định có thể được hưởng lợi từ việc điều trị bằng thuốc (ví dụ: thuốc chống loạn thần không điển hình, lithium và valproatethuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Gibbon S, Khalifa NR,  Cheung NH-Y, et al: Psychological interventions for antisocial personality disorder. Cochrane Database Syst Rev 9(9):CD007668, 2020. doi: 10.1002/14651858.CD007668.pub3

Rối loạn nhân cách ranh giới được đặc trưng bởi một hình thái toàn thể về sự không ổn định và quá nhạy cảm trong các mối quan hệ giữa các cá nhân, sự mất ổn định về hình ảnh của bản thân, sự dao động tâm trạng quá lớn và xung động. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị bằng liệu pháp tâm lý và đôi khi dùng thuốc.

Bệnh nhân có rối loạn nhân cách ranh giới ít chịu đựng được sự cô đơn; họ cố gắng một cách mãnh liệt để tránh bị bỏ rơi và tạo ra các cuộc khủng hoảng, chẳng hạn như thực hiện các cử chỉ tự sát theo cách khuyến khích việc cứu giúp và được chăm sóc bởi người khác.

Tỷ lệ mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới được báo cáo ở Hoa Kỳ là khác nhau. Tỷ lệ hiện mắc trung vị ước tính là 2,7% nhưng có thể lên tới 5,9% (1). Ở những bệnh nhân đang điều trị nội trú do rối loạn tâm thần, tỷ lệ hiện mắc là khoảng 20%. Khoảng 75% số bệnh nhân có chẩn đoán mắc chứng rối loạn này là nữ, nhưng trong dân số Hoa Kỳ nói chung, tỷ lệ nam/nữ là 1:1.

Bệnh lý đồng diễn là phổ biến. Bệnh nhân thường bị rối loạn tâm trạngrối loạn triệu chứng cơ thể, rối loạn cờ bạc hoặc rối loạn sử dụng chất kích thích (2).

Tài liệu tham khảo chung

1. Morgan TA, Zimmerman M: Epidemiology of personality disorders. In Handbook of Personality Disorders: Theory, Research, and Treatment. 2nd ed, edited by WJ Livesley, R Larstone, New York, NY: The Guilford Press, 2018, pp. 173-196.

2. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp 752

Sự căng thẳng từ thời thơ ấu có thể góp phần vào sự phát triển của rối loạn nhân cách ranh giới. Một tiền sử thời thơ ấu về lạm dụng thể chất và tình dục, bị bỏ rơi, tách biệt với người chăm sóc, và/hoặc mất cha mẹ là phổ biến ở những bệnh nhân có rối loạn nhân cách ranh giới.

Một số người có thể có khuynh hướng di truyền những phản ứng bệnh học đối với những căng thẳng trong môi trường cuộc sống, và rối loạn nhân cách ranh giới dường như có một thành tố di truyền. Người thân có cùng huyết thống bậc một của bệnh nhân rối loạn nhân cách ranh giới có nguy cơ mắc chứng rối loạn này cao gấp 5 lần so với dân số nói chung (1).

Rối loạn chức năng điều hòa của não và hệ thống peptide thần kinh cũng có thể góp phần nhưng không xuất hiện ở tất cả các bệnh nhân mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới (2).

Tài liệu tham khảo về căn nguyên

1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp 755

2. Stanley B, Siever LJ: The interpersonal dimension of borderline personality disorder: Toward a neuropeptide model. Am J Psychiatry 167(1):24-39, 2010. doi: 10.1176/appi.ajp.2009.09050744

Khi bệnh nhân rối loạn nhân cách ranh giới cảm thấy rằng họ đang bị bỏ rơi hoặc bỏ mặc, họ cảm thấy sợ hãi hoặc tức giận cao độ. Ví dụ, họ có thể trở nên hoảng sợ hoặc giận dữ khi ai đó quan trọng đối với họ đến muộn vài phút hoặc hủy bỏ cam kết. Họ nghĩ rằng việc bỏ rơi này có nghĩa họ là những người xấu. Họ sợ bị bỏ rơi một phần vì họ không muốn bị cô đơn.

Những bệnh nhân này có xu hướng thay đổi quan điểm của họ về những người khác một cách tức thời và đột ngột. Họ có thể lý tưởng hóa một người chăm sóc tiềm năng hoặc người yêu trong giai đoạn đầu của mối quan hệ, đòi hỏi dành nhiều thời gian bên nhau, và chia sẻ mọi thứ. Đột nhiên, họ có thể cảm thấy rằng người đó không dành đủ sự quan tâm, và họ trở nên vỡ mộng; sau đó họ có thể coi thường hoặc trở nên tức giận với người đó. Sự chuyển đổi từ sự lý tưởng hóa sang sự coi thường phản ánh lối suy nghĩ đen trắng (phân chia, phân cực giữa tốt và xấu).

Bệnh nhân có rối loạn nhân cách ranh giới có thể thấu cảm và chăm sóc cho một người nhưng chỉ khi họ cảm thấy rằng một người khác sẽ luôn bên họ bất cứ khi nào cần thiết.

Bệnh nhân bị rối loạn này khó kiểm soát sự tức giận của họ và thường trở nên không thích hợp và tức giận dữ dội. Họ có thể biểu lộ sự tức giận của họ bằng cách mỉa mai, cay nghiệt, hoặc đả kích tức giận, thường hướng đến người chăm sóc hoặc người họ yêu thương vì đã bỏ bê hoặc bỏ rơi họ. Sau sự bùng nổ, họ thường cảm thấy xấu hổ và có lỗi, củng cố cảm giác xấu xa của họ.

Bệnh nhân rối loạn nhân cách ranh giới cũng có thể đột ngột thay đổi hình ảnh của họ, thể hiện bằng cách đột ngột thay đổi mục tiêu, giá trị, ý kiến, sự nghiệp, hoặc bạn bè của họ. Họ có thể thấy đau khổ trong một phút và ngay sau đó trở nên tức giận vì bị đối xử tệ bạc. Mặc dù họ thường thấy mình xấu, đôi khi họ cảm thấy rằng họ không còn tồn tại nữa-ví dụ như khi họ không có ai chăm sóc. Họ thường cảm thấy trống rỗng bên trong.

Những thay đổi về tâm trạng (ví dụ: bồn chồn dữ dội, khó chịu, lo lắng) thường chỉ kéo dài vài giờ và hiếm khi kéo dài hơn vài ngày; các thay đổi này có thể phản ánh sự nhạy cảm cực độ với những căng thẳng giữa các cá nhân.

Bệnh nhân bị rối loạn nhân cách ranh giới thường hủy hoại bản thân khi họ sắp đạt được mục đích. Ví dụ, họ có thể bỏ học ngay trước khi tốt nghiệp, hoặc họ có thể làm hỏng một mối quan hệ đầy hứa hẹn.

Xung động dẫn đến việc tự gây tổn thương là phổ biến. Những bệnh nhân này có thể đánh bạc, tham gia vào các hoạt động tình dục không an toàn, ăn vô độ, lái xe một cách thiếu thận trọng, lạm dụng chất hoặc tiêu xài quá mức. Các hành vi, cử chỉ và sự đe dọa tự sát, tự cắt xén (ví dụ như cắt, đốt) rất phổ biến. Mặc dù nhiều hành động tự hủy hoại này không nhằm để chấm dứt cuộc sống, nhưng nguy cơ tự sát ở những bệnh nhân này gấp 40 lần so với dân số chung. Khoảng 8% đến 10% số bệnh nhân này tử vong do tự sát (1). Những hành vi tự hủy hoại này thường được kích hoạt bởi sự từ chối, có thể bị bỏ rơi bởi, hoặc sự thất vọng bởi một người chăm sóc hoặc người yêu. Bệnh nhân có thể tự cắt xén để bù đắp cho cảm giác tồi tệ của họ, để khẳng định lại khả năng cảm nhận của họ trong giai đoạn phân ly hoặc để phân tán khỏi những cảm xúc đau đớn.

Các giai đoạn phân ly, ý nghĩ hoang tưởng và đôi khi các triệu chứng giống như loạn thần (ví dụ, ảo giác, ý tưởng liên hệ) có thể được kích hoạt bởi sự căng thẳng quá mức, thường là sợ bị bỏ rơi, cho dù là thật hay tưởng tượng. Những triệu chứng này là tạm thời và thường không đủ nghiêm trọng để được coi là một rối loạn riêng biệt. Ở hầu hết bệnh nhân, các triệu chứng phân ly giảm dần theo thời gian và tỷ lệ tái phát thấp. Tuy nhiên, tình trạng chức năng thường không cải thiện nhiều như các triệu chứng.

Tài liệu tham khảo về các triệu chứng và dấu hiệu

1. Pompili M, Girardi P, Ruberto A, et al: Suicide in borderline personality disorder: A meta-analysis. Nord J Psychiatry 59(5):319-324, 2005. doi:

  • Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, tái bản lần thứ 5, Tiêu chuẩn sửa đổi văn bản (DSM-5-TR)

Để chẩn đoán rối loạn nhân cách ranh giới (1), bệnh nhân phải có

  • Một kiểu dai dẳng về các mối quan hệ không ổn định, hình ảnh bản thân và cảm xúc (tức là, rối loạn điều chỉnh cảm xúc) và tính bốc đồng rõ rệt

Mô hình liên tục này được thể hiện bằng  5 điều sau:

  • Những nỗ lực tuyệt vọng để tránh bị bỏ rơi (thực tế hoặc tưởng tượng)

  • Những mối quan hệ căng thẳng không ổn định thay đổi giữa sự lý tưởng hoá và sự coi thường người khác

  • Một hình ảnh không ổn định về bản thân hoặc cảm giác về bản thân

  • Xung động trong  2 tình huống có thể gây hại cho bản thân (ví dụ, tình dục không an toàn, ăn uống vô độ, lái xe thiếu thận trọng)

  • Hành vi và/hoặc cử chỉ tự sát lặp đi lặp lại hoặc đe dọa hoặc tự cắt xẻo bản thân

  • Thay đổi nhanh về tâm trạng, kéo dài thường chỉ vài giờ và hiếm khi hơn một vài ngày

  • Cảm giác trống rỗng dai dẳng

  • Sự tức giận dữ dội không thích hợp hoặc các vấn đề kiểm soát sự tức giận

  • Ý tưởng hoang tưởng tạm thời hoặc các triệu chứng phân ly trầm trọng gây ra bởi căng thẳng

Ngoài ra, các triệu chứng phải bắt đầu từ giai đoạn đầu của thời kì trưởng thành, nhưng có thể xảy ra trong thời kỳ thanh thiếu niên.

Chẩn đoán phân biệt

Rối loạn nhân cách ranh giới thường được chẩn đoán nhầm

  • Rối loạn lưỡng cực: Rối loạn này cũng được đặc trưng bởi những biến động lớn về tâm trạng và hành vi. Tuy nhiên, trong rối loạn nhân cách ranh giới, tâm trạng và hành vi thay đổi nhanh chóng để phản ứng với các yếu tố gây căng thẳng, đặc biệt là giữa các cá nhân, trong khi ở rối loạn lưỡng cực, tâm trạng thường ổn định hơn và ít phản ứng hơn và mọi người thường có những thay đổi đáng kể về năng lượng và hoạt động.

Các rối loạn nhân cách khác có cùng biểu hiện.

  • Rối loạn nhân cách kịch tính hoặc rối loạn nhân cách ái kỷ: Bệnh nhân với một trong những rối loạn này có thể tìm kiếm sự chú ý và sự lôi cuốn, nhưng những người có rối loạn nhân cách ranh giới cũng thấy mình tồi tệ và cảm thấy trống rỗng. Một số bệnh nhân đáp ứng các tiêu chí cho nhiều hơn một rối loạn nhân cách.

Chẩn đoán phân biệt với rối loạn nhân cách ranh giới cũng bao gồm

  • Rối loạn trầm cảm và rối loạn lo âu: Rối loạn nhân cách ranh giới có thể được phân biệt với rối loạn cảm xúc và lo âu dựa trên hình ảnh tiêu cực về bản thân, sự gắn bó không chắc chắn và sự nhạy cảm với sự từ chối là những đặc điểm nổi bật của rối loạn nhân cách ranh giới và thường không xuất hiện ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc hoặc lo âu.

  • Rối loạn sử dụng chất kích thích: Có thể khó xác định liệu tính bốc đồng và thay đổi tâm trạng rõ rệt là do rối loạn sử dụng chất kích thích hay rối loạn nhân cách ranh giới. Tuy nhiên, sự hiện diện của các đặc điểm khác của rối loạn nhân cách ranh giới (ví dụ như rối loạn nhận dạng, mất ổn định về cảm xúc), đặc biệt là trong thời gian tỉnh táo, giúp phân biệt 2 rối loạn này.

  • Rối loạn căng thẳng sau chấn thương: Mặc dù nhiều bệnh nhân rối loạn nhân cách ranh giới có tiền sử chấn thương, nhưng bệnh nhân rối loạn căng thẳng sau chấn thương có các triệu chứng tái phát liên quan đến việc trải nghiệm lại sự kiện đau thương cũng như tăng hưng phấn, đây không phải là đặc điểm của rối loạn nhân cách ranh giới. Tỷ lệ đồng mắc giữa 2 rối loạn này rất cao.

Nhiều rối loạn trong chẩn đoán phân biệt có thể cùng tồn tại với rối loạn nhân cách ranh giới.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp 752-757.

  • Tâm lý trị liệu

  • Đôi khi dùng các loại thuốc giảm đau

Nguyên tắc chung để điều trị rối loạn nhân cách ranh giới cũng giống như nguyên tắc chung cho tất cả các rối loạn nhân cách.

Xác định và điều trị các rối loạn đồng diễn là rất quan trọng để điều trị hiệu quả rối loạn nhân cách ranh giới.

Tâm lý trị liệu

Phương pháp điều trị chính cho chứng rối loạn nhân cách ranh giới là liệu pháp tâm lý.

Một số biện pháp can thiệp trị liệu tâm lý khác nhau có hiệu quả trong việc giảm hành vi tự tử, cải thiện chứng trầm cảm và cải thiện chức năng ở những bệnh nhân mắc chứng rối loạn này (1).

Liệu pháp nhận thức-hành vi tập trung vào rối loạn điều hòa cảm xúc và thiếu kỹ năng xã hội. Liệu pháp bao gồm những điều sau đây:

  • Trị liệu hành vi biện chứng (kết hợp các buổi điều trị cá nhân và điều trị nhóm với các nhà trị liệu như một sự huấn luyện về hành vi và có sẵn qua điện thoại)

  • Đào tạo hệ thống để dự đoán cảm xúc và giải quyết vấn đề (STEPPS)

STEPPS bao gồm các buổi học nhóm hàng tuần trong 20 tuần. Bệnh nhân được dạy kỹ năng quản lý cảm xúc, thách thức những mong muốn tiêu cực của họ, và để chăm sóc bản thân tốt hơn. Họ học cách đặt mục tiêu; tránh các chất kích thích bất hợp pháp; và cải thiện thói quen ăn, ngủ và tập thể dục của họ. Bệnh nhân được yêu cầu xác định một nhóm hỗ trợ gồm bạn bè, thành viên gia đình và bác sĩ lâm sàng, những người sẵn sàng huấn luyện họ khi họ gặp khủng hoảng.

Các can thiệp khác tập trung vào những rối loạn trong cách bệnh nhân trải nghiệm cảm xúc về bản thân họ và những người khác. Những can thiệp này bao gồm:

  • Phương pháp trị liệu dựa trên sự tâm thần hóa

  • Liệu pháp tâm lý tập trung vào sự di chuyển

  • Liệu pháp tập trung vào giản đồ

Tâm thần hóa đề cập đến khả năng của con người phản ánh và hiểu trạng thái tâm thần của chính bản thân họ và những người khác. Tâm thần hóa được cho là được học thông qua một sự gắn bó an toàn với người chăm sóc. Phương pháp trị liệu dựa trên sự tâm thần hóa giúp bệnh nhân làm những việc sau:

  • Điều chỉnh có hiệu quả cảm xúc của họ (ví dụ, bình tĩnh khi tức giận)

  • Hiểu việc bản thân họ góp phần gây ra vấn đề và vướng mắc của họ với người khác

  • Phản ánh và hiểu trạng thái tâm thần của người khác

Do đó giúp họ quan hệ với những người khác bằng sự đồng cảm và lòng trắc ẩn.

Tâm lý trị liệu tập trung vào sự chuyển di tập trung vào sự tương tác giữa bệnh nhân và nhà trị liệu. Chuyên gia trị liệu đưa ra các câu hỏi và giúp bệnh nhân suy nghĩ về phản ứng của họ để họ có thể kiểm tra hình ảnh phóng đại, méo mó và không thực tế của họ trong suốt buổi trị liệu. Thời điểm hiện tại (ví dụ, việc bệnh nhân có mối quan hệ với nhà trị liệu của họ như thế nào) được nhấn mạnh hơn là quá khứ. Ví dụ, khi một bệnh nhân nhút nhát, im lặng đột nhiên trở nên thù địch và tranh cãi, chuyên gia trị liệu có thể hỏi xem bệnh nhân có nhận thấy sự thay đổi trong cảm xúc và sau đó yêu cầu bệnh nhân suy nghĩ về việc bệnh nhân đang trải nghiệm về nhà trị liệu như thế nào và về bản thân như thế nào khi sự việc thay đổi. Mục đích là

  • Cho phép bệnh nhân phát triển một cảm giác ổn định và thực tế hơn về bản thân và người khác

  • Có mối quan hệ với những người khác một cách lành mạnh hơn thông qua sự chuyển di đến nhà trị liệu

Liệu pháp tập trung vào lược đồ là một phương pháp điều trị kết hợp giữa liệu pháp nhận thức-hành vi, thuyết về sự gắn kết, các khái niệm tâm lý động và các liệu pháp tập trung vào cảm xúc. Liệu pháp tập trung vào các hình suy nghĩ, cảm giác, hành vi không thích nghi và đối phó (gọi là lược đồ), kỹ thuật thay đổi cảm xúc, và mối quan hệ điều trị. Hạn chế việc nuôi dạy con cái liên quan đến việc thiết lập sự gắn bó an toàn giữa bệnh nhân và nhà trị liệu (trong giới hạn chuyên môn), cho phép nhà trị liệu giúp bệnh nhân trải nghiệm những gì mà bệnh nhân đã bỏ lỡ trong thời thơ ấu dẫn đến hành vi không thích nghi.

Mục đích là giúp bệnh nhân thay đổi các lược đồ của họ. Liệu pháp có 3 giai đoạn:

  • Đánh giá: Xác định các lược đồ

  • Nhận thức: Nhận thức được các lược đồ khi hoạt động trong cuộc sống hàng ngày

  • Thay đổi hành vi: Thay thế những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi tiêu cực bằng những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi lành mạnh hơn

Trong khi hầu hết các loại liệu pháp tâm lý dành cho rối loạn nhân cách ranh giới đều cần được đào tạo và giám sát chuyên môn, thì “quản lý tâm thần tốt” là một phương pháp tiếp cận bệnh nhân rối loạn nhân cách ranh giới được thiết kế dành cho bác sĩ lâm sàng đa khoa. Việc này bao gồm một tập hợp các nguyên tắc và thực hành bao gồm liệu pháp cá nhân mỗi tuần một lần; giáo dục tâm lý về rối loạn nhân cách ranh giới, mục tiêu điều trị và kỳ vọng; và đôi khi là thuốc. Nó tập trung vào các phản ứng của bệnh nhân đối với các tác nhân gây căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày.

Liệu pháp tâm lý hỗ trợ cũng có tác dụng. Mục đích là thiết lập một mối quan hệ tình cảm, khuyến khích, hỗ trợ với bệnh nhân và do đó giúp bệnh nhân phát triển các cơ chế bảo vệ lành mạnh, đặc biệt là trong các mối quan hệ giữa các cá nhân.

M Thuốc, trị liệu đang dùng (Medications)

Thuốc không có hiệu quả nhất quán đối với các triệu chứng cốt lõi của rối loạn nhân cách ranh giới và nên sử dụng một cách tiết kiệm. Nói chung, việc sử dụng các loại thuốc cần phải được giới hạn ở các tình trạng tâm thần kèm theo riêng biệt (ví dụ: rối loạn trầm cảm nặng) (2).

Khi sử dụng, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) thường được dung nạp tốt; nguy cơ quá liều gây chết người là tối thiểu. Tuy nhiên, các SSRI chỉ có hiệu quả nhẹ đối với chứng trầm cảm và lo âu ở bệnh nhân có rối loạn nhân cách ranh giới. Các loại thuốc khác có thể được sử dụng để điều trị các bệnh tâm thần kèm theo bao gồm

  • Thuốc chỉnh khí sắc: Đối với chứng trầm cảm, lo âu, tâm trạng bất ổn và bốc đồng

  • Thuốc an thần kinh (thế hệ 2) không điển hình: Đối với lo âu tức giận, tâm trạng thất thường, và các triệu chứng nhận thức, bao gồm những rối loạn về nhận thức liên quan đến căng thẳng tạm thời (ví dụ như tư duy hoang tưởng, tư duy đen-trắng, rối loạn nhận thức nghiêm trọng)

Thuốc nhóm benzodiazepin và các chất kích thích không được khuyến nghị vì có nguy cơ gây phụ thuộc, quá liều, mất ức chế và chuyển hướng sử dụng thuốc.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Stoffers JM, Völlm BM, Rücker G, et al: Psychological therapies for people with borderline personality disorder. Cochrane Database Syst Rev 2012(8):CD005652, 2012. doi: 10.1002/14651858.CD005652.pub2  

2. Leichsenring F, Heim N, Leweke F, et al: Rối loạn nhân cách ranh giới: A review. JAMA 329(8):670-679, 2023 doi: 10.1001/jama.2023.0589

Rối loạn nhân cách kịch tính được đặc trưng bởi một hình thái phổ biến của sự xúc cảm quá mức và tìm kiếm sự chú ý quá mức. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị với liệu pháp tâm lý động.

Bệnh nhân rối loạn nhân cách kịch tính sử dụng ngoại hình của họ, hành động một cách quyến rũ hoặc khiêu khích không thích đáng, để thu hút sự chú ý của người khác. Họ thiếu ý thức tự định hướng và có tính ám thị cao, thường hành động một cách ngoan ngoãn để giữ được sự chú ý của người khác.

Tỷ lệ hiện mắc ước tính là < 2% dân số nói chung (1). Tỷ lệ mắc bệnh ở nữ và nam là như nhau. Các báo cáo trước đây về tỷ lệ hiện mắc ngày càng tăng ở nữ giới có thể bị ảnh hưởng bởi sai lệch xác định từ các nghiên cứu tại bệnh viện.

Các bệnh đi kèm là phổ biến, đặc biệt là các rối loạn nhân cách khác (chống đối xã hộiranh giớiái kỷ) (2). Một số bệnh nhân cũng có các triệu chứng cơ thể, có thể là lý do họ tìm kiếm sự đánh giá. Rối loạn trầm cảm điển hìnhloạn khí sắc, và rối loạn chuyển di cũng có thể cùng tồn tại.

Tài liệu tham khảo chung

1. Morgan TA, Zimmerman M: Epidemiology of personality disorders. In Handbook of Personality Disorders: Theory, Research, and Treatment. 2nd ed, edited by WJ Livesley, R Larstone, New York, NY: The Guilford Press, 2018, pp. 173-196.

2. Zimmerman M, Rothschild L, Chelminski I:  The prevalence of DSM-IV personality disorders in psychiatric outpatients. Am J Psychiatry 162:1911-1918, 2005. doi: 10.1176/appi.ajp.162.10.1911

Bệnh nhân mắc rối loạn nhân cách kịch tính liên tục đòi hỏi phải là trung tâm của sự chú ý và thường trở nên trầm cảm khi họ không còn như vậy. Họ thường sống động, kịch tính, nhiệt tình, và tán tỉnh và đôi khi quyến rũ những người mới quen.

Những bệnh nhân này thường ăn mặc và hành động một cách không thích hợp và theo cách khiêu khích, không chỉ với những mối quan tâm không thực tế, mà còn trong nhiều bối cảnh (ví dụ như việc làm, trường học). Vì mong muốn gây ấn tượng với người khác bằng ngoại hình của họ nên họ thường bận tâm đến vẻ ngoài của họ.

Biểu lộ cảm xúc có thể nông cạn (thay đổi cảm xúc quá nhanh) và bị phóng đại. Họ nói một cách kịch tính, bày tỏ quan điểm mạnh mẽ, nhưng với vài sự kiện hoặc chi tiết để hỗ trợ ý kiến của họ.

Bệnh nhân có rối loạn nhân cách kịch tính dễ bị ảnh hưởng bởi những người khác và theo xu hướng hiện tại. Họ có xu hướng quá tin tưởng, đặc biệt là những người có thẩm quyền mà họ nghĩ có thể giải quyết được tất cả các vấn đề của họ. Họ thường cho rằng các mối quan hệ có tính chất gần gũi hơn so với thực tế. Họ khao khát sự mới lạ và dễ dàng chán nản. Vì vậy, họ có thể thay đổi công việc và bạn bè một cách thường xuyên. Sự hài lòng bị trì hoãn khiến họ khó chịu, vì vậy hành động của họ thường được thúc đẩy bởi việc đạt được sự hài lòng ngay lập tức.

Đạt được sự thân mật về cảm xúc hoặc tình dục có thể là khó khăn. Bệnh nhân có thể, thường không nhận thức được điều đó, đóng một vai trò (ví dụ nạn nhân). Họ có thể cố gắng kiểm soát đối tác của mình bằng cách sử dụng sự quyến rũ hoặc thao túng cảm xúc trong khi trở nên rất phụ thuộc vào đối tác.

  • Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, Tiêu chuẩn sửa đổi văn bản, Tái bản lần thứ 5 (DSM-5-TR)

Để chẩn đoán rối loạn nhân cách kịch tính (1), bệnh nhân phải có

  • Một mô hình dai dẳng của cảm xúc thái quá và tìm kiếm sự chú ý

Mô hình này được thể hiện bằng sự hiện diện của  5 trong số sau:

  • Khó chịu khi họ không phải là trung tâm của sự chú ý

  • Tương tác với người khác theo cách quyến rũ tình dục hoặc khiêu khích không thích hợp

  • Chuyển đổi nhanh và biểu cảm nông cạn của cảm xúc

  • Liên tục sử dụng ngoại hình của bản thân để thu hút sự chú ý đến bản thân

  • Bài phát biểu cực kỳ ấn tượng và mơ hồ

  • Tự kịch hóa, mang tính sân khấu và thể hiện cảm xúc quá mức

  • Tính ám thị (dễ bị ảnh hưởng bởi người khác hoặc các tình huống)

  • Giải thích các mối quan hệ thân mật hơn so với thực tế

Ngoài ra, các triệu chứng phải bắt đầu từ giai đoạn sớm của thời kì trưởng thành.

Chẩn đoán phân biệt

Các rối loạn nhân cách kịch tính có thể được phân biệt với các rối loạn nhân cách khác dựa trên các đặc điểm đặc trưng:

  • Rối loạn nhân cách ái kỷ: Bệnh nhân mắc rối loạn nhân cách tự yêu bản thân cũng tìm kiếm sự chú ý, nhưng họ, không giống những người có rối loạn nhân cách kịch tính, muốn cảm thấy được ngưỡng mộ hoặc được nâng tầm bởi điều đó; những bệnh nhân có rối loạn tính cách kịch tính không phải là quá khắt khe về kiểu chú ý mà họ nhận được và không bận tâm rằng đó là sự dễ thương hay là sự ngớ ngẩn.

  • Rối loạn nhân cách ranh giới: Bệnh nhân rối loạn nhân cách ranh giới xem mình xấu xa và trải nghiệm cảm xúc mạnh và sâu sắc; những người có rối loạn nhân cách kịch tính không thấy mình xấu, mặc dù sự phụ thuộc vào phản ứng của người khác có thể xuất phát từ lòng tự trọng thấp.

  • Rối loạn nhân cách phụ thuộc: Những bệnh nhân rối loạn nhân cách phụ thuộc, tương tự những người có rối loạn nhân cách kịch tính, cố gắng ở gần những người khác nhưng lại lo âu hơn, ức chế, và phục tùng (vì họ lo lắng về việc bị từ bỏ); bệnh nhân rối loạn nhân cách kịch tính ít ức chế và có tính khoa trương hơn.

Chẩn đoán phân biệt đối với rối loạn nhân cách kịch tính cũng bao gồm rối loạn triệu chứng cơ thể và bệnh rối loạn lo âu.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp. 757-760.

  • Liệu pháp tâm lý động

Nguyên tắc chung trong điều trị rối loạn nhân cách kịch tính cũng giống như nguyên tắc điều trị cho tất cả các rối loạn nhân cách.

Người ta biết rất ít về hiệu quả của liệu pháp nhận thức-hành vi và liệu pháp dược lý đối với chứng rối loạn nhân cách kịch tính.

Liệu pháp tâm lý động, tập trung vào các xung đột tiềm ẩn, có thể được thử điều trị. Bác sĩ điều trị có thể bắt đầu bằng cách khuyến khích bệnh nhân thay thế lời nói bằng hành vi, và do đó, giao tiếp với người khác theo cách ít kịch tính hơn. Bác sĩ điều trị cũng có thể giúp bệnh nhân nhận ra rằng hành vi kịch tính của họ là một cách không thích hợp để thu hút sự chú ý của người khác và kiểm soát lòng tự trọng của họ.

Rối loạn nhân cách ái kỷ được đặc trưng bởi một hình thái phổ biến của sự tự cao, nhu cầu phải được nịnh nọt, và thiếu sự đồng cảm. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị với liệu pháp tâm lý động.

Bệnh nhân rối loạn nhân cách ái kỷ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh lòng tự trọng và do đó cần được khen ngợi và liên kết với những người hoặc tổ chức đặc biệt; họ cũng có xu hướng hạ thấp giá trị của người khác để có thể duy trì cảm giác vượt trội.

Đánh giá của 5 nghiên cứu dịch tễ học cho thấy tỷ lệ hiện mắc trung vị là 1,6% (1). Nó phổ biến hơn ở nam giới hơn nữ giới.

Bệnh lý đồng diễn là phổ biến. Bệnh nhân cũng thường có rối loạn trầm cảm (ví dụ: rối loạn trầm cảm nặng, rối loạn trầm cảm dai dẳng), chán ăn tâm thầnrối loạn sử dụng chất kích thích (đặc biệt là cocaine) hoặc rối loạn nhân cách khác (kịch tínhranh giớihoang tưởng) (2).

Tài liệu tham khảo chung

1. Morgan TA, Zimmerman M: Epidemiology of personality disorders. In Handbook of Personality Disorders: Theory, Research, and Treatment. 2nd ed, edited by WJ Livesley, R Larstone, New York, NY: The Guilford Press, 2018, pp. 173-196.

2. Stinson FS, Dawson DA, Goldstein RB, et al: Prevalence, correlates, disability, and comorbidity of DSM-IV narcissistic personality disorder: Results from the wave 2 national epidemiologic survey on alcohol and related conditions. J Clin Psychiatry 69(7):1033-1045, 2008. doi: 10.4088/jcp.v69n0701

Dữ liệu hạn chế về các yếu tố sinh học góp phần gây ra chứng rối loạn nhân cách ái kỷ cho thấy có một yếu tố di truyền đáng kể. Một số lý thuyết cho rằng người chăm sóc có thể đã không đối xử với trẻ một cách thích hợp – ví dụ, bằng cách chỉ trích quá mức hoặc khen ngợi, ngưỡng mộ hoặc chiều chuộng trẻ quá mức.

Một số bệnh nhân có rối loạn này có những năng lực và tài năng đặc biệt và được sử dụng để liên kết hình ảnh của họ và sự ý thức về bản thân với sự ngưỡng mộ và lòng trân trọng của người khác.

Bệnh nhân có rối loạn nhân cách ái kỷ đánh giá quá cao khả năng của mình và phóng đại thành quả của họ. Họ nghĩ rằng họ là tuyệt vời, độc đáo, hoặc đặc biệt. Sự đánh giá quá cao về giá trị và thành tựu của họ thường ngụ ý đánh giá thấp giá trị và thành tựu của người khác.

Những bệnh nhân này bận tâm với những tưởng tượng về những thành tựu to lớn – được ngưỡng mộ vì trí tuệ hay vẻ đẹp của họ, về uy tín và ảnh hưởng, hoặc trải qua một tình yêu tuyệt vời. Họ cảm thấy họ chỉ nên liên kết với những người đặc biệt và tài năng như họ chứ không phải những người bình thường. Sự kết hợp với những người phi thường này được sử dụng để hỗ trợ và nâng cao lòng tự trọng của họ.

Vì bệnh nhân mắc rối loạn ái kỷ có nhu cầu phải được ngưỡng mộ, lòng tự trọng của họ phụ thuộc vào sự tích cực của người khác và do đó thường rất mong manh. Những người bị chứng rối loạn này thường để ý xem những người khác nghĩ gì về họ và đánh giá họ hoạt động tốt như thế nào. Họ nhạy cảm và bị bận tâm bởi những lời chỉ trích của người khác và bởi sự thất bại, mà làm cho họ cảm thấy bị xấu hổ hoặc bị đánh bại. Họ có thể phản ứng với sự giận dữ hoặc khinh thường, hoặc họ có thể phản công ác liệt. Hoặc họ có thể rút lui hoặc chấp nhận một cách hình thức tình huống này trong một nỗ lực để bảo vệ cảm giác tự trọng của họ (sự tự cao). Họ có thể tránh những tình huống mà họ có thể thất bại.

  • Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, tái bản lần thứ 5, Tiêu chuẩn sửa đổi văn bản (DSM-5-TR)

Để chẩn đoán rối loạn nhân cách ái kỷ (1), bệnh nhân phải có

  • Một khuôn mẫu dai dẳng về sự vĩ đại, cần được ngưỡng mộ và thiếu sự đồng cảm

Mô hình này được thể hiện bằng sự hiện diện của  5 trong số sau:

  • Một ý nghĩ phóng đại, vô căn cứ về tầm quan trọng và tài năng của họ (tự cao)

  • Sự bận tâm ảo tượng về những thành tựu, ảnh hưởng, quyền lực, trí tuệ, vẻ đẹp hay tình yêu hoàn hảo

  • Niềm tin rằng họ là những người đặc biệt và độc đáo và chỉ nên kết hợp với những người có tầm cỡ cao nhất

  • Một nhu cầu được ngưỡng mộ vô điều kiện

  • Một cảm giác về quyền lực

  • Sử dụng người khác để đạt được mục đích của bản thân

  • Thiếu sự đồng cảm

  • Ghen tị với những người khác và một niềm tin rằng những người khác ghen tị với họ

  • Kiêu căng và ngạo mạn

Ngoài ra, các triệu chứng phải bắt đầu từ giai đoạn sớm của thời kì trưởng thành.

Chẩn đoán phân biệt

Các rối loạn nhân cách ái kỷ có thể được phân biệt với các rối loạn sau:

  • Rối loạn lưỡng cực: Bệnh nhân bị rối loạn nhân cách ái kỷ thường có biểu hiện trầm cảm, và bởi vì sự tự cao của họ, có thể bị chẩn đoán nhầm là rối loạn lưỡng cực. Những bệnh nhân như vậy có thể bị trầm cảm, nhưng nhu cầu dai dẳng về việc nâng cao bản thân hơn những người khác giúp phân biệt rối loạn này với những người có rối loạn lưỡng cực. Ngoài ra, trong rối loạn nhân cách ái kỷ, những thay đổi trong tâm trạng được kích hoạt bởi những lời xúc phạm đến lòng tự trọng.

  • Rối loạn nhân cách chống đối xã hội: Sử dụng người khác để thúc đẩy bản thân là đặc trưng của cả hai rối loạn nhân cách. Tuy nhiên, động cơ là khác nhau. Bệnh nhân có rối loạn nhân cách chống đối xã hội khai thác những người khác để đạt được vật chất; những người có rối loạn nhân cách ái kỷ tận dụng người khác để duy trì lòng tự trọng của mình.

  • Rối loạn nhân cách kịch tính: Tìm kiếm sự chú ý của người khác là đặc trưng của cả hai rối loạn nhân cách. Nhưng những bệnh nhân có rối loạn nhân cách ái kỷ, không giống những người có rối loạn nhân cách kịch tính, làm bất cứ điều gì dù là dễ thương hay ngớ ngẩn để thu hút sự chú ý; họ muốn được ngưỡng mộ.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp 760-764.

  • Liệu pháp tâm lý động

Nguyên tắc chung để điều trị rối loạn nhân cách ái kỷ cũng giống như nguyên tắc điều trị cho tất cả các rối loạn nhân cách.

Tâm lý trị liệu tâm động, tập trung vào những xung đột tiềm ẩn, có thể có hiệu quả (1). Một số phương pháp được phát triển cho chứng rối loạn nhân cách ranh giới có thể được điều chỉnh một cách hiệu quả để sử dụng ở những bệnh nhân mắc chứng rối loạn nhân cách ái kỷ (2, 3). Chúng bao gồm

  • Phương pháp trị liệu dựa trên sự tâm thần hóa

  • Liệu pháp tâm lý tập trung vào sự di chuyển

Những cách tiếp cận này tập trung vào những rối loạn trong cách bệnh nhân trải nghiệm cảm xúc về bản thân và những người khác.

Liệu pháp nhận thức-hành vi có thể phù hợp với bệnh nhân bị rối loạn nhân cách ái kỷ bởi vì họ có thể tìm thấy cơ hội để tăng sự hấp dẫn chủ động; nhu cầu được khen ngợi có thể cho phép một nhà trị liệu định hình hành vi của họ. Một số bệnh nhân bị chứng rối loạn nhân cách ái kỷ nhận thấy tiếp cận nhận thức-hành vi quá đơn giản hoặc chung chung cho các nhu cầu đặc biệt của họ.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Crisp H, Gabbard GO: Principles of psychodynamic treatment for patients with narcissistic personality disorder. J Pers Disord 34(Suppl):143-158, 2020. doi: 10.1521/pedi.2020.34.supp.143

2. Choi-Kain LW, Simonsen S, Euler S: A mentalizing approach for narcissistic personality disorder: Moving from “me-mode” to “we-mode.” Am J Psychother 75(1):38-43, 2022. doi: 10.1176/appi.psychotherapy.20210017

3. Diamond D, Yeomans F, Keefe JR: Transference-focused psychotherapy for pathological narcissism and narcissistic personality disorder (TFP-N). Psychodyn Psychiatry 49(2):244-272, 2021. doi: 10.1521/pdps.2021.49.2.244

Rối loạn nhân cách né tránh được đặc trưng bởi việc né tránh các tình huống xã hội hoặc tương tác có nguy cơ bị từ chối, phê bình, hoặc bị làm bẽ mặt. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị bằng liệu pháp tâm lý, thuốc giải lo âu và thuốc chống trầm cảm.

Những người có rối loạn nhân cách né tránh có những cảm giác mạnh mẽ về sự không thích hợp và đối phó một cách không thích nghi bằng cách né tránh những tình huống mà họ có thể bị đánh giá một cách tiêu cực.

Tỷ lệ hiện mắc rối loạn nhân cách né tránh được báo cáo ở Hoa Kỳ rất khác nhau, nhưng tỷ lệ hiện mắc ước tính là khoảng 2,1% (1). Trong các cuộc khảo sát cộng đồng, rối loạn nhân cách né tránh ảnh hưởng đến nữ giới nhiều hơn nam giới, mặc dù sự khác biệt là nhỏ (2).

Bệnh lý đồng diễn là phổ biến. Bệnh nhân cũng thường có rối loạn trầm cảm nặng, rối loạn trầm cảm dai dẳng, rối loạn ám ảnh cưỡng chế hoặc rối loạn lo âu (ví dụ: rối loạn hoảng sợ, đặc biệt là ám ảnh sợ xã hội [rối loạn lo âu xã hội]) (3, 4). Họ cũng có thể mắc chứng rối loạn nhân cách khác (ví dụ: rối loạn nhân cách phụ thuộcrối loạn nhân cách ranh giới). Những bệnh nhân mắc đồng thời chứng ám ảnh sợ xã hội và rối loạn nhân cách né tránh có các triệu chứng nặng nề hơn và loạn chức năng hơn so với những bệnh nhân chỉ mắc một rối loạn.

Tài liệu tham khảo chung

1. Morgan TA, Zimmerman M: Epidemiology of personality disorders. In Handbook of Personality Disorders: Theory, Research, and Treatment. 2nd ed, edited by WJ Livesley, R Larstone, New York, NY: The Guilford Press, 2018, pp. 173-196.

2. Grant BF, Hasin DS, Stinson FS, et al: Prevalence, correlates, and disability of personality disorders in the United States: Results from the national epidemiologic survey on alcohol and related conditions. J Clin Psychiatry 65: 948-958, 2004. doi: 10.4088/jcp.v65n0711

3. Grant BF, Hasin DS, Stinson FS, et al: Co-occurrence of 12-month mood and anxiety disorders and personality disorders in the US: results from the national epidemiologic survey on alcohol and related conditions.J Psychiatr Res 39(1):1-9, 2005 doi: 10.1016/j.jpsychires.2004.05.004

4. Zimmerman M, Rothschild L, Chelminski I:  The prevalence of DSM-IV personality disorders in psychiatric outpatients. Am J Psychiatry 162:1911-1918, 2005. doi: 10.1176/appi.ajp.162.10.1911

Nghiên cứu cho thấy rằng trải nghiệm bị từ chối và bị gạt ra ngoài lề xã hội trong thời thơ ấu cũng như những đặc điểm bẩm sinh của lo lắng và né tránh xã hội có thể góp phần gây ra chứng rối loạn nhân cách né tránh (1, 2). Sự né tránh các tình huống xã hội đã được phát hiện sớm vào khoảng 2 tuổi.

Tài liệu tham khảo về căn nguyên

1. Joyce PR, McKenzie JM, Luty SE, et al: Temperament, childhood environment and psychopathology as risk factors for avoidant and borderline personality disorders. Aust N Z J Psychiatry 37(6):756-764, 2003. doi: 10.1080/j.1440-1614.2003.01263.x

2. Eikenaes I, Egeland J, Hummelen B, et al: Correction: Avoidant personality disorder versus social phobia: The significance of childhood neglect. PLoS One 15;10(5):e0128737, 015. doi: 10.1371/journal.pone.0128737

Bệnh nhân có rối loạn nhân cách né tránh sẽ tránh né sự tương tác xã hội, bao gồm cả ở nơi làm việc, bởi vì họ e ngại rằng họ sẽ bị chỉ trích hoặc bị từ chối hoặc người ta sẽ không chấp nhận họ, như trong những trường hợp sau:

  • Họ có thể từ chối được thăng chức vì họ sợ đồng nghiệp sẽ chỉ trích họ.

  • Họ có thể né tránh các cuộc họp.

  • Họ tránh làm quen với bạn mới, trừ khi họ chắc chắn họ sẽ được thích.

Những bệnh nhân này cho rằng con người sẽ rất nghiêm khắc và không chấp nhận cho đến khi có các bài kiểm tra nghiêm ngặt chứng minh điều ngược lại. Do đó, trước khi gia nhập một nhóm và hình thành mối quan hệ gần gũi, bệnh nhân bị rối loạn này thường yêu cầu sự được đảm bảo lặp đi lặp lại về hỗ trợ và chấp nhận không phê phán.

Bệnh nhân có rối loạn nhân cách né tránh lâu dài cho sự tương tác xã hội nhưng sợ đặt hạnh phúc của họ vào tay người khác. Bởi vì những bệnh nhân này hạn chế tương tác với mọi người, họ tương đối cô lập và không có mạng xã hội có thể giúp đỡ họ khi họ cần.

Những bệnh nhân này rất nhạy cảm với bất cứ điều gì có tính hơi phê phán, không tán thành hoặc nhạo báng bởi vì họ thường xuyên suy nghĩ về việc bị người khác chỉ trích hoặc từ chối. Họ cảnh giác với bất kỳ dấu hiệu nào của những phản ứng tiêu cực đối với họ. Sự căng thẳng, lo âu của họ có thể suy ra từ sự nhạo báng hoặc trêu chọc, do đó dường như để xác nhận sự tự nghi ngờ của họ.

Lòng tự trọng thấp và cảm giác không thích hợp ngăn cản những bệnh nhân này trong các tình huống xã hội, đặc biệt là với những người mới. Tương tác với người mới bị ức chế bởi vì bệnh nhân nghĩ mình là người kém cỏi về mặt xã hội, không hấp dẫn, và kém hơn người khác. Họ thường im lặng, rụt rè và cố gắng biến mất vì họ nghĩ rằng nếu họ nói gì thì người khác sẽ cho là sai. Họ không muốn nói về mình vì sợ rằng họ bị chế nhạo hoặc làm nhục. Họ lo rằng họ sẽ đỏ mặt hoặc khóc khi bị chỉ trích.

Bệnh nhân mắc chứng rối loạn nhân cách né tránh không muốn chấp nhận rủi ro cá nhân hoặc tham gia vào các hoạt động mới vì những lý do tương tự. Trong những trường hợp như vậy, họ thường phóng đại mối nguy hiểm và sử dụng những triệu chứng tối thiểu hoặc những vấn đề khác để giải thích cho việc trốn tránh của họ. Họ có thể thích một lối sống hạn chế vì nhu cầu của họ về sự an toàn và sự chắc chắn.

  • Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần‭‬, ấn bản lần thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR)

Để chẩn đoán rối loạn nhân cách né tránh (1), bệnh nhân phải có

  • Một kiểu cố gắng tránh tiếp xúc với xã hội, cảm thấy không đủ và quá nhạy cảm với những lời chỉ trích và từ chối

Mô hình này được thể hiện bằng sự hiện diện của  4 trong số những điều sau:

  • Tránh các hoạt động trong công việc có liên quan đến sự tiếp xúc giữa các cá nhân vì họ sợ rằng họ sẽ bị chỉ trích hoặc bị từ chối hoặc người ta sẽ không chấp nhận họ

  • Không muốn tham gia và liên quan với mọi người trừ khi họ chắc chắn là sẽ được yêu thích

  • Dè dặt trong các mối quan hệ gần gũi vì họ sợ sự chế giễu hoặc nhục nhã

  • Sự bận tâm với việc bị chỉ trích hoặc bị từ chối trong các tình huống xã hội

  • Ức chế trong các tình huống xã hội mới vì họ cảm thấy không thích hợp

  • Tự đánh giá là những người không đủ năng lực xã hội, không hấp dẫn hoặc kém hơn những người khác

  • Miễn cưỡng trong việc mạo hiểm hoặc tham gia vào bất kỳ hoạt động mới nào vì họ có thể bị xấu hổ

Ngoài ra, các triệu chứng phải bắt đầu từ giai đoạn sớm của thời kì trưởng thành.

Chẩn đoán phân biệt

Rối loạn nhân cách né tránh phải được phân biệt với 2 rối loạn sau:

  • Ám ảnh sợ xã hội: Sự khác biệt giữa ám ảnh sợ xã hội và rối loạn nhân cách né tránh thường không rõ ràng. Rối loạn nhân cách né tránh liên quan đến sự lo âu và sự né tránh lan tỏa hơn là nỗi ám ảnh sợ xã hội, thường là trong những tình huống đặc biệt có thể dẫn tới sự bối rối trước công chúng (ví dụ phát biểu trước công chúng, biểu diễn trên sân khấu). Tuy nhiên, ám ảnh sợ xã hội có thể liên quan đến một hình thái né tránh có phạm vi rộng hơn và do đó có thể khó phân biệt. Hai rối loạn thường xuất hiện cùng nhau.

  • Rối loạn nhân cách phân liệt: Cả hai rối loạn được đặc trưng bởi sự cách ly xã hội. Tuy nhiên, những bệnh nhân bị rối loạn nhân cách phân liệt trở nên bị cô lập bởi vì họ không quan tâm đến người khác, trong khi những người có rối loạn nhân cách né tránh trở nên bị cô lập vì họ quá nhạy cảm với sự từ chối hoặc phê bình bởi người khác.

Các rối loạn nhân cách khác có thể giống nhau một vài khía cạnh với rối loạn nhân cách né tránh nhưng có thể phân biệt được bằng các đặc tính đặc trưng (ví dụ, bởi nhu cầu cần được chăm sóc trong rối loạn nhân cách phụ thuộc và né tránh việc bị từ chối và bị chỉ trích trong rối loạn nhân cách né tránh).

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp 764-768.

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi tập trung vào các kỹ năng xã hội

  • Liệu pháp tâm lý hỗ trợ

  • Liệu pháp tâm lý động

  • Thuốc giải lo âu và thuốc chống trầm cảm

Các nguyên tắc chung để điều trị rối loạn nhân cách né tránh cũng tương tự như các nguyên tắc điều trị cho tất cả các rối loạn nhân cách.

Bệnh nhân bị rối loạn nhân cách né tránh thường né tránh việc điều trị.

Các liệu pháp hiệu quả cho bệnh nhân mắc cả chứng ám ảnh sợ xã hội và rối loạn nhân cách né tránh bao gồm (1):

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi tập trung vào việc thu nhận các kỹ năng xã hội, được thực hiện theo nhóm

  • Các liệu pháp nhóm khác nếu nhóm gồm những người có cùng những khó khăn

Bệnh nhân mắc chứng rối loạn nhân cách né tránh được hưởng lợi từ các liệu pháp cá nhân mang tính hỗ trợ và nhạy cảm với tình trạng quá mẫn cảm của bệnh nhân đối với người khác.

Trị liệu tâm lý động, tập trung vào các xung đột cơ bản, có thể hữu ích.

Không có nghiên cứu có đối chứng giả dược về thuốc.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Weinbrecht A, Schulze L, Boettcher J, et al: Rối loạn nhân cách né tránh: A current review. Curr Psychiatry Rep 18(3):29, 2016. doi: 10.1007/s11920-016-0665-6

Rối loạn nhân cách phụ thuộc được đặc trưng bởi một nhu cầu toàn thể, quá mức về việc cần được chăm sóc, dẫn đến hành vi phục tùng và bám víu. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị bằng liệu pháp tâm lý và có thể dùng thuốc chống trầm cảm.

Ở bệnh nhân rối loạn nhân cách phụ thuộc, nhu cầu phải được chăm sóc dẫn đến kết quả mất tính tự chủ và các sở thích của bản thân họ. Vì họ rất lo lắng về việc chăm sóc bản thân, họ trở nên quá phụ thuộc và phục tùng.

Ước tính có ít hơn 1% dân số Hoa Kỳ mắc chứng rối loạn nhân cách phụ thuộc (1). Bệnh được chẩn đoán thường xuyên hơn ở nữ.

Bệnh lý đồng diễn là phổ biến. Bệnh nhân cũng thường có rối loạn trầm cảm (rối loạn trầm cảm nặng hoặc rối loạn trầm cảm dai dẳng), rối loạn lo âurối loạn sử dụng rượu hoặc rối loạn nhân cách khác (ví dụ: rối loạn nhân cách ranh giớirối loạn nhân cách kịch tính).

Tài liệu tham khảo chung

1. Morgan TA, Zimmerman M: Epidemiology of personality disorders. In Handbook of Personality Disorders: Theory, Research, and Treatment. 2nd ed, edited by WJ Livesley, R Larstone, New York, NY: The Guilford Press, 2018, pp. 173-196.

Thông tin về các nguyên nhân của rối loạn nhân cách phụ thuộc bị hạn chế. Các yếu tố văn hóa, trải nghiệm tiêu cực ban đầu và các tổn thương sinh học liên quan đến lo lắng và di truyền được cho là góp phần vào sự phát triển của rối loạn nhân cách phụ thuộc (1). Những đặc điểm gia đình như sự phục tùng, bất an và hành vi khiêm tốn cũng có thể góp phần gây ra tình trạng này (2).

Tài liệu tham khảo về căn nguyên

1. Gjerde LC, Czajkowski N, Røysamb E: The heritability of avoidant and dependent personality disorder assessed by personal interview and questionnaire.Acta Psychiatr Scand 126(6):448-457, 2012 doi: 10.1111/j.1600-0447.2012.01862.x

2. Bornstein RF: The dependent personality: developmental, social, and clinical perspectives. Psychol Bull. 112(1):3-23, 1992. doi: 10.1037/0021-843X.114.1.140

Bệnh nhân có rối loạn nhân cách phụ thuộc không nghĩ rằng họ có thể chăm sóc bản thân mình. Họ sử dụng sự phục tùng để cố gắng thuyết phục người khác chăm sóc họ.

Bệnh nhân bị rối loạn này thường đòi hỏi nhiều sự bảo đảm và tư vấn khi đưa ra quyết định thông thường. Họ thường để người khác, thường là một người, chịu trách nhiệm về nhiều khía cạnh trong cuộc sống của họ. Ví dụ, họ có thể phụ thuộc vào vợ/chồng của họ về việc nên mặc cái gì, loại công việc cần tìm, và những người cần kết hợp.

Những bệnh nhân này coi mình kém hơn và có khuynh hướng xem thường khả năng của họ; họ dùng bất kỳ lời chỉ trích hoặc sự không chấp nhận nào như là bằng chứng về sự thiếu năng lực của họ, làm giảm thêm sự tự tin của họ.

Rất khó để họ thể hiện sự không đồng ý với người khác vì họ sợ mất sự ủng hộ hoặc chấp thuận từ những người đó. Họ có thể đồng ý với điều mà họ biết là sai hơn là có nguy cơ mất sự giúp đỡ của người khác. Ngay cả khi giận dữ là thích hợp, họ không tức giận bạn bè và đồng nghiệp vì sợ mất sự ủng hộ của họ.

Bởi vì họ tin rằng họ không thể tự mình làm bất cứ điều gì, họ gặp khó khăn khi bắt đầu một nhiệm vụ mới và làm việc độc lập, đồng thời họ tránh né những nhiệm vụ đòi hỏi phải chịu trách nhiệm. Họ thể hiện mình là người không đủ năng lực và cần sự giúp đỡ và trấn an liên tục. Khi được đảm bảo rằng người có năng lực đang giám sát và chấp thuận họ, những bệnh nhân này mới có xu hướng hoạt động tốt. Tuy nhiên, họ không muốn tỏ ra quá có năng lực để bị bỏ rơi. Kết quả là sự nghiệp của họ có thể bị tổn hại. Họ duy trì sự phụ thuộc của họ vì họ tránh học các kỹ năng sống tự lập.

Những bệnh nhân này sẵn sàng làm bất cứ điều gì để có được sự chăm sóc và hỗ trợ (ví dụ, làm các công việc khó chịu, chịu phục tùng các yêu cầu bất hợp lý, chịu đựng sự lạm dụng thể chất, tình dục hoặc tình cảm). Ở một mình khiến họ cảm thấy vô cùng khó chịu hoặc sợ hãi vì sợ không thể tự chăm sóc bản thân.

Bệnh nhân có rối loạn này có xu hướng tương tác xã hội với chỉ vài người mà họ phụ thuộc. Khi một mối quan hệ gần gũi kết thúc, bệnh nhân có rối loạn này ngay lập tức tìm một người thay thế. Do nhu cầu cao cần được chăm sóc, họ không phân biệt trong việc lựa chọn một sự thay thế.

Những bệnh nhân này sợ sự bỏ rơi bởi những người mà họ phụ thuộc vào, ngay cả khi không có lý do.

  • Clinical criteria (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision [DSM-5-TR])

Để chẩn đoán rối loạn nhân cách phụ thuộc (1), bệnh nhân phải có

  • Nhu cầu được đáp ứng một cách dai dẳng và quá mức, dẫn đến hành vi phục tùng, bám víu và sợ bị chia cắt.

Nhu cầu dai dẳng này được thể hiện bằng sự có mặt của  5 trong số những điều sau đây:

  • Khó khăn trong việc đưa ra quyết định hàng ngày mà không có một số lượng quá mức các lời khuyên và sự bảo đảm từ người khác

  • Một nhu cầu bắt người khác chịu trách nhiệm về những khía cạnh quan trọng nhất trong cuộc đời họ

  • Khó thể hiện sự bất đồng quan điểm với người khác vì họ sợ mất sự hỗ trợ hoặc chấp thuận

  • Khó khăn khi bắt đầu các dự án bởi vì họ không tự tin về sự phán đoán và khả năng của họ (không phải vì họ thiếu động lực hoặc năng lượng)

  • Sẵn sàng làm bất cứ điều gì (ví dụ, làm những công việc khó chịu) để có được sự hỗ trợ từ người khác

  • Cảm giác khó chịu hoặc bất lực khi họ ở một mình bởi vì họ sợ họ không thể tự chăm sóc được bản thân

  • Một nhu cầu cấp thiết phải thiết lập một mối quan hệ mới với một người sẽ chăm sóc và hỗ trợ khi một mối quan hệ gần gũi kết thúc

  • Mối bận tâm không thực tế với nỗi sợ sẽ phải tự chăm sóc bản thân

Ngoài ra, các triệu chứng phải bắt đầu từ giai đoạn sớm của thời kì trưởng thành.

Chẩn đoán phân biệt

Một số rối loạn nhân cách khác được đặc trưng bởi sự quá nhạy cảm với sự từ chối. Tuy nhiên, chúng có thể được phân biệt với rối loạn nhân cách phụ thuộc dựa vào các đặc điểm đặc trưng, như sau:

  • Rối loạn nhân cách ranh giới: Bệnh nhân với rối loạn này rất sợ hãi khi phải tự kiểm soát cuộc sống của bản thân tương tự như bệnh nhân rối loạn nhân cách phụ thuộc. Bệnh nhân có rối loạn nhân cách ranh giới, không giống những người có rối loạn nhân cách phụ thuộc, có sự dao động giữa sự phục tùng và sự thù địch gây hấn.

  • Rối loạn nhân cách né tránh: Bệnh nhân bị rối loạn này cũng rất sợ hãi khi tự kiểm soát cuộc sống của bản thân tương tự như bệnh nhân rối loạn nhân cách phụ thuộc. Bệnh nhân có rối loạn nhân cách né tránh trở nên thu rút dần cho đến khi chắc chắn rằng họ sẽ được chấp nhận mà không bị chỉ trích; ngược lại, những người có rối loạn nhân cách phụ thuộc cố gắng tìm ra và cố gắng duy trì mối quan hệ với người khác.

  • Rối loạn nhân cách kịch tính: Bệnh nhân mắc rối loạn này tìm kiếm sự chú ý chứ hơn là sự đảm bảo (như những người có rối loạn nhân cách phụ thuộc), nhưng họ bị giải ức chế nhiều hơn. Họ thường khoa trương hơn và tích cực tìm kiếm sự chú ý; những người có rối loạn nhân cách phụ thuộc lại tự hạ thấp bản thân và nhút nhát.

Rối loạn nhân cách phụ thuộc nên được phân biệt với sự phụ thuộc biểu hiện trong các rối loạn tâm thần khác (như rối loạn trầm cảm, rối loạn hoảng sợám ảnh sợ khoảng trống).

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp 768-771.

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

  • Liệu pháp tâm lý động

  • Có thể là thuốc chống trầm cảm

Nguyên tắc chung để điều trị rối loạn nhân cách phụ thuộc cũng tương tự như nguyên tắc điều trị cho tất cả các rối loạn nhân cách.

Liệu pháp tâm lý động và liệu pháp nhận thức-hành vi tập trung vào việc đánh giá những sợ hãi về sự độc lập và những khó khăn trong sự quyết đoán có thể giúp những bệnh nhân có rối loạn nhân cách phụ thuộc. Các bác sĩ lâm sàng nên cẩn thận để tránh thúc đẩy sự phụ thuộc trong mối quan hệ trị liệu.

Bằng chứng về liệu pháp dùng thuốc cho chứng rối loạn nhân cách phụ thuộc còn rất ít. Không có nghiên cứu có đối chứng giả dược đối với chứng rối loạn nhân cách phụ thuộc.

Benzodiazepin không được sử dụng vì bệnh nhân rối loạn nhân cách phụ thuộc có nguy cơ lạm dụng thuốc cao hơn.

Rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức được đặc trưng bởi một sự bận tâm lan tỏa về trật tự, chủ nghĩa hoàn hảo và sự kiểm soát (không có chỗ cho sự linh hoạt) mà cuối cùng làm chậm hoặc ngăn cản việc hoàn thành một nhiệm vụ. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị bằng liệu pháp tâm lý động, liệu pháp nhận thức hành vi, và thuốc ức chế chọn lọc trên serotonin (SSRI).

Bệnh nhân mắc chứng rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế cần phải có khả năng kiểm soát, do đó, họ có xu hướng đơn độc trong nỗ lực và không tin tưởng vào sự giúp đỡ của người khác.

Tỷ lệ hiện mắc trung vị ước tính là 4,7% nhưng có thể lên tới 7,8% (1, 2). Trong các nghiên cứu dựa trên dân số, tình trạng này phổ biến như nhau ở nam và nữ.

Những đặc điểm gia đình về tính bốc đồng, phạm vi cảm xúc hạn chế và chủ nghĩa cầu toàn được cho là góp phần gây ra chứng rối loạn này (3).

Bệnh lý đồng diễn có thể xuất hiện cùng. Bệnh nhân cũng thường bị rối loạn trầm cảm (rối loạn trầm cảm nặng hoặc rối loạn trầm cảm dai dẳng), rối loạn lo âu hoặc rối loạn ám ảnh cưỡng chế (4).

Tài liệu tham khảo chung

1. Grant JE, Mooney ME, Kushner MG: Prevalence, correlates, and comorbidity of DSM-IV obsessive-compulsive personality disorder: Results from the National Epidemiologic Survey on Alcohol and Related Conditions. J Psychiatr Res 46(4):469-475, 2012. doi: 10.1016/j.jpsychires.2012.01.009

2. Morgan TA, Zimmerman M: Epidemiology of personality disorders. In Handbook of Personality Disorders: Theory, Research, and Treatment. 2nd ed, edited by WJ Livesley, R Larstone, New York, NY: The Guilford Press, 2018, pp. 173-196.

3. Marincowitz C, Lochner C, Stein DJ: The neurobiology of obsessive-compulsive personality disorder: A systematic review. CNS Spectr 27(6):664-675, 2022. doi: 10.1017/S1092852921000754

4. Zimmerman M, Rothschild L, Chelminski I:  The prevalence of DSM-IV personality disorders in psychiatric outpatients. Amer J Psychiatry 162:1911-1918, 2005, doi: 10.1176/appi.ajp.162.10.1911

Ở bệnh nhân rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức, bận tâm về trật tự, chủ nghĩa hoàn hảo, và kiểm soát bản thân và các tình huống ảnh hưởng đến sự linh hoạt, tính hiệu quả và sự cởi mở. Sự cứng nhắc và bướng bỉnh trong hoạt động của họ, những bệnh nhân này nhấn mạnh rằng mọi thứ đều được thực hiện theo những cách cụ thể.

Để duy trì cảm giác kiểm soát, bệnh nhân tập trung vào các quy tắc, những chi tiết vụn vặt, thủ tục, lịch trình và danh sách. Kết quả là, điểm chính của một dự án hoặc hoạt động không đạt được. Những bệnh nhân này thường xuyên kiểm tra những sai lầm và chú ý một cách khác thường đến những chi tiết. Họ không tận dụng tốt thời gian của họ, thường để những nhiệm vụ quan trọng nhất đến phút cuối cùng. Sự bận tâm của họ với các chi tiết và đảm bảo rằng mọi thứ đều hoàn hảo có thể trì hoãn dai dẳng sự hoàn thành công việc. Họ không nhận thức được rằng hành vi của họ ảnh hưởng như thế nào đến đồng nghiệp của họ. Khi tập trung vào một nhiệm vụ, những bệnh nhân này có thể bỏ bê tất cả các khía cạnh khác trong cuộc sống của họ.

Vì những bệnh nhân này muốn mọi thứ được thực hiện theo cách cụ thể, họ gặp khó khăn khi giao nhiệm vụ và làm việc với người khác. Khi làm việc với người khác, họ có thể lập các danh sách chi tiết về cách nhiệm vụ phải được thực hiện và trở nên khó chịu nếu đồng nghiệp gợi ý một cách khác. Họ có thể từ chối sự trợ giúp ngay cả khi họ bị chậm trễ.

Bệnh nhân bị chứng rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức tận tụy quá mức cho công việc và năng suất; sự cống hiến của họ không phải có động lực từ sự cần thiết về tài chính. Kết quả là các hoạt động giải trí và các mối quan hệ của họ bị bỏ lỡ. Họ có thể nghĩ rằng họ không có thời gian để thư giãn hoặc đi chơi với bạn bè; họ có thể hoãn một kì nghỉ dài đến mức không có kỳ nghỉ nữa, hoặc họ có thể cảm thấy họ phải làm việc để họ không lãng phí thời gian. Thời gian dành cho bạn bè, khi nó xảy ra, có xu hướng được sắp xếp trong một hoạt động chính thức có tính tổ chức (ví dụ, một môn thể thao). Sở thích và các hoạt động giải trí được coi là những nhiệm vụ quan trọng đòi hỏi việc tổ chức và làm việc chăm chỉ để làm chủ; mục tiêu là sự hoàn hảo.

Những bệnh nhân này có kế hoạch trước rất cụ thể và không muốn xem xét những thay đổi. Sự cứng nhắc thường xuyên của họ có thể khiến đồng nghiệp và bạn bè cảm thấy khó chịu.

Biểu lộ cảm xúc cũng được kiểm soát chặt chẽ. Những bệnh nhân này có thể liên quan đến những người khác theo một cách chính thức, cứng nhắc, hoặc nghiêm túc. Thông thường, họ chỉ nói chuyện sau khi họ nghĩ ra điều hoàn hảo để nói. Họ có thể tập trung vào logic và trí tuệ và không chấp nhận được hành vi cảm xúc hoặc biểu cảm.

Những bệnh nhân này có thể quá hăng hái, kén chọn và cứng nhắc về các vấn đề đạo đức, đạo lý, và các giá trị. Họ áp dụng các nguyên tắc luân lý cứng nhắc cho bản thân và đối với người khác và tự phê bình một cách khắc nghiệt. Họ tỏ ra khéo léo đối với các nhà chức trách và nhấn mạnh vào việc tuân thủ chính xác các quy tắc, không có trường hợp ngoại lệ đối với các trường hợp giảm nhẹ.

Các triệu chứng của rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế có thể cải thiện theo thời gian (ví dụ, trong vòng 1 năm), nhưng sự tồn tại dai dẳng của chúng (tức là tỷ lệ thuyên giảm và tái phát) theo thời gian thì chưa rõ ràng.

  • Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, tái bản lần thứ 5, Tiêu chuẩn sửa đổi văn bản (DSM-5-TR)

Để chẩn đoán rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (1), bệnh nhân phải có

  • Một hình thái dai dẳng bận tâm về trật tự, chủ nghĩa hoàn hảo, và kiểm soát bản thân, những người khác và những tình huống

Mô hình này được thể hiện bằng sự hiện diện của  4 trong số những điều sau:

  • Sự bận tâm về chi tiết, quy tắc, lịch trình, tổ chức và danh sách

  • Một nỗ lực để làm điều gì đó hoàn hảo mà ảnh hưởng đến sự hoàn thành nhiệm vụ

  • Sự cống hiến quá mức cho công việc và năng suất (không phải do sự cần thiết về tài chính) dẫn đến việc bỏ bê các hoạt động giải trí và bạn bè

  • Sự tận tâm, tính khắt khe và thiếu linh hoạt quá mức liên quan đến các vấn đề đạo đức và đạo lý và giá trị

  • Không đành lòng ném những đồ vật hư hỏng hoặc vô dụng, ngay cả những đồ vật không có giá trị tình cảm

  • Miễn cưỡng ủy thác hoặc làm việc với người khác trừ khi những người đó đồng ý làm những việc chính xác như bệnh nhân muốn

  • Một cách thương hại dành thời gian cho bản thân và người khác bởi vì họ thấy rằng tiền như là một cái gì đó để dành cho những thảm họa trong tương lai

  • Tính cứng nhắc và bướng bỉnh

Ngoài ra, các triệu chứng phải bắt đầu từ giai đoạn sớm của thời kì trưởng thành.

Chẩn đoán phân biệt

Rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức nên được phân biệt với các rối loạn sau đây:

  • Rối loạn ám ảnh nghi thức (OCD): Bệnh nhân bị OCD có những nỗi ám ảnh thực sự (những ý nghĩ lặp đi lặp lại, không mong muốn, xâm nhập gây ra sự lo âu rõ rệt) và sự ép buộc (hành vi nghi thức mà họ cảm thấy họ phải làm để làm giảm sự ám ảnh liên quan đến lo âu của họ). Bệnh nhân mắc OCD thường bị khó chịu do thiếu kiểm soát đối với những động cơ mang tính ép buộc; ở bệnh nhân rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức, nhu cầu kiểm soát được thúc đẩy bởi sự bận tâm của họ với trật tự để hành vi, giá trị và cảm xúc của họ được chấp nhận và phù hợp với ý thức của họ về bản thân.

  • Rối loạn nhân cách né tránh: Cả rối loạn nhân cách né tránh và ám ảnh cưỡng chế đều có đặc điểm là tình trạng cô lập với xã hội; tuy nhiên, ở những bệnh nhân mắc chứng rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế, tình trạng cô lập là kết quả của việc ưu tiên công việc và năng suất hơn là các mối quan hệ và những bệnh nhân này không tin tưởng người khác chỉ vì họ có khả năng can thiệp vào chủ nghĩa cầu toàn.

  • Rối loạn nhân cách phân liệt: Cả rối loạn nhân cách phân liệt và rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức được đặc trưng bởi tính hình thức trong các mối quan hệ giữa các cá nhân và bởi sự không gắn kết. Tuy nhiên, các động cơ là khác nhau: một sự khiếm khuyết cơ bản về sự thân mật ở những bệnh nhân rối loạn nhân cách phân liệt so với sự khó chịu về cảm xúc và sự cống hiến cho công việc ở bệnh nhân rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp 771-775.

  • Liệu pháp tâm lý động

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

  • Các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI)

Nguyên tắc chung trong điều trị rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế cũng tương tự như nguyên tắc điều trị cho tất cả các rối loạn nhân cách.

Thông tin về điều trị rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức không nhiều. Ngoài ra, việc điều trị phức tạp do sự cứng nhắc, sự bướng bỉnh và nhu cầu kiểm soát của bệnh nhân, điều này có thể gây nản lòng cho các nhà trị liệu.

Liệu pháp tâm động học và liệu pháp nhận thức-hành vi có thể hiệu quả cho bệnh nhân rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (1). Đôi khi trong quá trình điều trị, cuộc trò chuyện thú vị, chi tiết và được tri thức hóa của bệnh nhân dường như có định hướng tâm lý, nhưng nó không có ảnh hưởng và không dẫn đến thay đổi.

Dữ liệu hạn chế cho thấy SSRI có thể có hiệu quả (2).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Diedrich A, Voderholzer U: Obsessive-compulsive personality disorder: A current review. Curr Psychiatry Rep. 17(2):2, 2015. doi: 10.1007/s11920-014-0547-8

2. Gecaite-Stonciene J, Williams T, Lochner C, et al: Efficacy and tolerability of pharmacotherapy for obsessive-compulsive personality disorder: A systematic review of randomized controlled trials. Expert Opin Pharmacother 23(11):1351-1358, 2022. doi: 10.1080/00016489.2017.1412500

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi tập trung vào các kỹ năng xã hội

  • Liệu pháp tâm lý hỗ trợ

  • Liệu pháp tâm lý động

  • Thuốc giải lo âu và thuốc chống trầm cảm

Các nguyên tắc chung để điều trị rối loạn nhân cách né tránh cũng tương tự như các nguyên tắc điều trị cho tất cả các rối loạn nhân cách.

Bệnh nhân bị rối loạn nhân cách né tránh thường né tránh việc điều trị.

Các liệu pháp hiệu quả cho bệnh nhân mắc cả chứng ám ảnh sợ xã hội và rối loạn nhân cách né tránh bao gồm (1):

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi tập trung vào việc thu nhận các kỹ năng xã hội, được thực hiện theo nhóm

  • Các liệu pháp nhóm khác nếu nhóm gồm những người có cùng những khó khăn

Bệnh nhân mắc chứng rối loạn nhân cách né tránh được hưởng lợi từ các liệu pháp cá nhân mang tính hỗ trợ và nhạy cảm với tình trạng quá mẫn cảm của bệnh nhân đối với người khác.

Trị liệu tâm lý động, tập trung vào các xung đột cơ bản, có thể hữu ích.

Không có nghiên cứu có đối chứng giả dược về thuốc.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Weinbrecht A, Schulze L, Boettcher J, et al: Rối loạn nhân cách né tránh: A current review. Curr Psychiatry Rep 18(3):29, 2016. doi: 10.1007/s11920-016-0665-6

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)

Tâm thần phân liệt và các rối loạn liên quan

Tâm thần phân liệt và các rối loạn liên quan tâm thần – rối loạn loạn thần ngắnrối loạn hoang tưởngrối loạn phân liệt cảm xúcrối loạn dạng phân liệt, và rối loạn nhân cách loại phân liệt – được đặc trưng bởi các triệu chứng loạn thần nổi bật và thường bởi các triệu chứng âm tính và/hoặc rối loạn chức năng nhận thức.

Triệu chứng loạn thần bao gồm các hoang tưởng, ảo giác, tư duy và ngôn ngữ thiếu tổ chức, hành vi vận động kỳ quặc và không thích hợp (bao gồm cả căng trương lực).

Triệu chứng âm tính đề cập đến một sự giảm hoặc thiếu các cảm xúc và hành vi bình thường, chẳng hạn như cảm xúc thờ ơ vô cảm và thiếu động lực.

Rối loạn chức năng nhận thức trong những rối loạn này ảnh hưởng đến sự chú ý, chức năng điều hành và trí nhớ.

Chẩn đoán dựa trên các triệu chứng và tiến trình của bệnh; các dấu hiệu sinh học của bệnh chưa được xác định, nhưng chúng được tìm kiếm rộng rãi.

Thuốc chống loạn thần được chia thành các thuốc chống loạn thần điển hình và các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai (SGA) dựa trên tính ái lực và hoạt tính với các thụ thể của chất dẫn truyền thần kinh đặc hiệu của chúng. Các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai có thể mang lại một số ưu điểm cả về sự tốt hơn một chút về mặt hiệu quả (mặc dù những bằng chứng gần đây hoài nghi về tính ưu việt của chúng nếu được xem xét chung vào 1 nhóm) và giảm khả năng gây rối loạn vận động tự phát và các tác dụng không mong muốn có liên quan.

Các kết quả gần đây cho thấy các thuốc chống loạn thần mới với các hoạt động mới – cụ thể là, các amin và các chất chủ vận muscarin có thể có sẵn. Hiện nay, SGA chiếm khoảng 95% các thuốc chống loạn thần được kê đơn ở Mỹ. Tuy nhiên, nguy cơ bị hội chứng chuyển hóa (mỡ bụng quá mức, kháng insulin, rối loạn lipid máu và tăng huyết áp) là lớn hơn ở các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai so với thuốc chống loạn thần điển hình. Một số thuốc chống loạn thần ở cả hai nhóm có thể gây ra hội chứng QT kéo dài và cuối cùng làm tăng nguy cơ rối loạn nhịp gây tử vong; những thuốc này bao gồm thioridazin, haloperidol, olanzapin, risperidon, và ziprasidon.

Các thuốc chống loạn thần điển hình

Các thuốc chống loạn thần điển hình (xem bảng Thuốc chống loạn thần truyền thống) chủ yếu hoạt động bằng cách khóa thụ thể dopamin 2 (thuốc chẹn dopamin-2).

Thuốc chống loạn thần điển hình có thể được phân loại là hiệu lực cao, trung bình, hoặc thấp. Thuốc chống loạn thần có hiệu lực cao có ái lực cao hơn đối với thụ thể dopamin và ít hơn đối với thụ thể alpha-adrenergic và muscarinic. Thuốc chống loạn thần có hiệu lực thấp, hiếm khi được sử dụng, ít có ái lực với thụ thể dopamin và tương đối ái lực hơn với thụ thể alpha-adrenergic, muscarinic và histaminic.

Các loại thuốc khác nhau sẵn trong các chế phẩm chuẩn dạng viên, dịch, và cả tác dụng ngắn và tiêm bắp kéo dài. Một loại thuốc cụ thể được lựa chọn chủ yếu dựa vào những điều sau đây:

  • Các tác dụng không mong muốn

  • Yêu cầu về đường dùng thuốc

  • Đáp ứng của bệnh nhân trước đây với thuốc

Thuốc chống loạn thần thông thường có thể gây ra đáng kể tác dụng phụ đặc biệt là một số liên quan đến rối loạn nhận thức và ngoại tháp (ví dụ, loạn trương lực, run, rối loạn vận động chậm).

Khoảng 30% bệnh nhân tâm thần phân liệt không đáp ứng với các thuốc chống loạn thần điển hình. Họ có thể đáp ứng với clozapin, một thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai.

Thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai

Khoảng 95% các thuốc chống loạn thần được kê đơn là các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai.

Các thuốc chống loạn thần điển hình

Thuốc uống

Liều hàng ngày (khoảng liều)*

Liều người lớn thông thường

Bình luận

Chlorpromazine†,‡

30-800 mg

400 mg uống vào giờ đi ngủ

Thuốc có hiệu lực thấp dạng nguyên thủy

Cũng có sẵn ở dạng viên đặt trực tràng

Thioridazin‡

150-800 mg

400 mg uống vào giờ đi ngủ

Thuốc duy nhất có liều tối đa tuyệt đối (800 mg/ngày) bởi vì nó gây ra bệnh võng mạc hắc tố ở liều cao hơn và có tác dụng kháng cholinergic đáng kể

Cảnh báo về việc kéo dài QTc được thêm vào nhãn

Trifluoperazin†,‡

2-40 mg

10 mg uống vào giờ đi ngủ

Fluphenazin†,‡

0,5-40 mg

7,5 mg uống vào giờ đi ngủ

Cũng có sẵn dưới dạng fluphenazin decanoat và fluphenazin enanthat, là các dạng tiêm bắp giải phóng chậm (liều tương đương không có)

Perphenazin†,‡

12-64 mg

16 mg uống vào giờ đi ngủ

Loxapine

20-250 mg

60 mg uống vào lúc đi ngủ

Có ái lực với thụ thể dopamin-2 và 5-hydroxytryptamin (serotonin) -2 receptors

Molindone

15-225 mg

60 mg uống vào lúc đi ngủ

Có thể liên quan đến giảm cân

Thiothixen†,‡

8-60 mg

10 mg uống vào giờ đi ngủ

Có tỷ lệ bị cao bị bồn chồn bất an

Haloperidol†,‡

1-15 mg

8 mg uống vào giờ đi ngủ

Thuốc có hiệu lực cao nguyên thủy

Có sẵn dạng haloperidol decanoat là một thuốc tiêm bắp phóng thích chậm

Chứng nằm ngồi không yên và EPS phổ biến khác

Pimozide

1-10 mg

3 mg uống vào giờ đi ngủ

Chỉ chấp thuận cho hội chứng Tourette

* Liều khuyến cáo hiện tại đối với thuốc chống loạn thần điển hình là khởi đầu ở mức thấp của giá trị khuyến cáo và tăng dần dần đến một liều duy nhất; dùng thuốc vào giờ đi ngủ được khuyến khích. Không có bằng chứng cho thấy việc tăng liều nhanh chóng mang lại hiệu quả hơn.

†Những loại thuốc này có sẵn ở dạng tiêm bắp để điều trị đợt cấp.

‡Những loại thuốc này có sẵn ở dạng thuốc uống.

EPS = các triệu chứng ngoại tháp; QTc = Khoảng QT được hiệu chỉnh theo nhịp tim.

Các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai chẹn các thụ thể dopamin có tính chọn lọc hơn so với thuốc chống loạn thần điển hình, làm giảm khả năng xảy ra các tác dụng tác dụng không mong muốn ngoại tháp (vận động). Liên kết tốt hơn với thụ thể serotonergic có thể góp phần vào các hoạt động chống loạn thần trên triệu chứng dương tính và các lợi ích tác dụng phụ của SGA.

Các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai cũng có tác dụng như sau:

  • Có xu hướng giảm các triệu chứng dương tính

  • Có thể làm giảm các triệu chứng âm tính nhiều hơn so với thuốc chống loạn thần điển hình (mặc dù những khác biệt này còn đang tranh cãi)

  • Có thể gây suy giảm nhận thức ít hơn

  • Ít có khả năng bị các tác dụng phụ ngoại tháp (bao gồm cả nguy cơ rối loạn vận động chậm thấp hơn nhiều)

  • Tăng prolactin một chút hoặc không (trừ risperidon, làm tăng prolactin cũng giống như thuốc chống loạn thần điển hình)

  • Có thể tạo ra một hội chứng chuyển hóa, với kháng insulin, tăng cân, và tăng huyết áp.

Các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai có thể làm giảm các triệu chứng âm tính vì chúng gây tác dụng không mong muốn giống parkinson hơn so với thuốc chống loạn thần điển hình.

Clozapin, thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai đầu tiên, là thuốc duy nhất cho thấy có hiệu quả đến 50% bệnh nhân ở các bệnh nhân kháng trị với các thuốc chống loạn thần điển hình. Clozapin làm giảm các triệu chứng âm tính, giảm tự tử có ít hoặc không có các tác dụng không mong muốn về vận động, và có nguy cơ gây loạn động muộn ở mức tối thiểu nhưng có những tác dụng không mong muốn khác, bao gồm ngầy ngật, hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, tăng cân, tiểu đường loại 2 và tăng tiết nước bọt. Thuốc này cũng có thể gây co giật theo kiểu phụ thuộc liều. Tác dụng không mong muốn nghiêm trọng nhất là mất bạch cầu hạt, có thể xảy ra ở khoảng 1% số bệnh nhân. Do đó, thường xuyên theo dõi bạch cầu máu (được thực hiện hàng tuần trong 6 tháng đầu và mỗi 2 tuần sau đó, sau đó một lần/tháng sau một năm) là cần thiết ở Hoa Kỳ và clozapin thường được dùng cho những bệnh nhân đã đáp ứng không đầy đủ với các thuốc khác.

Các thuốc SGA mới (xem bảng Thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai) mang lại một số lợi ích của clozapin mà không gây nguy cơ mất bạch cầu hạt và nói chung là tốt hơn so với thuốc chống loạn thần điển hình trong điều trị một giai đoạn cấp và dự phòng tái phát. Tuy nhiên, trong một thử nghiệm lâm sàng có đối chứng lớn, dài hạn, mức độ giảm triệu chứng do sử dụng bất kỳ trong 4 loại thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai (olanzapin, risperidon, quetiapin, ziprasidon) không lớn hơn perphenazin, một thuốc chống loạn thần điển hình có tác dụng kháng cholinergic. Trong một nghiên cứu theo dõi dọc, bệnh nhân rời khỏi nghiên cứu sớm được phân ngẫu nhiên vào một trong 3 nghiên cứu với các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai khác hoặc với clozapin; nghiên cứu này đã chứng minh ưu thế rõ ràng của clozapin so với các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai khác. Do đó, clozapin dường như là cách điều trị hiệu quả duy nhất đối với những bệnh nhân thất bại với điều trị bằng thuốc chống loạn thần điển hình hoặc thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai. Tuy nhiên, clozapin vẫn chưa được tận dụng, có thể do khả năng dung nạp thấp và cần được theo dõi máu liên tục.

Lumateperone là SGA mới nhất để điều trị tâm thần phân liệt ở người lớn. Nó cho thấy cải thiện chức năng tâm lý xã hội với ít tác dụng phụ về chuyển hóa và vận động. Nó không nên được sử dụng ở những bệnh nhân lớn tuổi mắc chứng loạn thần liên quan đến sa sút trí tuệ, trong đó nó có nguy cơ tử vong cao. Các tác dụng phụ khác bao gồm an thần và khô miệng.

Các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai*

Thuốc uống

Khoảng liều

Liều người lớn thông thường

Nhận xét†

Aripiprazole

10-30 mg, uống

15 mg/ngày, uống

Thuốc chủ vận một phần dopamin-2

Nguy cơ thấp gây ra hội chứng chuyển hóa

Asenapin

5-10 mg ngậm dưới lưỡi 2 lần/ngày

10 mg ngậm dưới lưỡi 2 lần/ngày

Cho thuốc đặt dưới lưỡi không kèm thức ăn để thuốc được hấp thụ trong khoảng 10 phút sau đó (không nên nuốt viên thuốc)

Brexpiprazole

2-4 mg đường uống

2-4 mg đường uống

Thuốc chủ vận một phần dopamin-2

Nguy cơ thấp gây ra hội chứng chuyển hóa

Mang lại lợi ích cho trầm cảm điển hình

Chuẩn liều

  • 1 mg dùng vào ngày 1-4

  • 2 mg dùng vào ngày 5-7

  • 4 mg dùng vào ngày 8 (liều tối đa: 4 mg)

Cariprazine

1,5-6 mg uống

3-6 mg

Nguy cơ thấp gây ra hội chứng chuyển hóa

Tác dụng không mong muốn thường gặp nhất: Ngủ gà, khó chịu dạ dày

Chuẩn liều

  • 1,5 mg dùng ngày 1

  • 3 mg dùng ngày thứ 2

Clozapine

150 – 450 mg uống hai lần mỗi ngày

400 mg uống vào giờ đi ngủ

Thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai đầu tiên

Là thuốc duy nhất có hiệu quả được chứng minh ở bệnh nhân không đáp ứng với các thuốc chống loạn thần khác

Theo dõi bạch cầu thường xuyên là cần thiết vì có nguy cơ gây mất bạch cầu hạt

Tăng nguy cơ co giật và hội chứng chuyển hóa

Iloperidone

1-12 mg đường uống hai lần mỗi ngày

12 mg uống một lần mỗi ngày

Do hạ huyết áp tư thế đứng, có thể điều chỉnh liều sau 4 ngày từ khi bắt đầu

Lumateperone

40-60 mg mỗi ngày

42 mg uống một lần mỗi ngày

Có thể có hoạt tính đối kháng ở các thụ thể trung gian serotonin 5-HT2A và hoạt tính đối kháng sau synap ở các thụ thểdopamine D2 trung ương

Giảm nguy cơ tác dụng phụ của vận động và chuyển hóa

Chống chỉ định ở những bệnh nhân lớn tuổi bị rối loạn tâm thần liên quan đến sa sút trí tuệ

Lurasidone

40-160 mg uống một lần mỗi ngày

80 mg uống một lần mỗi ngày

Cho một lần/ngày với thức ăn

Giảm liều ở bệnh nhân suy gan

Olanzapine

10-20 mg uống vào giờ đi ngủ

15 mg uống vào giờ đi ngủ

Tác dụng không mong muốn thường gặp nhất: Ngủ gà, hội chứng chuyển hóa, và chóng mặt

Paliperidone

3-12 mg uống vào giờ đi ngủ

6 mg uống vào giờ đi ngủ

Chất chuyển hóa risperidon

Tương tự như risperidon

Pimavanserin

34 mg mỗi ngày

34 mg uống vào giờ đi ngủ

Thuốc đối kháng 5HT2a; nó đã được thử nghiệm và chấp thuận cho loạn thần trong bệnh Parkinson

Quetiapine

150-375 mg uống hai lần mỗi ngày

Phóng thích kéo dài: 400-800 mg uống vào giờ đi ngủ

200 mg uống một lần mỗi ngày

Hiệu lực thấp cho phép khoảng liều rộng

Có thể gây hội chứng chuyển hóa

Không có tác dụng kháng cholinergic

Sự chuẩn liều là cần thiết do tác dụng khóa thụ thể alpha-2

Liều 2 lần/ngày áp dụng cho dạng phóng thích tức thì; dạng phóng thích kéo dài được cho vào giờ đi ngủ

Risperidon

4-10 mg uống vào giờ đi ngủ

4 mg uống vào giờ đi ngủ

Có thể gây các triệu chứng ngoại tháp ở liều > 6 mg, tăng prolactin phụ thuộc liều, hoặc hội chứng chuyển hóa

Ziprasidone

40-80 mg uống hai lần mỗi ngày

80 mg uống hai lần mỗi ngày

Ức chế tái hấp thu serotonin và norepinephrin, có thể có tác dụng chống trầm cảm

Thời gian bán hủy ngắn nhất trong các thuốc mới

Cần dùng 2 lần/ngày với thức ăn

Mẫu tiêm bắp có sẵn dành cho điều trị cấp

Nguy cơ thấp gây ra hội chứng chuyển hóa

* Theo dõi hội chứng chuyển hóa và đái tháo đường loại 2 được khuyến cáo cho các loại thuốc chống loạn thần này.

†Tất cả các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai đều có liên quan đến sự gia tăng tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân cao tuổi bị sa sút trí tuệ.

SGA thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai; WBC bạch cầu.

Các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai mới hơn rất giống nhau về hiệu quả nhưng khác biệt về tác dụng không mong muốn, vì vậy việc lựa chọn thuốc dựa trên đáp ứng cá nhân và các đặc tính khác của thuốc. Ví dụ, olanzapin, có tỷ lệ gây ngầy ngật tương đối cao, có thể được kê toa cho những bệnh nhân có các triệu chứng kích động hoặc mất ngủ là nổi bật; các thuốc ít gây ngầy ngật hơn có thể nên được dùng cho những bệnh nhân bị hôn mê. Việc dùng thử thuốc từ 4-8 tuần là cần thiết để đánh giá hiệu quả. Sau khi các triệu chứng cấp tính đã ổn định, điều trị duy trì được bắt đầu; đối với điều trị duy trì, liều thấp nhất để dự phòng tái phát triệu chứng được sử dụng. Aripiprazol, olanzapin, và risperidon có sẵn dạng tiêm có tác dụng kéo dài.

Tăng cân, tăng lipid máu và tăng nguy cơ tiểu đường loại 2 là những tác dụng không mong muốn chủ yếu của các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai. Do đó, trước khi điều trị bằng các thuốc này, tất cả bệnh nhân cần được sàng lọc các yếu tố nguy cơ, bao gồm tiền sử cá nhân và gia đình bị đái tháo đường, cân nặng, chu vi vòng eo, huyết áp, và glucose và mỡ máu lúc đói. Những người có hoặc có nguy cơ cao về hội chứng chuyển hóa có thể được điều trị tốt hơn bằng ziprasidon hoặc aripiprazol so với các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai khác. Cần giáo dục cho bệnh nhân và gia đình về các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh tiểu đường, bao gồm triệu chứng đái nhiều, khát nhiều, giảm cân, và nhiễm toan xê-tôn do tiểu đường (buồn nôn, nôn, mất nước, thở nhanh, ý thức u ám). Ngoài ra, nên cung cấp tư vấn về dinh dưỡng và hoạt động thể chất cho tất cả các bệnh nhân khi họ bắt đầu sử dụng thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai. Tất cả các bệnh nhân dùng thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai đều cần theo dõi định kỳ về trọng lượng, chỉ số khối cơ thể, và glucose huyết tương lúc đói và chỉ định để đánh giá chuyên khoa nếu họ bị tăng lipid máu hoặc tiểu đường loại 2.

Đôi khi, kết hợp thuốc chống loạn thần với một loại thuốc khác có lợi (1). Những loại thuốc này bao gồm

  • Thuốc chống trầm cảm: thuốc ức chế tái hấp thu Serotonin-norepinephrine

  • Một loại thuốc chống loạn thần khác

  • Lithium

  • Benzodiazepine

Các loại thuốc điều trị mới đối kháng với thụ thể dopamine đang được phát triển, bao gồm ABT-925, BL1020, ITI 007, JNJ-37822681 và các thuốc mới khác (2).

Các thuốc chống loạn thần tác dụng kéo dài

Một số thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai và thông thường (SGA) có dạng các chế phẩm dự trữ tác dụng kéo dài (xem bảng Thuốc chống loạn thần Depot). Các chế phẩm này rất hữu ích để loại bỏ sự không tuân thủ thuốc. Chúng cũng có thể giúp cho những bệnh nhân, vì sự thiếu tổ chức, thờ ơ, hoặc từ chối bệnh tật, không thể mang lại sự tin cậy nếu uống thuốc hàng ngày.

Các thuốc chống loạn thần phóng thích chậm

Thuốc*

Liều dùng

Nồng độ đỉnh†

Aripiprazol, tác dụng kéo dài, tiêm

300-400 mg mỗi tháng

5-7 ngày

Fluphenazin decanoat

12,5-50 mg mỗi 2-4 tuần

1 ngày

Fluphenazin enanthat

12,5-50 mg mỗi 1-2 tuần

2 ngày

Haloperidol decanoat

25-150 mg mỗi 28 ngày (khoảng 3-5 tuần được chấp nhận)

7 ngày

Olanzapin pamoat‡

210-300 mg mỗi 2 tuần hoặc 300-405 mg mỗi 4 tuần

7 ngày

Paliperidone

234 mg vào ngày 1; 156 mg vào ngày thứ 8; sau đó 117 mg mỗi tháng một lần (khoảng liều 39–234 mg hàng tháng) bắt đầu 5 tuần sau đó

13 ngày

Risperidon microspheres§

12,5-50 mg x 2 tuần

35 ngày

* Thuốc được dùng dạng tiêm bắp với kỹ thuật Z-track.

† Thời gian đến nồng độ đỉnh sau khi dùng một liều duy nhất được liệt kê.

‡ Olanzapine pamoate có thể hiếm, nhưng an thần đáng kể, vì vậy bệnh nhân phải được theo dõi trong 3 giờ sau khi tiêm.

§ Do thời gian trễ kéo dài 3 tuần giữa lần tiêm đầu tiên và thời điểm đạt được nồng độ thích hợp trong máu, nên bệnh nhân nên tiếp tục được uống thuốc chống loạn thần trong 3 tuần sau lần tiêm đầu tiên. Đánh giá khả năng dung nạp với risperidon đường uống được khuyến cáo trước khi bắt đầu điều trị.

Tác dụng phụ của thuốc an thần kinh

Các thuốc chống loạn thần điển hình có một số tác dụng không mong muốn, như ngầy ngật, suy giảm nhận thức, cứng cơ và loạn trương lực cơ, run, tăng nồng độ prolactin (gây ra Hội chứng Galactorrhea), tăng cân và giảm ngưỡng co giật ở bệnh nhân co giật hoặc nguy cơ co giật (để điều trị các tác dụng không mong muốn, (xem bảng Điều trị các tác dụng ngoại ý cấp tính của thuốc chống loạn thần). Bồn chồn bất an (vận động không ngừng nghỉ) là đặc biệt khó chịu và có thể dẫn đến không tuân thủ thuốc; có thể được điều trị bằng propranolol.

Điều trị Tác dụng phụ cấp tính của thuốc an thần kinh

Triệu chứng

Điều trị

Bình luận

Loạn trương lực cơ cấp (ví dụ, xoắn vặn các cơ vận nhãn, xoắn vặn vùng cổ)

Benztropine 2 mg IV hoặc IM (có thể được lặp lại một lần trong 20 phút)

Diphenhydramine 50 mg IV hoặc IM mỗi 20 phút với 2 liều

Benztropine 2 mg đường uống có thể ngăn ngừa loạn trương lực cơ cấp nếu được sử dụng cùng với thuốc an thần kinh.

Loạn trương lực cơ thanh quản

Lorazepam 4 mg IV trong 10 phút, sau đó 1-2 mg IV chậm khi cần, tối đa 2 liều

Có thể cần đặt nội khí quản.

Bồn chồn, run giống Parkinson trầm trọng, vận động chậm chạp

Benztropine 1-2 mg đường uống, hai lần một lần

Diphenhydramine 25-50 mg đường uống 3 lần mỗi ngày

Ở những bệnh nhân có tác dụng phụ bồn chồn, thuốc an thần kinh có thể phải ngừng lại, chuyển qua sử dụng một thuốc có hiệu lực thấp.

Bồn chồn bất an (với các triệu chứng ngoại tháp khác)

Amantadine 100-150 mg đường uống, hai lần một này

Benztropine 1-2 mg đường uống, hai lần một lần

Biperiden 1-4 mg đường uống, hai lần một ngày

Procyclidine 2,5-10 mg đường uống, hai lần một ngày

Propranolol 10–30 mg uống 3 lần một ngày

Trihexyphenidyl 2–7 mg uống hai lần một ngày hoặc 1-5 mg uống 3 lần một ngày (hoặc đối với dạng phóng thích kéo dài, 2–7 mg hai lần một ngày)

Nên ngừng ngay các thuốc là nguyên nhân gây ra tác dụng phụ, hoặc dùng liều thấp hơn.

Bồn chồn bất an có thể liên quan đến sự lo âu quá mức

Lorazepam 1 mg uống 3 lần một ngày

Clonazepam 0,5 mg uống hai lần một ngày

Thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai ít có khả năng gây ra tác dụng phụ ngoại tháp (rối loạn vận động) bao gồm rối loạn vận động chậm nhưng có thể xảy ra. Hội chứng chuyển hóa (mỡ thừa ở bụng, kháng insulin, rối loạn lipid máu và tăng huyết áp) là một tác dụng phụ đáng kể với nhiều SGA.

Rối loạn vận động chậm phát triển thường được đặc trưng bởi các triệu chứng chu môi và lưỡi, cử động ngón tay, vặn vẹo cánh tay, chân hoặc nhiều hơn nữa. Đối với bệnh nhân dùng thuốc chống loạn thần điển hình, tỷ lệ xuất hiện rối loạn vận động chậm là khoảng 5% mỗi năm dùng thuốc và tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn đáng kể với SGA. Trong khoảng 2%, loạn động muộn gây thay đổi diện mạo nghiêm trọng. Ở một số bệnh nhân, loạn động muộn tồn tại vô thời hạn, ngay cả sau khi thuốc ngừng. Do nguy cơ này, bệnh nhân được điều trị duy trì lâu dài nên được đánh giá ít nhất mỗi 6 tháng một lần. Các công cụ đánh giá, chẳng hạn như Thang đo vận động không tự chủ bất thường, nên được sử dụng để theo dõi chính xác hơn các thay đổi theo thời gian. Bệnh nhân bị tâm thần phân liệt mà tiếp tục được đòi hỏi dùng thuốc chống loạn thần có thể được điều trị bằng các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai là clozapin hoặc quetiapin. Valbenazine, một chất ức chế vận chuyển monoamine vận chuyển mụn nước-2, gần đây đã được chấp thuận để điều trị rối loạn vận động muộn. Liều khởi đầu là 40 mg một lần mỗi ngày và, trong trường hợp không có rối loạn chức năng gan, sau 1 tuần được tăng lên 80 mg một lần mỗi ngày. Các tác dụng phụ quan trọng nhất là quá mẫn, ngủ gà, Kéo dài QTvà parkinson.

Hội chứng an thần kinh ác tính, một tình trạng không mong muốn hiếm gặp nhưng có khả năng gây tử vong, được đặc trưng bởi cứng cơ, sốt, bất thường hệ thần kinh thực vật, và CK cao.

Thang vận động thụ động bất thường

Trước hoặc sau khi hoàn thành việc tính điểm, các nhà lâm sàng nên làm như sau:

  1. Quan sát dáng đi của bệnh nhân trên đường vào phòng.

  2. Bảo bệnh nhân bỏ kẹo cao su hoặc răng giả nếu có thể.

  3. Xác định xem bệnh nhân có nhận biết được bất kì vận động nào.

  4. Cho bệnh nhân ngồi trên một chiếc ghế dài, không tay vịn với tay đặt trên đầu gối, chân hơi cách nhau và đặt phẳng trên sàn nhà. Bây giờ và trong suốt quá trình đánh giá, nhìn vào toàn bộ cơ thể để quan sát chuyển động.

  5. Cho bệnh nhân ngồi với bàn tay không được hỗ trợ, lơ lửng trên đầu gối.

  6. Yêu cầu bệnh nhân mở miệng hai lần. Tìm kiếm các chuyển động lưỡi.

  7. Yêu cầu bệnh nhân thè lưỡi ra hai lần.

  8. Yêu cầu bệnh nhân gõ ngón tay cái vào mỗi ngón tay trong 15 giây với mỗi tay. Quan sát mặt và chân.

  9. Cho bệnh nhân đứng với cánh tay mở rộng hướng phía trước.

Đánh giá theo từng mục sau trên thang điểm từ 0 đến 4 cho mức độ nghiêm trọng lớn nhất được quan sát thấy:

  1. = không có

  2. = tối thiểu, có thể cực kỳ bình thường

  3. =nhẹ

  4. = vừa phải

  5. = nghiêm trọng

Các cử động xảy ra chỉ khi sự kích hoạt được cho 1 điểm nhỏ hơn những động tác xảy ra tự phát.

Phân loại

Mục

Phạm vi của Các Điểm Có thể

Các cử động mặt và miệng

Các biểu lộ cơ mặt

2, 4, 7, 75-77

Môi và vùng quanh miệng

2, 4, 7, 75-77

Hàm

2, 4, 7, 75-77

Lưỡi

2, 4, 7, 75-77

Các cử động đầu

Cánh tay

2, 4, 7, 75-77

Chân

2, 4, 7, 75-77

Các cử động thân mình

Cổ, vai, và hông

2, 4, 7, 75-77

Đánh giá tổng thể

Mức độ nghiêm trọng của các cử động bất thường

2, 4, 7, 75-77

Sư mất khả năng vì các vận động bất thường

2, 4, 7, 75-77

Nhận biết của bệnh nhân về các vận động bất thường (0 = không nhận thấy; 4 = rất căng thẳng)

2, 4, 7, 75-77

Phỏng theo Guy W: ECDEU [Early Clinical Drug Evaluation Unit] Assessment Manual for Psychopharmacology. Rockville (MD), National Institute of Health, Psychopharmacology Research Branch, 1976. Bản quyền năm 1976 của Bộ Y tế, Giáo dục và Phúc lợi Hoa Kỳ.

Tài liệu tham khảo về thuốc chống loạn thần

1. Correll CU, Rubio JM, Inczedy-Farkas G, et al: Efficacy of 42 pharmacologic cotreatment strategies added to antipsychotic monotherapy in schizophrenia: Systematic overview and quality appraisal of the meta-analytic evidence. JAMA Psychiatry 74(7):675-684, 2017. doi: 10.1001/jamapsychiatry.2017.0624

2. Wang SM, Han C, Lee SJ: Investigational dopamine antagonists for the treatment of schizophrenia. Expert Opin Investig Drugs 26(6):687-698, 2017.  doi: 10.1080/13543784.2017.1323870

Rối loạn loạn thần ngắn bao gồm hoang tưởng, ảo giác, hoặc các triệu chứng loạn thần khác ít nhất xảy ra trong < 1 ngày nhưng 1 tháng, và cuối cùng hoạt động chức năng trở lại bình thường như trước khi có triệu chứng.

Rối loạn loạn thần ngắn thường không phổ biến. Trước đây các rối loạn nhân cách (ví dụ, hoang tưởng, mắc bệnh trầm cảm, tự ái, tâm thần phân liệt, ranh giới), cũng như một số tình trạng y tế nhất định (ví dụ, lupus toàn thân, ăn phải steroid), mục đích dẫn đến sự phát triển của nó. Một stress lớn, chẳng hạn như mất người yêu, có thể dẫn đến rối loạn này.

Rối loạn này gây ra ít nhất một triệu chứng loạn thần trong < 1 tháng:

  • Các hoang tưởng

  • Các ảo giác

  • Ngôn ngữ thiếu tổ chức

  • Hành vi cực kì thiếu tổ chức hoặc tác phong căng trương lực

Rối loạn loạn thần ngắn không được chẩn đoán nếu một rối loạn cảm xúc có loạn thần, rối loạn phân liệt, rối loạn thực thể, phân liệt hoặc tác dụng không mong muốn của thuốc (điều trị hoặc giải trí) giải thích tốt hơn cho các triệu chứng.

Phân biệt giữa rối loạn loạn thần ngắn và tâm thần phân liệt ở bệnh nhân mà không có bất kỳ triệu chứng loạn thần trước đó được dựa trên thời gian của các triệu chứng; nếu thời gian vượt quá 1 tháng, bệnh nhân không còn đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán cần thiết dành cho rối loạn loạn thần ngắn.

Điều trị rối loạn loạn thần ngắn cũng tương tự như điều trị cơn cấp tính trầm trọng của tâm thần phân liệt; giám sát và điều trị ngắn hạn bằng các thuốc chống loạn thần có thể là cần thiết.

Tái phát là phổ biến, nhưng bệnh nhân thường hoạt động chức năng tốt giữa các giai đoạn và ít hoặc không có triệu chứng.

Rối loạn hoang tưởng được đặc trưng bởi niềm tin vững chắc sai lầm (hoang tưởng) tồn tại ít nhất 1 tháng, mà không có các triệu chứng tâm thần khác.

Các hoang tưởng được phân biệt với các niềm tin nhầm lẫn rằng các niềm tin hoang tưởng vẫn không thay đổi khi có bằng chứng rõ ràng, hợp lý ngược lại; sự phân biệt này đôi khi rất khó thực hiện khi niềm tin là hợp lý hơn (ví dụ như vợ/chồng không chung thủy).

Rối loạn hoang tưởng được phân biệt với tâm thần phân liệt bởi sự hiện diện của hoang tưởng mà không có bất kỳ triệu chứng loạn thần nào khác (ví dụ: ảo giác, lời nói hoặc hành vi vô tổ chức, các triệu chứng tiêu cực). Những hoang tưởng có thể là

  • Không kỳ quái: Các hoang tưởng liên quan đến các tình huống có thể xảy ra, như bị theo dõi, bị đầu độc, bị nhiễm bệnh, yêu xa, hoặc lừa dối bởi bạn đời hoặc người yêu.

  • Kỳ quái: Các hoang tưởng liên quan đến các tình huống không hợp lý như tin rằng có ai đó lấy nội tạng mà không để lại sẹo.

Trái ngược với tâm thần phân liệt, rối loạn hoang tưởng là tương đối không thường gặp. Sự khởi phát thường xảy ra ở tuổi trung niên hoặc cuối đời. Chức năng tâm lý xã hội không bị suy giảm như ở tâm thần phân liệt, và những suy giảm thường phát sinh trực tiếp từ niềm tin hoang tưởng.

Khi rối loạn hoang tưởng xảy ra ở bệnh nhân cao tuổi, đôi khi rối loạn này được gọi là hoang tưởng kỳ quái. Rối loạn này có thể cùng tồn tại cùng với sa sút trí tuệ nhẹ. Bác sĩ phải cẩn thận để phân biệt các hoang tưởng với sự lạm dụng người cao tuổi được báo cáo bởi một bệnh nhân cao tuổi bị sa sút nhẹ.

Rối loạn hoang tưởng có thể phát sinh từ một rối loạn nhân cách paranoid có từ trước. Với những người như vậy, sự mất lòng tin và sự nghi ngờ đối với người khác và động cơ của họ bắt đầu từ giai đoạn sớm của tuổi trưởng thành và kéo dài suốt cuộc đời.

Các triệu chứng sớm có thể bao gồm cảm giác bị lợi dụng, bận tâm tới lòng trung thành hoặc sự đáng tin cậy của bạn bè, xu hướng đọc những ý nghĩa mang tính đe dọa trong những nhận xét hay sự kiện ôn hòa, những mối thù hằn liên tục, và sự sẵn sàng đáp lại những sự coi thường đã được cảm nhận thấy.

Một số dưới nhóm của rối loạn hoang tưởng được công nhận:

  • Hoang tưởng được yêu: Bệnh nhân tin rằng người khác đang yêu họ. Nỗ lực liên lạc với đối tượng của hoang tưởng thông qua các cuộc điện thoại, thư, giám sát hoặc rình rập là thường gặp. Những người có dưới nhóm này có thể có xung đột với luật pháp liên quan đến hành vi này.

  • Hoang tưởng tự cao: Bệnh nhân tin rằng họ có một tài năng tuyệt vời hoặc đã thực hiện được một khám phá quan trọng.

  • Hoang tưởng ghen tuông: Bệnh nhân tin rằng bạn đời hoặc người yêu của họ không chung thủy. Niềm tin này dựa trên các suy luận không đúng được hỗ trợ bởi các bằng chứng không rõ ràng. Họ có thể dùng đến sự hành hung về thể chất.

  • Hoang tưởng bị truy hại: Bệnh nhân tin rằng họ đang bị âm mưu chống lại, do thám, nói xấu, hoặc bị quấy rối. Họ có thể liên tục tìm cách để có được sự công bằng thông qua thỉnh cầu lên các tòa án và các cơ quan chính phủ khác và có thể sử dụng bạo lực để trả đũa cho sự truy hại tưởng tượng.

  • Hoang tưởng cơ thể: Hoang tưởng liên quan đến một chức năng cơ thể; ví dụ, bệnh nhân tin rằng họ bị dị hình, có mùi, hoặc nhiễm ký sinh trùng.

Hành vi của bệnh nhân không thực sự kỳ dị hay kỳ quặc, và ngoài những hậu quả có thể có do hoang tưởng của họ (ví dụ như cách ly xã hội hoặc kỳ thị, khó khăn về hôn nhân hoặc công việc) thì chức năng của bệnh nhân không bị suy giảm đáng kể.

  • Đánh giá lâm sàng

Chẩn đoán phụ thuộc phần lớn vào việc đánh giá lâm sàng, thu thập được một bệnh sử toàn diện, và loại trừ các điều kiện đặc hiệu khác có liên quan đến hoang tưởng (ví dụ lạm dụng chấtbệnh Alzheimerđộng kinhrối loạn ám ảnh cưỡng chếmê sảngrối loạn trong phổ phân liệt khác).

Đánh giá mức độ nguy hiểm, đặc biệt là mức độ mà bệnh nhân sẵn sàng hành động theo hoang tưởng của họ, là rất quan trọng.

Rối loạn hoang tưởng thường không dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng hoặc thay đổi nhân cách, nhưng các mối quan tâm có tính hoang tưởng có thể tiến triển từ từ. Hầu hết bệnh nhân có thể vẫn làm việc miễn là công việc của họ không liên quan đến những điều hoang tưởng.

  • Thiết lập mối quan hệ bác sĩ và bệnh nhân một cách hiệu quả

  • Quản lý các biến chứng

  • Đôi khi là các thuốc chống loạn thần

Điều trị nhằm mục đích thiết lập mối quan hệ có hiệu quả giữa bác sĩ-bệnh nhân và để quản lý các biến chứng. Thiếu thấu cảm sâu sắc là một thách thức đối với việc điều trị.

Nếu bệnh nhân được đánh giá là nguy hiểm, việc nằm viện có thể phải tính đến.

Không có đủ dữ liệu để hỗ trợ việc sử dụng bất kỳ loại thuốc đặc biệt nào, mặc dù các thuốc chống loạn thần đôi khi làm giảm các triệu chứng.

Mục tiêu điều trị lâu dài là chuyển vùng quan tâm chính của bệnh nhân từ sự chỗ hoang tưởng tới một khu vực có tính xây dựng và tạo được sự hài lòng hơn tuy là khó khăn nhưng hợp lý.

Một số giai đoạn đáng kể với các triệu chứng loạn thần không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của các chẩn đoán khác trong phổ phân liệt.

Loạn thần đề cập đến các triệu chứng như hoang tưởng, ảo giác, tư duy và ngôn ngữ thiếu tổ chức, hành vi vận động kỳ dị và không thích hợp (bao gồm căng trương lực) cho thấy sự mất liên hệ với thực tại.

Các rối loạn loạn thần khác được phân loại là

  • Các rối loạn loạn thần khác và phổ phân liệt biệt định khác

  • Các rối loạn loạn thần khác và phổ phân liệt không biệt định

Những phân loại này đề cập đến các triệu chứng điển hình của một rối loạn loạn thần khác hoặc phổ phân liệt (ví dụ như hoang tưởng, ảo giác, tư duy và ngôn ngữ thiếu tổ chức, tác phong căng trương lực) gây ra tình trạng căng thẳng và suy giảm đáng kể về xã hội và nghề nghiệp nhưng không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của bất kỳ rối loạn cụ thể nào. Những loại này đôi khi được áp dụng sớm trong rối loạn phổ phân liệt trước khi nó biểu hiện đầy đủ.

Phân loại rối loạn loạn thần không biệt định khác không còn được sử dụng.

Một rối loạn được phân loại là biệt định nếu nhà lâm sàng lựa chọn để xác định các đặc điểm triệu chứng không đáp ứng các tiêu chuẩn cho một rối loạn cụ thể như thế nào. Ví dụ, một bệnh nhân có thể có ảo thanh kéo dài mà không có các triệu chứng khác, do đó không đáp ứng tiêu chuẩn của tâm thần phân liệt, mà đòi hỏi phải có 2 biểu hiện loạn thần.

Phân loại không biệt định được sử dụng khi thông tin cần thiết để chẩn đoán không đủ (ví dụ như ở một khoa cấp cứu).

Các thuốc chống loạn thần và sự chuyển gửi tâm thần có thể được sử dụng nếu cần.

Rối loạn tâm thần do một tình trạng bệnh lý khác được đặc trưng bởi ảo giác hoặc ảo tưởng do một rối loạn y tế khác gây ra.

Loạn thần đề cập đến các triệu chứng như hoang tưởng, ảo giác, tư duy và ngôn ngữ thiếu tổ chức, hành vi vận động kỳ dị và không thích hợp (bao gồm căng trương lực) cho thấy sự mất liên hệ với thực tại.

Chẩn đoán này được áp dụng khi loạn thần xảy ra do các tác động sinh lý của một bệnh cơ thể. Ví dụ như hành vi loạn thần hoặc ảo giác khứu giác đôi khi liên quan đến động kinh thùy thái dương và hội chứng mất nhận biết đối bên đôi khi gây ra do tổn thương thùy đỉnh.

Các rối loạn cơ thể khác có thể gây ra loạn thần bao gồm các khối u và nhiễm trùng thần kinh trung ương, đột qụy nãomigrain, và các rối loạn nội tiết khác.

Chẩn đoán này không được sử dụng nếu bệnh nhân có phản ứng trung gian về mặt tâm lý đối với bệnh tật (ví dụ như loạn thần trong đơn vị hồi sức tích cực), loạn thần do tác động của chất hoặc cai chất, hoặc tình trạng mê sảng gây ra bởi các bệnh cơ thể.

Cần thiết phải thiết lập mối quan hệ về mặt thời gian giữa bệnh cơ thể và loạn thần (tức là chúng bắt đầu và kết thúc vào cùng một thời điểm).

Điều trị bệnh cơ thể thường làm giảm mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng loạn thần, nhưng một số bệnh nhân cũng cần điều trị đặc hiệu đối với các triệu chứng loạn thần.

Rối loạn phân liệt được đặc trưng bởi các triệu chứng tâm thần, triệu chứng phân liệt khác, và các triệu chứng tâm trạng đáng kể. Rối loạn này được phân biệt với tâm thần phân liệt bởi sự xuất hiện của  1 giai đoạn với các triệu chứng trầm cảm hoặc hưng cảm.

Loạn thần đề cập đến các triệu chứng như hoang tưởng, ảo giác, tư duy và ngôn ngữ thiếu tổ chức, hành vi vận động kỳ dị và không thích hợp (bao gồm căng trương lực) cho thấy sự mất liên hệ với thực tại.

Rối loạn tâm thần được coi là khi rối loạn tâm thần và các triệu chứng tâm trạng cùng tồn tại. Chẩn đoán này đòi hỏi phải có các triệu chứng cảm xúc đáng kể (trầm cảm hoặc hưng cảm) được hiện diện 50% thời gian bị bệnh, đồng thời với  2 triệu chứng của tâm thần phân liệt (các hoang tưởng, ảo giác, ngôn ngữ thiếu tổ chức, tác phong căng trương lực hoặc hành vi cực kì thiếu tổ chức, các triệu chứng âm tính).

ViIệc phân biệt rối loạn phân liệt cảm xúc với tâm thần phân liệt và các rối loạn cảm xúc có thể đòi hỏi phải đánh giá theo chiều dọc các triệu chứng và sự tiến triển triệu chứng.

  • Thường có sự kết hợp của thuốc, tâm lý trị liệu và hỗ trợ cộng đồng

Bởi vì rối loạn phân liệt cảm xúc thường dẫn đến mất hoạt năng theo thời gian dài, cần phải có sự điều trị toàn diện (bao gồm thuốc, tâm lý trị liệu và hỗ trợ cộng đồng).

Để điều trị loại hưng cảm, Thuốc chống loạn thần thế hệ 2 có thể là đủ nhưng nếu không, nó có thể giúp bổ sung lithium, carbamazepine, hoặc valproate.

Để điều trị loại trầm cảm, một Thuốc chống loạn thần thế hệ 2 được lựa chọn trước tiên. Sau đó, một khi những triệu chứng loạn thần dương tính được ổn định, nên dùng thuốc chống trầm cảm nếu tình trạng trầm cảm cần điều trị; các thuốc ức chế chọn lọc trên serotonin (SSRI) được ưu tiên hơn vì tính an toàn của chúng.

Tâm thần phân liệt được đặc trưng bởi loạn thần (mất liên hệ với thực tại), ảo giác (các tri giác sai), hoang tưởng (các niềm tin sai lạc), tư duy và ngôn ngữ thiếu tổ chức, cảm xúc thờ ơ vô cảm (giới hạn cảm xúc), suy giảm nhận thức (suy giảm trong khả năng lập luận và giải quyết vấn đề) rối loạn chức năng nghề nghiệp và xã hội. Nguyên nhân vẫn chưa được biết, nhưng bằng chứng cho các thành phần di truyền và môi trường là rất rõ ràng. Các triệu chứng thường bắt đầu ở tuổi vị thành niên hoặc giai đoạn sớm của tuổi trưởng thành. Một hoặc nhiều giai đoạn triệu chứng phải kéo dài  6 tháng khi chẩn đoán được thành lập. Điều trị bao gồm điều trị bằng thuốc, liệu pháp nhận thức và phục hồi tâm lý xã hội. Phát hiện sớm và điều trị sớm cải thiện chức năng lâu dài.

Loạn thần đề cập đến các triệu chứng như hoang tưởng, ảo giác, tư duy và ngôn ngữ thiếu tổ chức, hành vi vận động kỳ dị và không thích hợp (bao gồm căng trương lực) cho thấy sự mất liên hệ với thực tại.

Trên toàn thế giới, tỷ lệ hiện mắc của tâm thần phân liệt là khoảng 1%. Tỷ lệ này có thể khác nhau giữa nam và nữ và tương đối hằng định trong các nền văn hoá khác nhau. Sống ở thành thị, nghèo đói, chấn thương ở trẻ em, bị bỏ rơi, và nhiễm trùng trước khi sinh là những yếu tố nguy cơ và có khuynh hướng di truyền. Tình trạng này bắt đầu ở tuổi vị thành niên và kéo dài suốt cuộc đời, điển hình là chức năng tâm lý xã hội kém.

Tuổi khởi phát trung bình là từ những năm đầu đến giữa tuổi 20 ở nữ giới và sớm hơn một chút ở nam giới; khoảng 40% nam giới khởi phát giai đoạn đầu tiên trước 20 tuổi. Khởi phát hiếm khi xuất hiện ở thời thơ ấu, nhưng khởi phát ở tuổi vị thành niên sớm hoặc khởi phát muộn (khi đó đôi khi được gọi là hoang tưởng kỳ quái) có thể xảy ra.

Mặc dù nguyên nhân và cơ chế cụ thể không được biết rõ, tâm thần phân liệt có một cơ sở sinh học, được minh chứng bằng

  • Sự thay đổi cấu trúc não (ví dụ, giãn rộng não thất, lớp vỏ não mỏng, giảm kích thước của hồi hải mã phía trước và các vùng não khác)

  • Những thay đổi trong hóa học thần kinh, đặc biệt là thay đổi hoạt động trong các dấu hiệu truyền dẫn dopamine và glutamate

  • Gần đây đã chứng minh các yếu tố nguy cơ di truyền (1)

Một số chuyên gia cho rằng tâm thần phân liệt xuất hiện ở những người có đặc tính dễ bị tổn thương về phát triển thần kinh và sự khởi phát, thuyên giảm và tái phát các triệu chứng là kết quả của những tương tác giữa những đặc tính dễ tổn thương và những yếu tố căng thẳng của môi trường.

Tính dễ bị tổn thương về phát triển thần kinh

Mặc dù tâm thần phân liệt hiếm khi biểu hiện ở trẻ nhỏ, các yếu tố thời thơ ấu ảnh hưởng đến sự khởi phát bệnh ở tuổi trưởng thành. Những yếu tố này bao gồm

  • Khuynh hướng di truyền

  • Các biến chứng trước, trong và sau sinh

  • Nhiễm virus ở hệ thần kinh trung ương

  • Chấn thương và bỏ rơi trẻ em

Mặc dù nhiều người mắc bệnh tâm thần phân liệt không có tiền sử gia đình, nhưng các yếu tố di truyền có liên quan mạnh mẽ. Những người có quan hệ họ hàng bậc 1 với người bệnh tâm thần phân liệt có khoảng 10% đến 12% nguy cơ phát triển rối loạn này, so với 1% nguy cơ trong quần thể chung. Các cặp song sinh cùng trứng có tính đồng nhất vào khoảng 45%.

Mẹ thiếu dinh dưỡng và nhiễm cúm trong ba tháng giữa của thai kỳ, cân nặng khi sinh < 2500 g, Rh không tương thích trong lần mang thai thứ hai, và thiếu oxy làm tăng nguy cơ.

sinh học thần kinh và thần kinh tâm thần có độ nhạy cao cho thấy rằng vận động nhìn đuổi theo bất thường, suy giảm nhận thức và chú ý, và sự tiếp nhận của giác quan bị thiếu hụt xảy ra phổ biến hơn ở những bệnh nhân tâm thần phân liệt hơn so với dân số chung. Những phát hiện này cũng có thể xảy ra ở những người họ hàng cấp độ 1 của những người bị tâm thần phân liệt, và thực sự ở những bệnh nhân mắc nhiều chứng rối loạn tâm thần khác, và có thể đại diện cho một thành phần di truyền của tính dễ bị tổn thương. Sự phổ biến của những phát hiện này qua các rối loạn loạn thần gợi ý rằng các phạm trù chẩn đoán thông thường của chúng ta không phản ánh sự khác biệt sinh học cơ bản giữa các rối loạn tâm thần (1).

Những yếu tố căng thẳng của môi trường

Các tác nhân gây căng thẳng môi trường có thể kích hoạt sự xuất hiện hoặc tái phát của các triệu chứng loạn thần ở những người dễ bị tổn thương. Các yếu tố căng thẳng có thể chủ yếu là sinh hóa (ví dụ, lạm dụng chất, đặc biệt là cần sa) hoặc xã hội (ví dụ như bị thất nghiệp hoặc nghèo túng, rời khỏi nhà đi học đại học, sự tan vỡ của một mối quan hệ lãng mạn, gia nhập Lực lượng Vũ trang); tuy nhiên, những yếu tố căng thẳng này không phải là nguyên nhân. Có bằng chứng mới cho thấy các sự kiện môi trường có thể bắt đầu thay đổi gen có thể ảnh hưởng đến việc sao chép gen và khởi phát bệnh.

Các yếu tố bảo vệ có thể giảm thiểu tác động của căng thẳng đến việc hình thành hoặc làm trầm trọng thêm triệu chứng bao gồm hỗ trợ tâm lý xã hội mạnh mẽ, kỹ năng đối phó được phát triển tốt và thuốc chống loạn thần.

Tài liệu tham khảo nguyên nhân gây bệnh

1. Schizophrenia Working Group of the Psychiatric Genomics Consortium: Biological insights from 108 schizophrenia-associated genetic loci. Nature 511(7510):421-427, 2014. doi: 10.1038/nature13595

Tâm thần phân liệt là bệnh mạn tính có thể tiến triển qua nhiều giai đoạn, mặc dù thời gian và các mô hình của các giai đoạn có thể khác nhau. Bệnh nhân tâm thần phân liệt có xu hướng xuất hiện các triệu chứng loạn thần trung bình từ 8 đến 15 tháng trước khi nhận được chăm sóc y tế.

Các triệu chứng của tâm thần phân liệt thường làm suy giảm chức năng và thường gây trở ngại đến công việc, các mối quan hệ xã hội và khả năng tự chăm sóc bản thân. Thất nghiệp, cách ly, các mối quan hệ xấu đi, và chất lượng cuộc sống bị suy giảm là những hậu quả thường thấy.

Các giai đoạn của tâm thần phân liệt

Trong giai đoạn tiềm phát, bệnh nhân có thể không có triệu chứng hoặc có thể bị suy giảm về năng lực xã hội, rối loạn nhận thức nhẹ hoặc sự méo mó về tri giác, giảm khả năng trải nghiệm niềm vui (vô cảm) và các thiếu sót về ứng phó nói chung khác. Những đặc điểm này có thể nhẹ và chỉ được nhận ra thông qua hồi cứu hoặc có thể dễ nhận thấy hơn, với sự suy giảm về chức năng xã hội, học vấn và nghề nghiệp.

Trong giai đoạn tiền triệu, các triệu chứng dưới lâm sàng có thể xuất hiện; chúng bao gồm sự rút lui hoặc cô lập, dễ cáu kỉnh, đa nghi, những tư duy bất thường, những sự méo mó về tri giác và thiếu tổ chức (1). Sự khởi phát của bệnh tâm thần phân liệt (hoang tưởng và ảo giác) có thể đột ngột (trong nhiều ngày hoặc nhiều tuần) hoặc chậm và âm ỉ (trong nhiều năm). Tuy nhiên, ngay cả trong giai đoạn hoang tưởng tiến triển, chỉ một phần nhỏ (< 40%) có xu hướng chuyển thành tâm thần phân liệt hoàn toàn.

Trong giai đoạn loạn thần, các triệu chứng đang hoạt động và thường ở mức tồi tệ nhất.

Trong giai đoạn trung gian, các giai đoạn có triệu chứng có thể xảy ra theo từng thời kỳ (với sự gia tăng có thể nhận ra được và thuyên giảm) hoặc liên tục; thiếu hụt về chức năng có xu hướng xấu đi.

Trong giai đoạn muộn của bệnhmô hình bệnh tật có thể được thiết lập nhưng có sự thay đổi đáng kể; tình trạng khuyết tật có thể ổn định, xấu đi hoặc thậm chí giảm bớt.

Các loại triệu chứng trong tâm thần phân liệt

Nói chung, các triệu chứng được phân loại là

  • dương tính: Ảo giác và ảo tưởng

  • Âm tính: Giảm hoặc mất các chức năng bình thường và cảm xúc

  • Thiếu tổ chức: Các rối loạn tư duy và hành vi kỳ dị

  • Nhận thức: Thiếu hụt trí nhớ trong xử lý thông tin và giải quyết vấn đề

Bệnh nhân có thể có các triệu chứng từ một tới tất cả các loại.

Triệu chứng dương tính có thể được phân loại thêm nữa là

  • Các hoang tưởng

  • Các ảo giác

Hoang tưởng là niềm tin sai lạc được duy trì mặc dù có bằng chứng mâu thuẫn rõ ràng. Có một số loại hoang tưởng:

  • Các hoang tưởng bị truy hại: Bệnh nhân tin rằng họ đang bị tra tấn, theo dõi, bị lừa hoặc bị do thám.

  • Các hoang tưởng liên hệ: Bệnh nhân tin rằng các đoạn văn từ sách, báo, lời bài hát, hoặc các dấu hiệu môi trường khác có mối liên hệ trực tiếp với họ.

  • Các hoang tưởng về tư duy bị đánh cắp hoặc tư duy bị áp đặt: Bệnh nhân tin rằng những người khác có thể đọc được tâm trí của họ, rằng những suy nghĩ của họ bị lan truyền đến người khác, hoặc những ý nghĩ và xung lực được các lực lượng bên ngoài áp đặt lên họ

Những hoang tưởng trong tâm thần phân liệt có xu hướng kỳ quái – tức là không thực sự hợp lý và không có nguồn gốc từ những kinh nghiệm sống bình thường (ví dụ như tin rằng có ai đó lấy nội tạng của họ ra mà không để lại sẹo).

Các ảo giác là những cảm nhận tri giác mà không ai khác cảm nhận được. Chúng có thể là thính giác, thị giác, khứu giác, xúc giác hoặc xúc giác, nhưng ảo giác thính giác là phổ biến nhất. Bệnh nhân có thể nghe tiếng nói bình luận về hành vi của họ, trò chuyện với nhau, hoặc đưa ra các ý kiến phê bình và mang tính sỉ nhục. Các hoang tưởng và ảo giác có thể gây phiền toái vô cùng cho bệnh nhân.

Các triệu chứng âm tính (thiếu hụt) bao gồm

  • Cảm xúc cùn mòn: Khuôn mặt của bệnh nhân bất động, với tiếp xúc mắt kém và thiếu biểu cảm.

  • Ngôn ngữ nghèo nàn: Bệnh nhân ít nói và trả lời ngắn gọn cho các câu hỏi, tạo nên ấn tượng về tính trạng trống rỗng nội tâm

  • Mất khoái cảm: Có sự thiếu quan tâm đến các hoạt động và tăng các hoạt động không mục đích.

  • Tính không xã hội: Có sự thiếu quan tâm đến các mối quan hệ.

Các triệu chứng tiêu cực thường dẫn đến động lực kém và giảm sút ý thức về mục tiêu và mục đích.

Các triệu chứng thiếu tổ chức, có thể được coi là một loại triệu chứng dương tính, liên quan

  • Các rối loạn tư duy

  • Hành vi kỳ dị

Suy nghĩ là thiếu tổ chức, với bài sự diễn đạt rời rạc, không nhắm đến mục tiêu trực tiếp mà chuyển từ chủ đề này sang chủ đề khác. Ngôn ngữ có thể từ thiếu tổ chức nhẹ tới không mạch lạc và không thể hiểu được. Hành vi kỳ dị có thể bao gồm sự ngây ngô như trẻ con, kích động, và diện mạo, vệ sinh cá nhân, hoặc hành vi không phù hợp. Căng trương lực là một ví dụ cực kỳ điển hình của hành vi kỳ dị, có thể bao gồm duy trì tư thế cứng nhắc và chống lại các nỗ lực để thay đổi tư thế hoặc thực hiện các hoạt động vận động không chủ định và không được khuyến khích.

Các thiếu hụt về nhận thức bao gồm sự suy giảm trong các khía cạnh sau:

  • Khả năng chú ý

  • Tốc độ xử lý

  • Trí nhớ làm việc và khai báo

  • Tư duy trừu tượng

  • Giải quyết vấn đề

  • Hiểu biết về tương tác xã hội

Tư duy của bệnh nhân có thể không linh hoạt, và khả năng giải quyết vấn đề, hiểu quan điểm của người khác và học hỏi kinh nghiệm có thể bị giảm đi. Mức độ nghiêm trọng của suy giảm nhận thức là yếu tố quyết định chính cho tình trạng loạn hoạt năng nói chung.

Các phân nhóm tâm thần phân liệt

Một số chuyên gia phân loại tâm thần phân liệt thành các phân nhóm thiếu hụt và không thiếu hụt phụ thuộc vào sự hiện diện và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng âm tính, như cảm xúc cùn mòn, thiếu động lực, và suy giảm khả năng phán đoán mục đích.

Những bệnh nhân với phân nhóm thiếu hụt có các triệu chứng âm tính nổi bật mà không quy cho các yếu tố khác (ví dụ như trầm cảm, lo âu, môi trường kém kích thích, tác dụng không mong muốn của thuốc).

Những bệnh nhân với phân nhóm không thiếu hụt có thể có hoang tưởng, ảo giác, và các rối loạn tư duy nhưng hầu như không có các triệu chứng âm tính.

Các phân nhóm tâm thần phân liệt đã từng được công nhận trước đây (hoang tưởng, thiếu tổ chức, căng trương lực, di chứng, không phân biệt) đã không chứng minh được tính giá trị hoặc độ tin cậy và không còn được sử dụng nữa.

Tự sát

Khoảng 5 đến 6% bệnh nhân tâm thần phân liệt có tự sát thành công, và khoảng 20% có toan tự sát; số lượng nhiều hơn có ý tưởng tự sát đáng kể. Tự sát là nguyên nhân chính gây tử vong sớm ở người bị tâm thần phân liệt và giải thích, phần nào, tại sao trung bình rối loạn này làm giảm tuổi thọ xuống 10 năm.

Nguy cơ có thể đặc biệt cao đối với người trẻ bị tâm thần phân liệt và một rối loạn sử dụng chất. Nguy cơ cũng tăng lên ở những bệnh nhân có triệu chứng trầm cảm hoặc cảm thấy tuyệt vọng, những người thất nghiệp, hoặc những người vừa bị có một giai đoạn loạn thần hoặc đã được xuất viện.

Những bệnh nhân có khởi phát muộn và có chức năng tiềm phát tốt – những bệnh nhân có tiên lượng hồi phục tốt nhất – cũng có nguy cơ tự sát cao nhất. Bởi vì những bệnh nhân này vẫn giữ được khả năng đau buồn và đau đớn, họ có thể dễ bị hành động trong nỗi thất vọng dựa trên nhận thức thực tế về ảnh hưởng của rối loạn của họ.

Bạo lực

Tâm thần phân liệt là một yếu tố nguy cơ khiêm tốn đáng ngạc nhiên đối với hành vi bạo lực. Đe dọa bạo lực và bộc phát hung hãn thường phổ biến hơn là hành vi nguy hiểm nghiêm trọng. Thật vậy, những người bị tâm thần phân liệt nói chung ít bạo lực hơn những người không bị tâm thần phân liệt.

Bệnh nhân có nhiều khả năng gây bạo lực đáng kể bao gồm những người rối loạn sử dụng chất, các hoang tưởng bị hại, hoặc ảo giác ra lệnh và những người không dùng thuốc theo đơn. Một số ít người bị trầm cảm, cách ly xã hội và hội chứng paranoid tấn công hoặc giết người mà họ cho là nguồn gốc khó khăn của họ (ví dụ như một người có quyền, một người nổi tiếng, vợ/chồng của họ).

Tài liệu tham khảo về các triệu chứng

1. Tsuang MT, Van Os J, Tandon R, et al: Attenuated psychosis syndrome in DSM-5. Schizophr Res 150(1):31–35, 2013. doi: 10.1016/j.schres.2013.05.004

  • Tiêu chuẩn lâm sàng (Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần, Ấn bản lần thứ Năm [DSM-5])

  • Sự kết hợp của bệnh sử, các triệu chứng và dấu hiệu

Việc điều trị càng được bắt đầu sớm thì kết quả càng tốt.

Không có xét nghiệm tiêu chuẩn nào để chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt. Chẩn đoán dựa trên đánh giá toàn diện về bệnh sử, các triệu chứng và dấu hiệu. Thông tin từ các nguồn cung cấp thông tin, như các thành viên gia đình, bạn bè, giáo viên và đồng nghiệp, thường là quan trọng.

Theo DSM-5, chẩn đoán đòi hỏi cả hai điều sau đây:

  •  2 triệu chứng đặc trưng (hoang tưởng, ảo giác, ngôn ngữ thiếu tổ chức, hành vi thiếu tổ chức, các triệu chứng âm tính) trong một phần đáng kể trong khoảng thời gian 6 tháng (các triệu chứng phải bao gồm ít nhất một trong 3 triệu chứng đầu)

  • Các dấu hiệu tiền triệu hoặc thuyên giảm của bệnh với các suy giảm rõ ràng về mặt về xã hội, nghề nghiệp hoặc tự chăm sóc trong khoảng thời gian 6 tháng bao gồm 1 tháng các triệu chứng hoạt động

Chẩn đoán phân biệt

Loạn thần do các rối loạn thể chất khác hoặc lạm dụng chất phải được loại trừ thông qua tiền sử và kiểm tra bao gồm các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm và hình ảnh thần kinh(Đánh giá y tế bệnh nhân có triệu chứng tâm thần). Mặc dù một số bệnh nhân tâm thần phân liệt có bất thường về cấu trúc não hiện diện trên hình ảnh, những bất thường này không đủ đặc hiệu để có giá trị chẩn đoán.

Các rối loạn tâm thần khác với các triệu chứng tương tự bao gồm một số bệnh liên quan đến tâm thần phân liệt:

  • Rối loạn loạn thần ngắn

  • Rối loạn hoang tưởng

  • Rối loạn phân liệt cảm xúc

  • Rối loạn dạng phân liệt

  • Rối loạn nhân cách loại phân liệt

Ngoài ra, các rối loạn cảm xúc có thể gây ra loạn thần ở một số người.

Các xét nghiệm thần kinh tâm lý, chẩn đoán hình ảnh não, điện não đồ và các xét nghiệm khác về chức năng của não (ví dụ như theo dõi bằng mắt) không giúp phân biệt giữa các rối loạn loạn thần. Tuy nhiên, nghiên cứu sớm (1) gợi ý rằng kết quả của các xét nghiệm như vậy có thể được sử dụng để phân nhóm bệnh nhân thành 3 kiểu gen tâm thần riêng biệt không tương ứng với các loại chẩn đoán lâm sàng hiện tại.

Một số rối loạn nhân cách (đặc biệt là loại phân liệt) gây ra các triệu chứng tương tự như tâm thần phân liệt, mặc dù chúng thường nhẹ hơn và không có loạn thần.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1.Clementz BA, Sweeney JA, Hamm JP, et al: Identification of distinct psychosis biotypes using brain-based biomarkers. Am J Psychiatry 173(4): 373-384, 2016. doi: 10.1176/appi.ajp.2015.14091200

Các nghiên cứu bắt nguồn từ sáng kiến RAISE (Phục hồi sau một cơn tâm thần phân liệt ban đầu) đã chỉ ra rằng việc điều trị sớm được bắt đầu và càng tiến triển tốt hơn (1).

Trong 5 năm đầu sau khi xuất hiện các triệu chứng, chức năng có thể xấu đi và các kỹ năng xã hội và công việc có thể bị suy giảm, với sự sao lãng dần dần trong việc chăm sóc bản thần. Các triệu chứng âm tính có thể gia tăng ở nhiều mức độ khác nhau, và chức năng nhận thức có thể bị suy giảm. Sau đó, mức độ loạn hoạt năng có xu hướng ổn định. Một số bằng chứng cho thấy mức độ nghiêm trọng của bệnh có thể giảm đi khi về già, đặc biệt là ở phụ nữ. Các rối loạn vận động tự phát có thể phát triển ở những bệnh nhân có các triệu chứng âm tính nghiêm trọng và rối loạn chức năng nhận thức, ngay cả khi các thuốc chống loạn thần không được sử dụng.

Tâm thần phân liệt có thể xảy ra cùng với các rối loạn tâm thần khác. Khi kết hợp với mức độ đáng kể các triệu chứng ám ảnh nghi thức, tiên lượng đặc biệt kém; với các triệu chứng rối loạn nhân cách ranh giới, tiên lượng là tốt hơn. Khoảng 80% người bị tâm thần phân liệt trải qua một hoặc nhiều giai đoạn trầm cảm điển hình ở một thời điểm nào đó trong cuộc đời họ.

Trong năm đầu tiên sau khi được chẩn đoán, tiên lượng có liên quan chặt chẽ đến việc tuân thủ các thuốc hướng thần.

Nhìn chung, 1/3 bệnh nhân đạt được sự cải thiện đáng kể và kéo dài; một phần ba cải thiện phần nào nhưng có sự tái phát liên tục và để lại loạn hoạt năng; và một phần ba vẫn mất khả năng lao động nghiêm trọng. Chỉ có khoảng 15% số bệnh nhân hoàn toàn trở lại mức độ chức năng như trước khi phát bệnh.

Các yếu tố liên quan đến tiên lượng tốt bao gồm

  • Có chức năng tốt trước khi phát bệnh (ví dụ, học giỏi, có khả năng tốt trong công việc trước khi phát bệnh)

  • Khởi phát muộn và/hoặc đột ngột

  • Gia đình có tiền sử bị các rối loạn cảm xúc khác ngoài tâm thần phân liệt

  • Suy giảm nhận thức nhẹ

  • Ít triệu chứng âm tính

  • Thời gian loạn thần không được điều trị ngắn

Các yếu tố liên quan đến tiên lượng xấu bao gồm

  • Tuổi khởi phát trẻ

  • Chức năng trước khi phát bệnh kém

  • Tiền gia đình có tâm thần phân liệt

  • Nhiều triệu chứng âm tính

  • Thời gian loạn thần không được điều trị dài hơn

Nam giới có kết quả kém hơn so với nữ giới; nữ giới đáp ứng tốt hơn với điều trị bằng thuốc chống loạn thần.

Lạm dụng chất là một vấn đề đáng kể đối với nhiều bệnh nhân tâm thần phân liệt. Một số bằng chứng cho thấy việc sử dụng cần sa và các chất gây ảo giác khác gây rối loạn trầm trọng đối với bệnh nhân tâm thần phân liệt và cần được mạnh mẽ ngăn chặn. Sự dụng chất gây nghiện là một yếu tố tiên lượng xấu rõ ràng và có thể dẫn đến tình trạng bỏ thuốc, tái phát lặp lại, tái nhập viện thường xuyên, giảm chức năng, và mất hỗ trợ xã hội, bao gồm vô gia cư.

Tài liệu tham khảo về tiên lượng bệnh

1. RAISE: Recovery After an Initial Schizophrenia Episode—A Research Project of the National Institute of Mental Health (NIMH). Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2022.

  • Các thuốc chống loạn thần

  • Phục hồi chức năng, bao gồm khắc phục nhận thức, đào tạo dựa vào cộng đồng và các dịch vụ hỗ trợ

  • Tâm lý trị liệu, hướng tới đào tạo khả năng phục hổi

Thời gian bắt đầu xuất hiện các triệu chứng loạn thần và điều trị lần đầu tiên tương quan với sự nhanh chóng của đáp ứng điều trị ban đầu và chất lượng đáp ứng điều trị. Khi được điều trị sớm, bệnh nhân có xu hướng đáp ứng nhanh hơn và đầy đủ hơn. Nếu không dùng duy trì thuốc chống loạn thần sau giai đoạn đầu tiên, 70 đến 80% bệnh nhân sẽ có một đợt bệnh tiếp theo trong vòng 12 tháng. Sử dụng liên tục thuốc chống loạn thần có thể giảm tỷ lệ tái phát trong 1 năm xuống khoảng 30% hoặc thấp hơn với các thuốc tác dụng kéo dài. Điều trị bằng thuốc liên tục được duy trì từ 1 đến 2 năm sau giai đoạn đầu tiên. Nếu bệnh nhân đã bị bệnh lâu hơn, việc dùng thuốc được duy trì trong nhiều năm.

Phát hiện sớm và điều trị nhiều mặt đã chuyển đổi việc chăm sóc bệnh nhân rối loạn tâm thần như tâm thần phân liệt. Phối hợp chăm sóc đặc biệt, bao gồm đào tạo về khả năng phục hồi, liệu pháp cá nhân và gia đình, giải quyết rối loạn nhận thức, và việc làm được hỗ trợ, là một đóng góp quan trọng trong việc phục hồi tâm lý xã hội.

Mục tiêu chung để điều trị tâm thần phân liệt là

  • Giảm mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng loạn thần

  • Bảo tồn chức năng tâm lý xã hội

  • Ngăn ngừa tái phát các giai đoạn triệu chứng và suy giảm chức năng

  • Giảm sử dụng thuốc giải trí

Thuốc chống loạn thần, phục hồi chức năng với các dịch vụ hỗ trợ cộng đồng, và liệu pháp tâm lý là những thành phần chính của điều trị. Bởi vì tâm thần phân liệt là một bệnh mạn tính kéo dài và tái phát, nên việc dạy cho bệnh nhân về các kỹ năng tự quản lý là một mục tiêu tổng thể quan trọng. Cung cấp thông tin về rối loạn (tâm lý giáo dục) cho phụ huynh có thể làm giảm tỷ lệ tái phát (1, 2). (Xem thêm American Psychiatric Association’s Practice Guideline for the Treatment of Patients With Schizophrenia, tái bản lần thứ 3.)

Thuốc chống loạn thần được chia thành các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ nhất (FGA) và các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai (SGA) dựa trên tính ái lực và hoạt tính với các thụ thể của chất dẫn truyền thần kinh đặc hiệu của chúng. Các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai có thể mang lại một số ưu điểm cả về sự tốt hơn một chút về mặt hiệu quả (mặc dù những bằng chứng gần đây hoài nghi về tính ưu việt của chúng nếu được xem xét chung vào 1 nhóm) và giảm khả năng gây rối loạn vận động tự phát và các tác dụng không mong muốn có liên quan. Tuy nhiên, nguy cơ bị hội chứng chuyển hóa (mỡ bụng quá mức, kháng insulin, rối loạn lipid máu và tăng huyết áp) là lớn hơn ở các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai so với thuốc chống loạn thần điển hình. Một số thuốc chống loạn thần ở cả hai nhóm có thể gây ra hội chứng QT kéo dài và cuối cùng làm tăng nguy cơ rối loạn nhịp gây tử vong; những thuốc này bao gồm thioridazin, haloperidol, olanzapin, risperidon, và ziprasidon.

Phục hồi chức năng và các dịch vụ hỗ trợ cộng đồng

Các chương trình đào tạo kỹ năng tâm lý xã hội và các chương trình phục hồi chức năng nghề nghiệp giúp nhiều bệnh nhân làm việc, mua sắm và tự chăm sóc bản thân; quản lý một gia đình; hòa hợp với người khác; và làm việc với các nhân viên chăm sóc sức khỏe tâm thần.

Việc làm được hỗ trợ, trong đó bệnh nhân được đặt trong môi trường làm việc cạnh tranh và được hỗ trợ bởi một người kèm cặp công việc tại chỗ để thúc đẩy sự thích ứng với công việc, có thể có giá trị đặc biệt. Trong thời gian này, người kèm cặp công việc chỉ như là một phương án dự phòng để giải quyết vấn đề hoặc để liên lạc với người sử dụng lao động.

Các dịch vụ hỗ trợ cho phép nhiều bệnh nhân tâm thần phân liệt sống tại cộng đồng. Mặc dù hầu hết có thể sống độc lập, một số yêu cầu phải có căn hộ được giám sát, nơi có nhân viên để đảm bảo tuân thủ thuốc. Các chương trình cung cấp một giám sát ở các khu dân cư khác nhau được phân mức độ từ hỗ trợ 24 giờ cho tới các chuyến thăm nhà định kỳ. Các chương trình này giúp thúc đẩy tính tự chủ của bệnh nhân khi được cung cấp sự chăm sóc đầy đủ để giảm thiểu tối đa khả năng tái phát và cần phải nhập viện nội trú. Các chương trình điều trị cộng đồng chuyên sâu cung cấp các dịch vụ tại nhà của bệnh nhân hoặc nơi cư ngụ khác và dựa trên tỷ lệ nhân viên-bệnh nhân cao; các nhóm điều trị cung cấp trực tiếp tất cả hoặc gần như tất cả các dịch vụ điều trị bắt buộc.

Có thể cần phải nhập viện hoặc điều trị theo đợt luân phiên trong bệnh viện khi tái phát mức độ nặng, và việc nhập viện bắt buộc có thể là cần thiết nếu bệnh nhân gây nguy hiểm cho bản thân hoặc người khác. Kể cả với phục hồi chức năng và các dịch vụ hỗ trợ cộng đồng tốt nhất, một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân, đặc biệt là những người có thiếu hụt nhận thức trầm trọng và những người kém đáp ứng với điều trị bằng thuốc, đòi hỏi sự chăm sóc hỗ trợ hoặc nằm viện dài hạn.

Liệu pháp hỗ trợ nhận thức mang lại lợi ích cho một số bệnh nhân. Liệu pháp này được thiết kế để cải thiện chức năng nhận thức thần kinh (ví dụ như chú ý, trí nhớ ngắn hạn, chức năng điều hành) và giúp bệnh nhân học hay học lại cách thực hiện các nhiệm vụ. Liệu pháp này có thể giúp bệnh nhân hoạt động tốt hơn.

Tâm lý trị liệu

Mục tiêu của tâm lý trị liệu trong tâm thần phân liệt là phát triển mối quan hệ hợp tác giữa bệnh nhân, các thành viên trong gia đình và bác sĩ để bệnh nhân có thể học để quản lý bệnh tật của họ, dùng thuốc theo đơn và xử lý stress hiệu quả hơn.

Mặc dù liệu pháp tâm lý cá nhân cộng với trị liệu bằng thuốc là một cách tiếp cận phổ biến, nhưng hiện chỉ có một số ít các hướng dẫn theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa. Tâm lý trị liệu mà bắt đầu bằng cách giải quyết các nhu cầu cơ bản về dịch vụ xã hội của bệnh nhân, cung cấp hỗ trợ và giáo dục về bản chất của bệnh, thúc đẩy các hoạt động thích ứng và dựa trên sự đồng cảm và hiểu biết đầy đủ về tâm thần phân liệt dường như là có hiệu quả nhất. Nhiều bệnh nhân cần được hỗ trợ tâm lý một cách đồng cảm để thích ứng với những gì thường một bệnh mạn tính suốt đời có thể gây ra sự hạn chế về mặt chức năng.

Ngoài trị liệu tâm lý cá nhân, đã có sự phát triển đáng kể về liệu pháp nhận thức hành vi cho bệnh tâm thần phân liệt. Ví dụ, liệu pháp này, được thực hiện trong một môi trường trị liệu cá nhân hoặc nhóm, có thể tập trung vào các cách giảm bớt các tư duy hoang tưởng.

Đối với bệnh nhân sống cùng gia đình, các can thiệp tâm lý giáo dục hướng gia đình có thể làm giảm tỷ lệ tái phát. Các nhóm hỗ trợ và nhóm lợi ích, chẳng hạn như National Alliance on Mental Illness, thường hữu ích cho các gia đình.

Tài liệu tham khảo về điều trị tổng quát

1. Correll CU, Rubio JM, Inczedy-Farkas G, et al: Efficacy of 42 pharmacologic cotreatment strategies added to antipsychotic monotherapy in schizophrenia: Systematic overview and quality appraisal of the meta-analytic evidence. JAMA Psychiatry 74(7):675-684, 2017. doi: 10.1001/jamapsychiatry.2017.0624

2. Wang SM, Han C, Lee SJ: Investigational dopamine antagonists for the treatment of schizophrenia. Expert Opin Investig Drugs 26(6):687-698, 2017.  doi: 10.1080/13543784.2017.1323870

Rối loạn dạng phân liệt được đặc trưng bởi các triệu chứng giống với tâm thần phân liệt nhưng các triệu chứng đó kéo dài  1 tháng nhưng < 6 tháng.

Loạn thần đề cập đến các triệu chứng như hoang tưởng, ảo giác, tư duy và ngôn ngữ thiếu tổ chức, hành vi vận động kỳ dị và không thích hợp (bao gồm căng trương lực) cho thấy sự mất liên hệ với thực tại. (Giới thiệu về Tâm thần phân liệt và các rối loạn liên quan)

Khi biểu hiện, tâm thần phân liệt có thể còn gây tranh cãi. Loạn thần thứ phát do sử dụng chất hoặc do một rối loạn về thể chất cũng phải được loại trừ. Phân biệt giữa rối loạn dạng phân liệt và tâm thần phân liệt ở bệnh nhân mà không có bất kỳ triệu chứng loạn thần trước đó được dựa trên thời gian của các triệu chứng. Nếu thời gian triệu chứng hoặc loạn hoạt năng vượt quá 6 tháng, bệnh nhân không còn đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán của rối loạn dạng phân liệt, và chẩn đoán có thể là tâm thần phân liệt, mặc dù loạn thần cấp cũng có thể tiến triển thành một rối loạn rối loạn cảm xúc có loạn thần, nhưrối loạn lưỡng cực hoặc là rối loạn phân liệt cảm xúc. Theo dõi dọc thường được yêu cầu để thiết lập chẩn đoán và điều trị thích hợp.

Điều trị bằng thuốc chống loạn thần và chăm sóc tâm lý xã hội hỗ trợ được chỉ định. Sau khi các triệu chứng được giải quyết, điều trị bằng thuốc tiếp tục kéo dài 12 tháng và sau đó giảm dần liều với sự theo dõi chặt chẽ sự tái phát của các triệu chứng loạn thần.

Loạn thần cảm ứng xảy ra khi người ta học được hoang tưởng từ người mà họ có quan hệ cá nhân gần gũi.

Loạn thần đề cập đến các triệu chứng như hoang tưởng, ảo giác, tư duy và ngôn ngữ thiếu tổ chức, hành vi vận động kỳ dị và không thích hợp (bao gồm căng trương lực) cho thấy sự mất liên hệ với thực tại. (Giới thiệu về Tâm thần phân liệt và các rối loạn liên quan)

Rối loạn tâm thần chia sẻ (trước đây gọi là “loạn thần đôi“) bây giờ được cân nhắc như là một dưới nhóm của rối loạn hoang tưởng. Rối loạn này thường xảy ra ở một người hoặc một nhóm người (thường là một gia đình) có quan hệ với một người có rối loạn hoang tưởng hoặc tâm thần phân liệt nghiêm trọng. Tỷ lệ loạn thần cảm ứng không được thống kê, nhưng rối loạn này dường như rất hiếm. Bệnh nhân có rối loạn tiên phát thường là thành viên chiếm ưu thế về mặt xã hội trong mối quan hệ và áp đặt hoang tưởng hoặc thuyết phục bệnh nhân với rối loạn thứ phát của những niềm tin bất thường.

Xác định người trong mối quan hệ có rối loạn tâm thần tiên phát là quan trọng bởi vì người bị rối loạn thứ phát thường không duy trì niềm tin hoang tưởng khi tách khỏi người có rối loạn tiên phát.

Tư vấn và điều trị thường có thể giúp những người bị loạn thần cảm ứng. Thông thường, những người có các triệu chứng loạn thần cần điều trị bằng thuốc.

Rối loạn loạn thần gây ra bởi chất/thuốc đặc trưng bởi các ảo giác và/hoặc hoang tưởng do tác động trực tiếp của một chất hoặc cai chất mà không có mê sảng.

Các đợt rối loạn loạn thần do chất xuất hiện phổ biến ở các khoa cấp cứu và các trung tâm khủng hoảng. Có rất nhiều chất, bao gồm rượuamphetamincần sacocain, chất gây ảo giácopioidphencyclidin (PCP) và chất gây ngủ/an dịu. Để được cân nhắc là rối loạn loạn thần do chất gây, ảo giác và hoang tưởng nên vượt quá các triệu chứng thường đi kèm với tình trạng nhiễm độc chất hoặc cai chất đơn thuần, mặc dù bệnh nhân cũng có thể bị ngộ độc hoặc hội chứng cai.

Các triệu chứng thường ngắn, hết nhanh sau khi sạch thuốc, nhưng loạn thần do amphetamin, cocain hoặc PCP gây ra có thể kéo dài trong nhiều tuần. Vì một số người trẻ có tiền triệu hoặc giai đoạn sớm của tâm thần phân liệt sử dụng các chất có thể gây ra rối loạn loạn thần, điều quan trọng là phải khai thác được một tiền sử toàn diện, đặc biệt là tìm kiếm bằng chứng về các triệu chứng tâm thần trước đây trước khi kết luận rằng loạn thần cấp gây ra chỉ do sử dụng chất gây kích thích.

  • Một môi trường yên tĩnh

  • Thông thường sử dụng một benzodiazepin hoặc thuốc chống loạn thần

Trong hầu hết các loạn thần gây ra do chất, ngưng sử dụng chất và sử dụng một thuốc giải lo âu hoặc thuốc chống loạn thần sẽ mang lại hiệu quả.

Đối với loạn thần gây ra do các chất kích thích dopamin như amphetamin, thuốc chống loạn thần sẽ có hiệu quả nhất.

Đối với rối loạn tâm thần do các loại thuốc như lysergic acid diethylamide (LSD), có thể cần quan sát yên tĩnh.

Đối với các chất có hoạt động không liên quan đến dopamin, theo dõi có thể tất cả những gì cần thiết, hoặc một thuốc giải lo âu có thể giúp ích.

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)

Không phù hợp giới và Rối loạn phân định giới tính

Giới tính sinh học, giới tính và nhân dạng

Giới tính và giới không giống nhau và nên được coi là những đặc điểm riêng biệt về mặt lâm sàng. Thuật ngữ liên quan đến giới tính và giới bao gồm (1, 2)

  • Giới tính: Được xác định bởi các đặc điểm thường được sử dụng để phân biệt giữa nam và nữ; giới tính đề cập đặc biệt đến các đặc điểm thể chất và sinh học thể hiện rõ ràng về mặt thể chất khi sinh và thường được hiểu trong các cụm từ “nam giới được ấn định khi sinh” (AMAB) và “nữ giới được ấn định khi sinh” (AFAB).

  • Bản dạng giới: Một cảm giác bên trong về việc mình là nam, nữ hay cái gì khác, có thể tương ứng hoặc không tương ứng với giới tính được ấn định khi sinh hoặc các đặc điểm giới tính của một cá nhân.

  • Biểu hiện giới: Quần áo, ngoại hình và các cách trình bày và hành vi bên ngoài khác thể hiện các khía cạnh của bản dạng giới hoặc vai trò giới.

  • Không phù hợp giới: Trải nghiệm rõ rệt và dai dẳng của một người về sự không tương thích giữa bản dạng giới của người đó và giới mong đợi ở họ dựa trên giới tính ấn định lúc sinh của họ.

  • Rối loạn định dạng giới Cảm giác khó chịu hoặc đau khổ liên quan đến không phù hợp giữa bản dạng giới của một cá nhân và giới tính ấn định lúc sinh.

  • Người hợp giới: Được sử dụng để mô tả một cá nhân có bản dạng giới và biểu hiện giới phù hợp với giới tính ấn định lúc sinh.

  • Người chuyển giới: Một thuật ngữ chung bao gồm những người có bản dạng giới hoặc vai trò giới khác với những đặc điểm thường liên quan đến giới tính mà họ được ấn định lúc sinh.

  • Không theo chuẩn giới: Mô tả một cá nhân có bản dạng giới hoặc biểu hiện giới khác với các chuẩn mực giới liên quan đến giới tính mà họ được ấn định lúc sinh.

  • Đa dạng giới: Mô tả một cá nhân có bản dạng giới không phù hợp với sự hiểu biết nhị nguyên giới, bao gồm cả những người nghĩ họ là cả nam và nữ, không chuyển giới, chuyển giới, giới thứ ba hoặc hoàn toàn không thuộc giới nào. Một số tự coi mình là phi nhị nguyên đối với bản dạng giới và/hoặc vai trò giới của họ.

  • Phi nhị nguyên giới: Bao gồm những người có giới tính có nhiều hơn một bản dạng giới cùng một lúc hoặc tại các thời điểm khác nhau (ví dụ: song giới); những người không có bản dạng giới hoặc có bản dạng giới trung lập (ví dụ: vô giới hoặc trung giới); có bản dạng giới bao gồm hoặc pha trộn các yếu tố của các giới khác (ví dụ: đa giới, á nam, á nữ); và/hoặc những người có giới thay đổi theo thời gian (ví dụ: linh hoạt giới).

  • Nhị nguyên giới: Việc phân loại giới tính thành 2 loại riêng biệt là nam và nữ (một khuôn mẫu trước đây không cho phép những người không xác định là nam hay nữ).

  • Người chuyển giới nữ: Những người được ấn định là nam lúc sinh (AMAB) và đã có bản dạng giới là nữ, bất kể họ có trải qua bất kỳ quá trình chuyển đổi giới về y tế nào hay không.

  • Người chuyển giới nam: Những người được ấn định là nữ lúc sinh (AFAB) và đã có bản dạng giới là nam, bất kể họ có trải qua bất kỳ quá trình chuyển đổi giới tính về y tế nào hay không.

  • Thái giám: Một người được ấn định là nam lúc sinh có tinh hoàn đã được phẫu thuật cắt bỏ hoặc không hoạt động và được xác định là thái giám. Điều này khác với định nghĩa y tế tiêu chuẩn bằng cách loại trừ những người không xác định là thái giám.

  • Khẳng định giá trị pháp lý của người chuyển giới: Nhận thức, tôn trọng và hỗ trợ các nhu cầu của người chuyển giới và người không theo chuẩn giới.

  • Xu hướng tính dục: Dạng hấp dẫn về tình cảm, lãng mạn và/hoặc tình dục mà mọi người có đối với những người khác. Nó cũng đề cập đến ý thức của một người về bản dạng cá nhân và bản dạng xã hội dựa trên những điểm hấp dẫn đó, các hành vi liên quan và tư cách thành viên trong một cộng đồng gồm những người khác có những điểm hấp dẫn và hành vi tương tự. Bản dạng tính dục khác với bản dạng giới.

Người chuyển giới và đa dạng giới là những thuật ngữ được ưu tiên dùng để chỉ những người có bản dạng giới khác với giới phù hợp với giới tính mà họ được ấn định khi sinh. Chủ nghĩa chuyển đổi giới tính là một thuật ngữ lỗi thời không còn được các chuyên gia về rối loạn định dạng giới sử dụng nữa.

Bản dạng giới bao gồm nam tính hoặc nữ tính truyền thống, với sự thừa nhận ngày càng tăng về văn hóa mà một số người không phù hợp – cũng không nhất thiết muốn phù hợp – với sự phân đôi nam-nữ truyền thống (nhị nguyên giới). Những người này có thể tự coi mình là đa dạng giới, phi nhị nguyên, không theo chuẩn hoặc một trong nhiều thuật ngữ khác đã được sử dụng phổ biến hơn. Hơn nữa, các định nghĩa và cách phân loại vai trò giới có thể khác nhau giữa các xã hội. Thuật ngữ người hợp giới, áp dụng cho đa số mọi người, được dùng để chỉ những người có bản dạng giới tương ứng với giới tính được ấn định lúc sinh của họ.

Nhiều nền văn hóa khoan dung hơn đối với các hành vi không theo chuẩn giới ở trẻ gái (ví dụ: thực hiện các hoạt động hoặc mặc quần áo thường dành cho trẻ em trai) hơn là hành vi ẻo lả ở trẻ trai. Là một phần của quá trình phát triển bình thường, nhiều bé trai đóng vai trò là các bé gái hoặc các bà mẹ, bao gồm cả việc mặc thử quần áo của mẹ hoặc của chị gái hoặc tham gia vào các hành vi khuôn mẫu hoặc bày tỏ sở thích liên quan đến các bé gái trong một xã hội nhất định. Không phù hợp giới (hành vi khác biệt đáng kể so với các chuẩn mực văn hóa về giới lúc sinh của một người) ở trẻ em thường không được coi là một rối loạn và thường không kéo dài đến tuổi trưởng thành hoặc dẫn đến rối loạn định dạng giới, mặc dù thanh thiếu niên không phù hợp giới dai dẳng có nhiều khả năng được xác định là đồng tính luyến ái hoặc song tính khi trưởng thành (3).

Bản dạng giới phi nhị nguyên đề cập đến những cá nhân trải nghiệm giới của họ khác với quan điểm điển hình của phương Tây về bản dạng giới nhị nguyên (nam tính hoặc nữ tính). Phi nhị nguyên mô tả những người có các loại bản dạng giới khác nhau, bao gồm những người không xác định họ thuộc bất kỳ giới, những người xác định họ có nhiều giới và những người có thể trải nghiệm các giới khác nhau theo thời gian hoặc trong các bối cảnh khác nhau (linh hoạt giới) (4). Mặc dù một số người phi nhị nguyên xác định là người chuyển giới, nhưng nhiều người thì không.

Những người phi nhị nguyên có thể sử dụng đại từ họ/của họ hoặc đại từ mới được tạo như ze/zir/hir hoặc e/er/ers, trong số những người khác. Các nghiên cứu đã báo cáo rằng những người phi nhị nguyên có thể chiếm từ 25% đến 50% trong cộng đồng đa dạng giới, với tỷ lệ phần trăm cao hơn ở thanh thiếu niên và thanh niên (5). Hiện tại, phần lớn những người phi nhị nguyên được ấn định là nữ lúc sinh.

Trước những năm 2010, phần lớn bệnh nhân bị rối loạn định dạng giới yêu cầu điều trị đã được ấn định là nam giới lúc sinh. Điều này đã thay đổi, với sự gia tăng đáng kể số lượng bệnh nhân vị thành niên được ấn định là nữ lúc sinh đến các phòng khám trên toàn thế giới để đánh giá và điều trị (6, 7).

Rối loạn định dạng giới và không phù hợp giới

Đối với hầu hết mọi người, có sự tương đồng giữa giới tính lúc sinh, bản dạng giới và vai trò giới của họ. Tuy nhiên, những người bị rối loạn định dạng giới chịu đau khổ liên quan đến một số mức độ không phù hợp giữa giới tính lúc sinh và bản dạng giới của họ. Rối loạn định dạng giới là một chẩn đoán trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, phiên bản thứ Năm, sửa đổi nội dung (DSM-5-TR) và được chia thành 2 bộ tiêu chuẩn chẩn đoán, một dành cho trẻ em và một dành cho thanh thiếu niên và người lớn (8).

Nếu một cá nhân trải nghiệm hoặc thể hiện không phù hợp giới hoặc không theo chuẩn giới, thì bản thân điều này không được coi là một rối loạn. Nó được coi là một biến thể bình thường trong bản dạng giới và biểu hiện giới của con người. Tuy nhiên, khi nhận thức được sự không phù hợp giữa giới tính khi sinh và ý thức bên trong về bản dạng giới khiến một người nào đó đau khổ hoặc suy giảm chức năng đáng kể, thì chẩn đoán lâm sàng về rối loạn định dạng giới có thể phù hợp. Chẩn đoán được xác định bởi sự đau khổ của người đó hơn là sự hiện diện của không phù hợp giới hoặc bản dạng giới.

Nỗi đau khổ vì rối loạn định dạng giới thường được mô tả là sự kết hợp của lo lắng, trầm cảm, cáu kỉnh và cảm giác không thoải mái trong cơ thể một người. Những người bị rối loạn định dạng giới nặng có thể có các triệu chứng nặng, đáng lo ngại và kéo dài. Họ thường có mong muốn mạnh mẽ được thay đổi cơ thể của mình theo cách nội khoa và/hoặc ngoại khoa để làm cho cơ thể của họ phù hợp hơn với bản dạng giới của họ.

Không có đủ dữ liệu để xác định tỷ lệ hiện hành chính xác của không phù hợp giới hoặc rối loạn định dạng giới, nhưng các nghiên cứu được thực hiện trong các hệ thống chăm sóc sức khỏe lớn đã báo cáo rằng 0,02% đến 0,1% số bệnh nhân đáp ứng các tiêu chuẩn DSM-5-TR trong chẩn đoán rối loạn định dạng giới. Các nghiên cứu dựa trên khảo sát về các cá nhân trong bối cảnh phi lâm sàng đã báo cáo tỷ lệ người được hỏi tự nhận mình là người chuyển giới thậm chí còn cao hơn:

Ở người lớn, tỷ lệ hiện hành được chia thành 2 nhóm riêng biệt:

  • Những người tự coi mình là người chuyển giới (0,5% đến 0,6%)

  • Những người tự cho mình là không phù hợp giới/đa dạng giới (0,6% đến 1,1%)

Ở trẻ em và thanh thiếu niên, các mô hình phổ biến giống nhau đã được ghi nhận:

  • Những người tự coi mình là người chuyển giới (1,2% đến 2,7%)

  • Những người tự cho mình là không phù hợp giới/đa dạng giới (2,5% đến 8,4%)

Theo một số chuyên gia, chẩn đoán rối loạn định dạng giới chủ yếu là một tình trạng bệnh lý tổng quát với các triệu chứng tâm thần kèm theo, giống như rối loạn phát triển giới tính chứ không phải là rối loạn tâm thần. Kết quả là, không phù hợp giới và rối loạn định dạng giới không còn được liệt kê là tình trạng sức khỏe tâm thần trong Bảng phân loại quốc tế về bệnh tật, Bản sửa đổi lần thứ 11, mà được liệt kê trong một chương mới về sức khỏe tình dục (9). Tổ chức Y tế Thế giới đã thực hiện thay đổi này một phần để giảm bớt sự kỳ thị đối với một tình trạng vốn đã bị kỳ thị (10, 11). Ngược lại, những người khác coi các hình thức không phù hợp giới thậm chí cực đoan không phải là một tình trạng bệnh lý hoặc tình trạng tâm thần, mà là các biến thể bình thường hiếm gặp trên phạm vi bản dạng giới và biểu hiện giới của con người.

Bất kể quan điểm về bản chất lâm sàng của không phù hợp giới và rối loạn định dạng giới là gì, có bằng chứng đáng kể cho thấy người chuyển giới với tư cách là một quần thể phải chịu gánh nặng ngày càng tăng về chẩn đoán bệnh lý, sức khỏe tâm thần và sức khỏe tình dục, thường liên quan đến các rào cản tiếp cận dịch vụ chăm sóc. Không phải tất cả các rối loạn sức khỏe tâm thần trong quần thể này đều là rối loạn định dạng giới (ví dụ: trầm cảm đồng thời, rối loạn lo âu, rối loạn sử dụng chất kích thích) và rối loạn định dạng giới không phải ai cũng bị ở những người bị không phù hợp giới. Khi các triệu chứng được xác định xuất hiện và đạt đến ngưỡng có ý nghĩa lâm sàng, có thể có chẩn đoán rối loạn định dạng giới.

Tài liệu tham khảo chung

1. American Psychological Association: A glossary: Defining transgender terms. Xem thêm Sexual orientation and gender diversity.

2. World Professional Association for Transgender Health: Standards of Care Version 8.

3. Wallien MSC, Cohen-Kettenis PT: Psychosexual outcome of gender-dysphoric children. J Am Acad Child Adolesc Psychiatry 47(12)1413-1423, 2008. doi: 10.1097/CHI.0b013e31818956b9

4. Richards C, Bouman WP, Seal, et al: Non-binary or genderqueer genders. Int Rev Psychiatry 28(1):95-102, 2016 https://doi.org/10.3109/09540261.2015.1106446

5. Watson RJ, Wheldon CW, Puhl RM: Evidence of diverse identities in a large national sample of sexual and gender minority adolescents. J Res Adolesc 30(S2):431-442, 2020 https://doi.org/10.1111/jora.12488

6. Okabe N, Toshiki S, Matsumoto Y, et al: Clinical characteristics of patients with gender identity disorder at a Japanese gender identity disorder clinic. Psychiatry Res 157(1-3):315-318, 2008 doi: 10.1016/j.psychres.2007.07.022

7. de Graaf N, Carmichael P, Steensma T, et al: Evidence for a change in the sex ratio of children referred for gender dysphoria: Data from the Gender Identity Development Service in London (2000-2017). J Sex Med 15(10):1381-1383, 2018  doi: 10.1016/j.jsxm.2018.08.002

8. American Psychiatric AssociationDiagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed. Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022.

9. World Health Organization: Eleventh revision of the International Statistical Classification of Diseases and Related Health Problems (ICD-11). Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2023.

10. World Health Organization: Gender incongruence and transgender health in the ICD. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2023.

11. Reed GM, Drescher J, Krueger RB, et al: Disorders related to sexuality and gender identity in the ICD-11: Revising the ICD-10 classification based on current scientific evidence, best clinical practices, and human rights considerations. World Psychiatry 15(3): 205-221, 2016. doi: 10.1002/wps.20354

Chưa hiểu hết nguyên nhân cụ thể của không phù hợp giới. Các yếu tố sinh học (ví dụ: di truyền, môi trường nội tiết tố trước khi sinh ở giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển của thai nhi) được cho là đóng vai trò chính trong việc xác định bản dạng giới. Một số nghiên cứu đã thấy tỷ lệ phù hợp cao hơn đối với rối loạn định dạng giới ở các cặp song sinh cùng trứng so với các cặp song sinh cùng trứng, cho thấy một thành phần có thể di truyền đối với không phù hợp giới (1), trong khi những nghiên cứu khác không tìm thấy mối liên hệ này (2). Một số nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh não cho thấy sự khác biệt về chức năng và giải phẫu ở những người rối loạn định dạng giới phù hợp với bản dạng giới của họ hơn là giới tính được ấn định lúc sinh (3).

Việc hình thành một bản dạng giới và vai trò giới an toàn, không xung đột cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý xã hội (ví dụ: đặc điểm của mối quan hệ tình cảm của cha mẹ, mối quan hệ mà mỗi cha mẹ có với con cái).

Hiếm khi, rối loạn định dạng giới có liên quan đến rối loạn phát triển giới tính (ví dụ: bộ phận sinh dục không rõ ràng) hoặc bất thường về di truyền (ví dụ: hội chứng Turnerhội chứng Klinefelter). Khi việc xác định và nuôi dạy về giới tính gây nhầm lẫn (ví dụ: trong trường hợp bộ phận sinh dục không rõ ràng hoặc hội chứng di truyền làm thay đổi hình dáng bộ phận sinh dục [ví dụ: hội chứng không nhạy cảm với androgen]), trẻ em có thể trở nên không chắc chắn về bản dạng giới hoặc vai trò giới của mình, mặc dù sự đóng góp bổ sung của các yếu tố môi trường vẫn còn gây tranh cãi. Tuy nhiên, khi việc xác định giới tính và nuôi dạy về giới tính không rõ ràng, sự hiện diện của bộ phận sinh dục không rõ ràng có thể không ảnh hưởng đến sự phát triển bản dạng giới của trẻ.

Tài liệu tham khảo về căn nguyên

1. Coolidge FL, Thede LL, Young SE: The heritability of gender identity disorder in a child and adolescent twin sample. Behav Genet 32(4):251-257, 2002. doi: 10.1023/a:1019724712983

2. Karamanis G, Karalexi M, White R, et alGender dysphoria in twins: A register-based population studySci Rep 12, 13439, 2022. https://doi.org/10.1038/s41598-022-17749-0

3. Kreukels BPC, Guillamon A: Neuroimaging studies in people with gender incongruence. Int Rev Psych 28(1):120-128, 2016. doi: 10.3109/09540261.2015.1113163

Mặc dù phần này được gọi là triệu chứng và dấu hiệu, nhưng nó cũng thảo luận về trải nghiệm và đặc điểm của những cá nhân đa dạng giới không bị rối loạn định dạng giới.

Triệu chứng ở trẻ em

Đa dạng giới tính ở trẻ em là một hiện tượng thường xuyên xảy ra trong quá trình phát triển chung của con người (1) và bản thân nó không phải là một rối loạn tâm thần cũng không nhất thiết là một dấu hiệu cho thấy trẻ có bản dạng người chuyển giới (2).

Rối loạn định dạng giới ở trẻ em là một chẩn đoán lâm sàng thường biểu hiện sớm từ 2 tuổi đến 3 tuổi nhưng có thể trở nên rõ ràng ở mọi lứa tuổi. Hầu hết trẻ em bị rối loạn định dạng giới không được đánh giá cho đến khi trẻ được 6 tuổi đến 9 tuổi. Trẻ bị rối loạn định dạng giới thường có những biểu hiện sau trong ít nhất 6 tháng (3):

  • Thích mặc đồ của giới khác

  • Nhấn mạnh rằng họ thuộc về giới khác

  • Mong rằng họ sẽ thức dậy và trở thành người giới khác

  • Thích tham gia vào các trò chơi và hoạt động khuôn mẫu của giới khác

  • Thích bạn cùng chơi khác giới

  • Rất không thích giải phẫu giới tính của họ

Ví dụ, một cô gái trẻ có thể khăng khăng rằng cô ấy sẽ phát triển dương vật và trở thành một cậu bé, và cô ấy có thể đứng để đi tiểu. Một cậu bé có thể tưởng tượng về việc là phụ nữ và tránh các trò chơi tự do và các trò chơi cạnh tranh. Cậu ta cũng có thể muốn cắt bỏ dương vật và tinh hoàn của mình. Đối với các bé trai, nếu có đau khổ trước những thay đổi về thể chất của tuổi dậy thì, thì điều này, sau đó trong thời niên thiếu, thường là có yêu cầu về các phương pháp điều trị nữ tính hóa cơ thể.

Không thể dự đoán trước một cách đáng tin cậy về quỹ đạo giới tính của trẻ không phù hợp giới chưa dậy thì. Một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng phần lớn người tham gia nghiên cứu bị không phù hợp giới thời thơ ấu vẫn ổn định trong bản dạng giới này khi còn là thanh thiếu niên (4). Trong các nghiên cứu khác, trong số những người tham gia nghiên cứu có chẩn đoán rối loạn định dạng giới khi còn nhỏ, một số ít tiếp tục đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn định dạng giới khi trưởng thành (5, 6) và cũng có một số ít những người biểu hiện mức độ không phù hợp giới đáng kể về phi lâm sàng (không đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn định dạng giới) tiếp tục có biểu hiện không phù hợp giới khi trưởng thành.

Có nhiều tranh cãi về việc có nên hỗ trợ quá trình chuyển đổi giới tính về mặt xã hội và/hoặc về mặt y tế cho trẻ nhỏ trước tuổi dậy thì bị rối loạn định dạng giới hay không hoặc ở độ tuổi nào. Không có nghiên cứu kết luận để hướng dẫn quyết định này (7, 8); tuy nhiên, các nghiên cứu theo thời gian dài hạn đang được tiến hành (4).

Tiêu chuẩn chăm sóc của Hiệp hội chuyên nghiệp thế giới về sức khỏe của người chuyển giới (WPATH), phiên bản 8 (9) đưa ra hướng dẫn cho các chuyên gia làm việc trong lĩnh vực nhạy cảm này. Những hướng dẫn này khuyến nghị rằng cha mẹ/người chăm sóc và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe nên phản hồi theo cách hỗ trợ đối với những đứa trẻ mong muốn được thừa nhận là giới tính phù hợp với ý thức bên trong của chúng về bản dạng giới. Họ cũng khuyến nghị rằng cha mẹ/người chăm sóc và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe nên hỗ trợ trẻ em tiếp tục khám phá giới tính của mình trong suốt những năm trước tuổi dậy thì, bất kể quá trình chuyển đổi xã hội (9).

Nhóm trẻ em và thanh thiếu niên đa dạng giới có nhiều khả năng bị chấn thương, bắt nạt, cô lập và gặp khó khăn về sức khỏe tâm thần hơn so với các bạn đồng trang lứa hợp giới (10, 11). Tình trạng gia tăng tỷ lệ tự tử và trầm cảm ở thanh thiếu niên có xác định là người chuyển giới hoặc đa dạng giới đã thu hút được sự chú ý và nghiên cứu đáng kể (12, 13).

Một số trẻ em hoặc thanh thiếu niên chuyển giới thực hiện quá trình chuyển đổi xã hội. Điều này có thể liên quan đến một hoặc nhiều thay đổi sau đây trong thời thơ ấu: thay đổi tên, thay đổi đại từ, thay đổi dấu hiệu giới tính trên tài liệu và học bạ; tham gia các môn thể thao, câu lạc bộ giải trí, trại hè của giới “khác”; thay đổi phòng tắm và phòng thay đồ từng phù hợp với giới có trải nghiệm; giao tiếp về giới đã trải nghiệm/giới đã khẳng định với người khác một cách công khai; và thay đổi biểu hiện cá nhân (ví dụ: kiểu tóc, quần áo, lựa chọn đồ trang sức) (2).

Triệu chứng ở người lớn

Nhiều người lớn có chẩn đoán rối loạn định dạng giới có các triệu chứng rối loạn định dạng giới sớm hoặc trải qua cảm giác “khác biệt” trong thời thơ ấu, nhưng một số người không có biểu hiện cho đến khi trưởng thành và không có bằng chứng về không hợp giới thời thơ ấu. Đầu tiên, những người chuyển giới nữ có thể được xác định là người chuyển giới và chỉ sau này khi lớn lên họ mới chấp nhận bản dạng người chuyển giới của họ.

Một số người bị rối loạn định dạng giới ban đầu đưa ra các lựa chọn nhất quán với giới tính được ấn định lúc sinh của họ (ví dụ: kết hôn, nghĩa vụ quân sự) và khi nhìn lại, họ thường thừa nhận rằng họ không thoải mái với những cảm xúc người chuyển giới/đa dạng giới mới nổi của mình và đưa ra các quyết định trong cuộc sống để cố gắng tránh đối mặt với các vấn đề đó. Đối với những người được ấn định là nam lúc sinh, điều này được mô tả là “chuyến bay trở về sự cường tráng” (14, 15). Một khi họ chấp nhận bản dạng người chuyển giới của mình và công khai chuyển đổi giới tính, nhiều người chuyển giới hòa nhập hoàn toàn vào cấu trúc xã hội với bản dạng giới ưa thích của họ – có hoặc không có liệu pháp hormone định giới hoặc phẫu thuật định giới.

Người chuyển giới có thể cảm thấy thoải mái với nhiều phương pháp thể hiện bản dạng giới của họ. Một số người chuyển giới nữ hài lòng với việc có được vẻ ngoài nữ tính hơn và có được giấy tờ tùy thân là phụ nữ (ví dụ: bằng lái xe, hộ chiếu) để giúp họ làm việc và sống trong xã hội với tư cách là phụ nữ. Tương tự như vậy, nhiều bệnh nhân được ấn định là nữ lúc sinh chọn theo đuổi quá trình chuyển đổi xã hội và với sự hỗ trợ của liệu pháp testosterone định giới (dù có thực hiện phẫu thuật cắt bỏ vú và/hoặc tái cấu trúc ngực hay không) có biểu hiện và nghe có vẻ khá nam tính.

Những người đa dạng giới tính gặp phải các vấn đề, có thể bao gồm lo lắngtrầm cảmrối loạn sử dụng chất kích thích và hành vi tự tử, ở mức độ cao hơn đáng kể so với những người đồng trang lứa hợp giới của họ (16). Những vấn đề này có thể liên quan đến các yếu tố gây căng thẳng trong gia đình và trong xã hội liên quan đến việc thiếu chấp nhận các hành vi không theo chuẩn giới và bị gạt ra ngoài lề xã hội, thường được gọi là căng thẳng thiểu số. Sự bất bình đẳng về sức khỏe trong việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần và sức khỏe tổng thể đã được ghi nhận rõ ràng ở những người bị rối loạn định dạng giới và có thể liên quan đến nghèo đói, rào cản tiếp cận dịch vụ chăm sóc, phân biệt đối xử và sự khó chịu của bác sĩ lâm sàng trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc phù hợp cho họ.

Tài liệu tham khảo về các dấu hiệu và triệu chứng

1. Endocrine Society, Pediatric Endocrine Society: Position statement: Transgender health. Endocrine Society: Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2023.

2. Ehrensaft D: Exploring gender expansive expressions. In The gender affirmative model: An interdisciplinary approach to supporting transgender and gender expansive children, edited by Keo-Meier C, Ehrensaft D, American Psychological Association, Washington, DC.

3. American Psychiatric AssociationDiagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed. Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022.

4. Olson KR, Durwood L, Horton R, et al: Gender identity 5 years after social transition. Pediatrics 150 (2): e2021056082, 2022 https://doi.org/10.1542/peds.2021-056082

5. Singh D, Bradley S, Zucker K: A follow-up study of boys with gender identity disorder. Front Psychiatry Tập 12, 2021. https://doi.org/10.3389/fpsyt.2021.632784

6. Wallien MSC, Cohen-Kettenis PT: Psychosexual outcome of gender-dysphoric children. J Am Acad Child Adolesc Psychiatry 47(12)1413-1423, 2008. doi: 10.1097/CHI.0b013e31818956b9

7. Chen D, Edwards-Leeper L, Stancin T, et al: Advancing the practice of pediatric psychology with transgender youth: State of the science, ongoing controversies, and future directions. Clin Pract Pediatr Psychol 6(1):73-83, 2018 doi: 10.1037/cpp0000229 2

8. Travers A:The Trans Generation: How Trans Kids (and Their Parents) Are Creating a Gender Revolution. New York, New York University Press, 2018.

9. World Professional Association for Transgender Health: Standards of Care Version 8.

10. Barrow K, Apostle D: Addressing mental health conditions often experienced by transgender and gender expansive children. In The gender affirmative model: An interdisciplinary approach to supporting transgender and gender expansive children, edited by Keo-Meier CE, Ehrensaft DE. American Psychological Association. 2018.

11. Ristori J, Steensma TD: Gender dysphoria in childhood. Int Rev Psychiatry 28(1),13-20, 2016 https://doi.org/10.3109/09540261.2015.1115754

12. Turban JL, King D, Carswel JM, et al: Pubertal suppression for transgender youth and risk of suicidal ideation. Pediatrics e20191725, 2020. https://doi.org/10.1542/peds.2019-1725

13. Turban JL, King D, Kobe J, et al: Access to gender-affirming hormones during adolescence and mental health outcomes among transgender adults. PLoS One 17(1): e0261039, 2022. https://doi. org/10.1371/journal.pone.0261039

14. Brown GR: Transsexuals in the military: flight into hypermasculinity. Arch Sex Behav 17(6):527-537, 1988. doi: 10.1007/BF01542340

15. McDuffie E, Grown GR: 70 U.S. veterans with gender identity disturbances: A descriptive study. J Transgenderism 12(1):21-30, 2010. https://doi.org/10.1080/15532731003688962

16. Brown GR, Jones KT: Mental health and medical outcome disparities in 5135 transgender veterans receiving health care in the Veterans Health Administration: A case-control study. LGBT Health 3(2):122-131, 2016 doi: 10.1089/lgbt.2015.0058

  • Tiêu chuẩn DSM-5-TR

  • Tiêu chuẩn ICD-11 (chưa được sử dụng ở tất cả các quốc gia)

Đánh giá và chẩn đoán ở mọi lứa tuổi

Đánh giá của một cá nhân về không phù hợp giới hoặc rối loạn định dạng giới thường bao gồm

  • Phỏng vấn cá nhân (và đối với trẻ em, phỏng vấn cha mẹ/người chăm sóc) về bản dạng giới và biểu hiện giới đã được khẳng định, hiện tại và trong lịch sử

  • Đánh giá bằng chứng về rối loạn định dạng, không phù hợp giới hoặc cả hai

  • Xem xét bệnh sử và tiền sức khỏe tâm thần có liên quan (và đối với trẻ em, tiền sử phát triển)

  • Cần đánh giá sự hiện diện của các yếu tố gây căng thẳng hoặc nguy cơ đáng kể cho cá nhân hoặc gia đình (ví dụ: sử dụng chất kích thích, tiếp xúc với bạo lực, nghèo đói)

  • Đánh giá các tình trạng sức khỏe tâm thần khác thường liên quan đến rối loạn định dạng giới, bao gồm trầm cảm, lo lắng, rối loạn sử dụng chất kích thích, sử dụng thuốc lá, ý định tự tử.

Ngoài ra, bối cảnh gia đình và tâm lý xã hội của cá nhân cũng rất quan trọng, bao gồm thái độ, sự hỗ trợ và thách thức liên quan đến đa dạng giới ở người đó và giữa gia đình, bạn bè và các mối quan hệ quan trọng khác (ví dụ: đồng nghiệp, giáo viên, đồng nghiệp, thành viên cộng đồng). Cần đánh giá sự hiện diện của các yếu tố gây căng thẳng hoặc nguy cơ đáng kể cho cá nhân hoặc gia đình (ví dụ: sử dụng chất kích thích, tiếp xúc với bạo lực, nghèo đói). Tiêu chuẩn chăm sóc WPATH, phiên bản 8 cung cấp một phần chi tiết về đánh giá bệnh nhân đa dạng giới ở tất cả các giai đoạn của vòng đời (1).

Không phù hợp giới được định nghĩa trong ICD-11 là không phù hợp rõ rệt và dai dẳng giữa giới tính trải nghiệm của một cá nhân và giới tính được ấn định (2). Bởi vì ICD-11 được sử dụng ở Châu Âu và một số khu vực khác trên thế giới, nhưng chưa có ở Hoa Kỳ, nên không phù hợp giới không có mã chẩn đoán ở Hoa Kỳ và trong thực hành lâm sàng, thuật ngữ này thường chỉ được sử dụng để chỉ trẻ em.

Rối loạn định dạng giới được thể hiện khác nhau ở các nhóm tuổi khác nhau (1). Việc chẩn đoán rối loạn định dạng giới ở mọi nhóm tuổi, theo tiêu chuẩn DSM-5-TR, cần phải có cả hai yếu tố sau (3):

  • Có sự khác biệt rõ rệt giữa giới tính lúc sinh và bản dạng giới đã trải nghiệm/được thể hiện trong  6 tháng

  • Đau khổ đáng kể về lâm sàng hoặc suy giảm chức năng gây ra do sự không phù hợp này

Chẩn đoán rối loạn định dạng giới ở trẻ em

Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn định dạng giới ở trẻ em cần  6 trong số những tiêu chuẩn sau đây (3):

  • Mong muốn mạnh mẽ hoặc khăng khăng rằng họ là giới tính khác (hoặc một số giới tính thay thế khác với giới tính được ấn định của họ)

  • Sở thích mãnh liệt trong việc mặc quần áo của người khác giới, và ở trẻ gái, chống đối việc mặc quần áo nữ

  • Rất thích các vai liên giới tính trong trò chơi giả tưởng hoặc trò chơi giả tưởng

  • Sở thích mạnh mẽ đối với đồ chơi, trò chơi và hoạt động theo khuôn mẫu của giới tính khác

  • Sở thích mãnh liệt trong việc chơi với bạn khác giới

  • Từ chối mãnh liệt các đồ chơi, trò chơi và các hoạt động đặc trưng của giới tính phù hợp với giới tính khi sinh của họ

  • Rất không thích giải phẫu giới tính của họ

  • Một mong muốn mãnh liệt đối với các đặc điểm giới tính sơ cấp và/hoặc thứ cấp phù hợp với giới đã trải nghiệm của họ

Tình trạng này phải liên quan đến tình trạng đau khổ hoặc suy giảm đáng kể về mặt lâm sàng trong môi trường xã hội, trường học hoặc các lĩnh vực hoạt động quan trọng khác.

Việc tự nhận mình là một giới tính khác với giới tính được ấn định lúc sinh không được chỉ đơn thuần là mong muốn nhận được những lợi thế văn hóa khi là một giới tính khác. Ví dụ, một cậu bé nói rằng cậu ấy chủ yếu muốn trở thành con gái vì cậu ấy sẽ được sự đối xử đặc biệt giống như em gái cậu ấy thì không có khả năng được chẩn đoán bị rối loạn định dạng giới.

Chẩn đoán rối loạn định dạng giới ở vị thành niên và người trưởng thành

Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn định dạng giới ở thanh thiếu niên và người lớn cần phải có  2 trong số những tiêu chuẩn sau đây (3):

  • Không phù hợp rõ rệt giữa các đặc điểm giới chính và/hoặc phụ được trải nghiệm/thể hiện của một người (hoặc ở thanh thiếu niên, các đặc điểm giới tính phụ được dự đoán trước)

  • Một mong muốn mãnh liệt để được thoát khỏi (hoặc cho những vị thành niên trẻ tuổi, ngăn chặn sự phát triển của) đặc điểm giới tính sơ cấp và/hoặc thứ cấp của họ

  • Một mong muốn mãnh liệt đối với các đặc điểm giới tính sơ cấp và/hoặc thứ cấp phù hợp với cảm nhận giới tính của họ

  • Mong muốn mạnh mẽ trở thành giới tính khác (hoặc một số giới tính thay thế khác với giới tính được chỉ định của một người)

  • Một mong muốn mãnh liệt để được đối xử như một giới tính khác

  • Một niềm tin mãnh liệt rằng họ có những cảm nhận và phản ứng điển hình của giới tính khác

Tình trạng này phải liên quan đến tình trạng đau khổ hoặc suy giảm đáng kể về mặt lâm sàng trong các lĩnh vực hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc lĩnh vực hoạt động quan trọng khác.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. World Professional Association for Transgender Health: Standards of Care Phiên bản 8, trang S31-S68.

2. Jakob R: ICD Update Platform: Gender identity alignment with ICD-11.

3. American Psychiatric AssociationDiagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed. Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022.

  • Đối với nhiều người trưởng thành hoặc thanh thiếu niên, liệu pháp hóc-môn định giới và đôi khi là phẫu thuật định giới (phẫu thuật ngực, bộ phận sinh dục hoặc mặt)

  • Đôi khi các phương pháp điều trị khác (ví dụ: liệu pháp giọng nói, điện phân)

  • Tâm lý trị liệu với thanh thiếu niên và người lớn thường hữu ích để giải quyết các mối lo ngại về sức khỏe tâm thần cùng tồn tại, các vấn đề liên quan đến quá trình chuyển đổi và các vấn đề khác, nhưng không bắt buộc phải tiếp cận các phương pháp điều trị nội khoa và/hoặc ngoại khoa để điều trị rối loạn định dạng giới.

Theo WPATH, mục tiêu điều trị cho người chuyển giới là đạt được “sự thoải mái cá nhân lâu dài với bản thân giới của họ với mục đích tối ưu hóa sức khỏe thể chất tổng thể, sức khỏe tâm lý và sự thỏa mãn của bản thân” (1).

Hành vi không theo chuẩn giới hoặc không phù hợp giới, chẳng hạn như mặc quần áo của giới kia, không được coi là rối loạn và không cần điều trị nếu nó xảy ra mà không kèm theo rối loạn định dạng giới (suy giảm tâm lý hoặc suy giảm chức năng đáng kể về mặt lâm sàng). Khi cần điều trị, mục đích điều trị là nhằm giảm bớt sự đau khổ của bệnh nhân và giúp họ thích nghi hơn là cố gắng ngăn cản họ về bản dạng của họ. Sử dụng liệu pháp tâm lý để cố gắng “chuyển đổi” bản dạng người chuyển giới đã được thiết lập của một người (được gọi là liệu pháp sửa chữa hoặc liệu pháp chuyển đổi) không những không hiệu quả mà còn có thể gây hại cho bệnh nhân, được coi là phi đạo đức và là bất hợp pháp ở một số khu vực pháp lý.

Đối với hầu hết những người bị rối loạn định dạng giới, mục tiêu chính khi đi điều trị không phải là để được điều trị sức khỏe tâm thần, mà là để được điều trị định giới dưới dạng liệu pháp hormone và/hoặc phẫu thuật định giới (trước đây gọi là định lại giới hoặc phẫu thuật bộ phận sinh dục) để làm cho ngoại hình của họ phù hợp với bản dạng giới của họ. Khi rối loạn định dạng giới được chẩn đoán và điều trị thích hợp, chứng phiền muộn tâm lý có thể được giải quyết bằng sự kết hợp của liệu pháp tâm lý, liệu pháp hóc-môn định giới và phẫu thuật định giới (1, 2).

Phẫu thuật có thể giúp một số bệnh nhân nhất định đạt được sự thích ứng và hài lòng hơn. Hầu hết các chuyên gia khuyến nghị chỉ phẫu thuật cho những bệnh nhân đã được một bác sĩ lâm sàng có kinh nghiệm và được đào tạo phù hợp và những người đã được điều trị theo Tiêu chuẩn Chăm sóc hiện hành của WPATH đánh giá. Các bác sĩ lâm sàng thường khuyên bệnh nhân sống với vai trò giới ưa thích của họ trong một năm trước khi phẫu thuật bộ phận sinh dục không thể đảo ngược.

Các kỹ thuật bảo tồn khả năng sinh sản, chẳng hạn như bảo quản lạnh phôi, tế bào trứng hoặc tinh trùng hoặc trì hoãn việc bắt đầu điều trị định giới tính bằng nội tiết tố, cần phải được thảo luận trước khi điều trị (1, 3 ).

Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng phẫu thuật bộ phận sinh dục đã giúp nhiều người bị rối loạn định dạng giới sống hạnh phúc hơn và có ích hơn. Dựa trên những phát hiện này, phẫu thuật này được coi là cần thiết về mặt y tế ở những bệnh nhân rối loạn định dạng giới, những người có động lực cao và đã được các chuyên gia phù hợp đánh giá và đáp ứng các tiêu chuẩn nêu trong Tiêu chuẩn Chăm sóc của WPATH, phiên bản 8 (2). Cần lưu ý rằng các ca phẫu thuật định giới không chỉ giới hạn ở các can thiệp ở bộ phận sinh dục mà còn có thể bao gồm các thay đổi trên khuôn mặt, phẫu thuật dây thanh âm, nâng ngực, cạo thanh quản hoặc các phẫu thuật khác không liên quan đến bộ phận sinh dục.

Mặc dù bệnh nhân rối loạn định dạng giới không còn cần phải điều trị tâm lý trước khi xem xét liệu pháp hormone định giới và các thủ thuật ngoại khoa định giới, nhưng các chuyên gia sức khỏe tâm thần có thể làm những việc sau để giúp bệnh nhân đưa ra quyết định sáng suốt:

  • Đánh giá và điều trị các rối loạn đồng diễn (ví dụ, trầm cảmrối loạn sử dụng nghiện chất)

  • Giúp bệnh nhân đối phó với những ảnh hưởng tiêu cực của sự kỳ thị (ví dụ, không chấp nhận, phân biệt đối xử)

  • Giúp bệnh nhân tìm thấy một biểu hiện giới tính thoải mái

  • Nếu có thể, hãy tạo điều kiện thuận lợi cho việc thay đổi vai trò giới, công khai (thông báo cho người khác về bản dạng người chuyển giới) và quá trình chuyển đổi

Quyết định của một cá nhân chia sẻ thông tin về bản dạng giới của họ với gia đình và công chúng, không phụ thuộc vào các phương pháp điều trị mong muốn, thường tiềm ẩn nhiều vấn đề xã hội đối với bệnh nhân (4, 5). Những vấn đề như vậy bao gồm khả năng mất gia đình, vợ/chồng/bạn đời, bạn bè và mất việc làm hoặc nhà ở do tiếp tục phân biệt đối xử với những người đa dạng giới. Ở một số nơi trên thế giới, việc công khai đa dạng giới cũng là bất hợp pháp và khiến người chuyển giới phải chịu những hậu quả pháp lý nghiêm trọng, bao gồm bỏ tù hoặc hành quyết.

Việc tham gia vào các nhóm hỗ trợ về giới, có ở hầu hết các thành phố lớn hoặc thông qua internet, thường rất hữu ích, đặc biệt là trong quá trình chuyển đổi.

Các cá nhân được ấn định là nam khi sinh (AMAB)

Đối người chuyển giới nữ, các liệu pháp nội khoa định giới bao gồm hormone nữ hóa với liều lượng vừa phải (ví dụ: miếng dán thấm qua da estradiol 0,1 đến 0,2 mg/ngày hoặc estradiol uống 2 mg/ngày đến 8 mg/ngày) cùng với thuốc kháng androgen (ví dụ: spironolactone 100 mg/ngày đến 400 mg/ngày). Điều này thường được kết hợp với điện phân, liệu pháp giọng nói và các phương pháp điều trị nữ tính hóa khác.

Các kích thích tố kích dục nữ có những tác dụng có lợi đáng kể lên các triệu chứng rối loạn định dạng giới, thường là trước khi có bất kỳ thay đổi nào về đặc điểm sinh dục thứ sinh (ví dụ như trưởng thành vú, giảm sự phát triển của râu và lông trên cơ thể, phân phối lại mỡ đến hông). Hormone nữ tính hóa, thậm chí không cần hỗ trợ tâm lý hoặc phẫu thuật, cũng đủ để khiến một số bệnh nhân cảm thấy đủ thoải mái như phụ nữ.

Ngày càng nhiều người chuyển giới nữ cần phẫu thuật định giới. Mặc dù có một số cách tiếp cận, nhưng phẫu thuật phổ biến nhất bao gồm cắt bỏ dương vật, tinh hoàn và tạo một âm đạo mới. Một phần của quy đầu dương vật được giữ lại làm âm vật, thường nhạy cảm về tình dục và vẫn có khả năng kích thích và đạt cực khoái trong phần lớn các trường hợp.

Một số bệnh nhân cũng có các thủ thuật ngoại khóa định giới không liên quan đến bộ phận sinh dục, như là nâng ngực, phẫu thuật nữ hóa khuôn mặt (ví dụ: tạo hình mũi, nâng chân mày, thay đổi đường chân tóc, chỉnh hình lại hàm, cạo sụn khí quản [thu nhỏ sụn thanh quản]) hoặc phẫu thuật dây thanh âm để thay đổi chất lượng giọng nói.

Các cá nhân được ấn định là nữ lúc sinh (AFAB)

Kể từ những năm 2010, tỷ lệ ca phẫu thuật định giới ở người chuyển giới nam ngày càng tăng (6). Những người này thường yêu cầu cắt bỏ vú sớm trong quá trình điều trị, kể cả ở giai đoạn muộn của độ tuổi vị thành niên, vì khó có thể sống trong vai trò giới là nam với một lượng lớn mô vú. Bó ngực thường được người chuyển giới nam thực hiện, nhưng điều này thường gây khó thở và ngực lớn có liên quan đến các triệu chứng rối loạn định dạng giới có mức độ nặng hơn.

Cắt bỏ tử cung và cắt bỏ buồng trứng có thể được thực hiện sau một đợt điều trị bằng hormone nam tính hóa, bao gồm cả hormone androgenic (ví dụ: các chế phẩm ester testosterone từ 50 mg đến 100 mg tiêm bắp hoặc tiêm dưới da mỗi tuần một lần hoặc liều tương đương của miếng dán hoặc gel testosterone thẩm thấu qua da) nếu dung nạp được. Các chế phẩm testosterone làm giọng nói trầm hơn vĩnh viễn, tạo ra phân bổ cơ và mỡ nam tính hơn, gây phì đại âm vật vĩnh viễn và thúc đẩy sự phát triển của lông mặt và lông ở cơ thể. Một số thay đổi về thể chất này là vĩnh viễn, ngay cả khi ngừng điều trị.

Một số người chuyển giới nam có thể mong muốn duy trì khả năng sinh sản và sử dụng tế bào trứng của họ để mang thai trong tương lai. Các vấn đề về khả năng sinh sản rất quan trọng cần thảo luận với những bệnh nhân được điều trị bằng hormone định giới, vì có vẻ như khả năng sinh sản ít nhất có thể bị suy giảm tạm thời. Bệnh nhân nên được tư vấn về các lựa chọn bảo tồn khả năng sinh sản trước khi điều trị bằng hormone hoặc phẫu thuật (ví dụ: bảo quản lạnh tế bào trứng hoặc phôi). Không có đủ dữ liệu về tác dụng lâu dài đối với khả năng sinh sản của liệu pháp hormone gây nam tính hóa. Những trường hợp mang thai thành công sau khi ngừng điều trị bằng testosterone ở người chuyển giới nam đã được báo cáo. Mặc dù khả năng sinh sản có khả năng bị ảnh hưởng tiêu cực, bệnh nhân được ấn định là nữ lúc sinh cần phải được tư vấn rằng liệu pháp hormone thường không gây vô sinh và cần phải sử dụng biện pháp tránh thai thích hợp (7).

Bệnh nhân có thể lựa chọn một trong những phẫu thuật định giới bổ sung sau đây:

  • Một dương vật giả (neophallus) được tạo thành từ da cấy ghép từ mặt trong cẳng tay, chân hoặc bụng (tạo hình dương vật)

  • Một dượng vật nhỏ được tạo từ các mô mỡ được lấy ra từ mu chậu và đặt xung quanh âm vật phì đại do testosteron (tái tạo dương vật nhỏ)

Với một trong hai thủ thuật, tạo hình bìu thường cũng được thực hiện; môi lớn được cắt ra để tạo thành các cấu trúc lỗ rỗng gần giống với bìu, và các phương pháp cấy ghép tinh hoàn được thực hiện để lấp đầy bìu.

Kết quả giải phẫu của các thủ thuật phẫu thuật tạo hình dương vật thường kém khả quan hơn về mặt chức năng và ngoại hình so với các thủ thuật âm đạo cho những người chuyển giới nữ. Đây có thể là lý do khiến ít yêu cầu phẫu thuật định giới ở người chuyển giới nam; tuy nhiên, khi các kỹ thuật tạo hình dương vật tiếp tục được cải thiện, các yêu cầu về tạo hình dương vật đã tăng lên.

Các biến chứng phẫu thuật là phổ biến, đặc biệt là trong các thủ thuật liên quan đến việc mở rộng niệu đạo thành tạo hình dương vật. Những biến chứng này có thể bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu, lỗ rò, hẹp niệu đạo hoặc dòng nước tiểu bị lệch.

Những người phi nhị nguyên và đa dạng giới khác

Trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe, những người phi nhị nguyên ít có khả năng tự nguyện cung cấp thông tin về bản dạng giới của họ hơn bệnh nhân chuyển giới; nhiều người đã có những trải nghiệm tiêu cực với các chuyên gia chăm sóc sức khỏe cố gắng đối xử với họ như thể họ thuộc một phổ tuyến tính về bản dạng giới (mô hình nhị nguyên), điều này thường trái ngược với sự tự nhận thức của bệnh nhân (8).

Một số người phi nhị nguyên tìm kiếm các phương pháp điều trị nội khoa định giới và/hoặc ngoại khoa định giới để giảm bớt triệu chứng rối loạn định dạng giới hoặc triệu chứng không phù hợp giới liên quan đến đau khổ hoặc suy giảm chức năng. Mục tiêu điều trị phải được hiểu thấu đáo và phải nêu rõ những hạn chế của phương pháp điều trị. Ví dụ, một bệnh nhân phi nhị nguyên được ấn định là nam lúc sinh có thể mong muốn đạt được sự hài lòng về cơ thể nhiều hơn (ví dụ: những thay đổi mong muốn về da, mọc tóc, phân bố chất béo) thông qua việc sử dụng liệu pháp estrogen, nhưng không muốn phát triển ngực. Những mục tiêu này có thể không tương thích với cơ chế hoạt động của phương pháp điều trị định giới bằng nội tiết tố. Dữ liệu về kết quả lâu dài còn thiếu liên quan đến các phương pháp điều trị nội khoa và ngoại khoa ở các quần thể phi nhị nguyên.

Cuối cùng, có một số cá nhân được ấn định là nam lúc sinh tự nhận mình là hoạn quan và mong muốn sống cuộc sống của họ mà không có ảnh hưởng nam tính của testosterone và không có dương vật và/hoặc tinh hoàn của họ (9). Nhiều cá nhân tự nhận mình là hoạn quan không mô tả mình là người chuyển giới và tự xem mình có bản dạng giới khác biệt với tư cách là hoạn quan. Các hoạn quan có thể tìm đến các biện pháp can thiệp nội khoa và ngoại khoa để loại bỏ tác dụng nam tính hóa của testosterone, bao gồm cả phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn (1, 10)

Rối loạn định dạng giới ở trẻ em và thanh thiếu niên

Việc điều trị tâm lý cho trẻ trước tuổi dậy thì được chẩn đoán rối loạn định dạng giới vẫn còn gây tranh cãi. Thông tin và hướng dẫn hiện tại về các phương pháp điều trị tâm lý xã hội, bao gồm quá trình chuyển đổi xã hội, được xem xét trong Tiêu chuẩn Chăm sóc của WPATH, phiên bản 8 (1). Không có hướng dẫn hoặc tiêu chuẩn nào xác nhận hoặc khuyến nghị sử dụng các biện pháp can thiệp bằng nội tiết tố (thuốc ức chế dậy thì hoặc hormone định giới) hoặc phẫu thuật định giới ở trẻ em trước tuổi dậy thì được chẩn đoán là không phù hợp giới hoặc rối loạn định dạng giới (1, 11). Điều trị nội cho trẻ em và thanh thiếu niên chuyển giới thường được cung cấp tại một trung tâm y tế học thuật tại các phòng khám chuyên khoa bởi một nhóm đa ngành.

Phần lớn trẻ em tham gia vào các hành vi không phù hợp giới không được chẩn đoán rối loạn định dạng giới hoặc không phù hợp giới và không tiếp tục bước vào tuổi vị thành niên hoặc trưởng thành với bản dạng người chuyển giới. Ở những trẻ nhỏ có chẩn đoán rối loạn định dạng giới, tại thời điểm này, không thể dự đoán một cách chắc chắn liệu những triệu chứng này có tiếp tục đến tuổi trưởng thành hay không (12, 13).

Mặc dù không có sự đồng thuận lâm sàng nào về việc điều trị cho trẻ rối loạn định dạng giới trước tuổi dậy thì, nhưng người ta nhận ra rằng những nỗ lực ép trẻ chấp nhận vai trò giới ấn định lúc sinh thường gây tổn thương và không thành công. Do đó, phương thức điều trị chủ yếu là hỗ trợ tâm lý và giáo dục tâm lý cho trẻ em và cha mẹ của trẻ, sử dụng mô hình khẳng định giới đối lập với mô hình bệnh lý hóa giới (1). Cách tiếp cận khẳng định này hỗ trợ trẻ thể hiện giới tính của trẻ, đôi khi bao gồm một hoặc nhiều khía cạnh của quá trình chuyển đổi xã hội trước tuổi dậy thì.

Đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng thanh thiếu niên được ấn định là nữ lúc sinh khai báo để được đánh giá và chăm sóc trên lâm sàng trong thập kỷ qua và hiện nay số lượng thanh thiếu niên được ấn định là nam lúc sinh đi điều trị tại hầu hết các phòng khám đã tăng đáng kể (14).

Ở giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên, các thuốc ngăn chặn tuổi dậy thì đã được sử dụng phổ biến hơn dựa trên nghiên cứu được thực hiện từ những năm 2000. Các loại thuốc như leuprolide (thuốc chủ vận hormone giải phóng gonadotropin) ngăn chặn việc sản sinh ra testosterone và estrogen, do đó “ngăn chặn” sự tiến triển của tuổi dậy thì. Những loại thuốc này có thể được sử dụng ở Giai đoạn II của quá trình phát triển Tanner, giúp có thêm thời gian để đánh giá trẻ bị rối loạn định dạng giới trước khi có những thay đổi vĩnh viễn ở tuổi dậy thì (15). (Xem Hướng dẫn của Hiệp hội Nội tiết năm 2017.)

Nếu một thanh niên bị rối loạn định dạng giới muốn tiếp tục chuyển đổi hoàn toàn sang một giới tính khác và được đánh giá là phù hợp để được chăm sóc chuyển đổi thêm, thì có thể ngừng sử dụng các thuốc ngăn chặn dậy thì và có thể sử dụng liệu pháp hóc-môn định giới, giúp bắt đầu dậy thì phù hợp với giới tính. Những phương pháp điều trị này chỉ được đưa ra sau khi có đánh giá của các bác sĩ lâm sàng có chuyên môn trong chẩn đoán và xử trí rối loạn định dạng giới ở thanh thiếu niên; việc này thường được thực hiện với sự đồng ý của cha mẹ/người giám hộ và sự đồng ý của thanh thiếu niên (nếu họ chưa đủ tuổi trưởng thành hợp pháp trong một khu vực tài phán nhất định). Như đã lưu ý ở trên, các kỹ thuật bảo tồn khả năng sinh sản cần phải được thảo luận trước khi bắt đầu bất kỳ can thiệp bằng nội tiết tố hoặc phẫu thuật nào.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Coleman E, Radix A E, Bouman WP, et al: Standards of Care for the Health of Transgender and Gender Diverse People, Version 8, Int J Transgend Health, 23:sup1, S1-S259, 2022 doi: 10.1080/26895269.2022.2100644

2. World Professional Association for Transgender Health: Standards of Care Phiên bản 8, trang S31-S68.

3. Nahata L, Chen D, Moravek MB, et al: Understudied and under-reported: Fertility issues in transgender youth—A narrative review. J Paediatrics, 205, 265-271, 2019. https://doi.org/10.1016/j. jpeds.2018.09.009

4. Lev A: Transgender Emergence. Haworth Clinical Practice Press, Binghamton, NY, 2004.

5. Bockting W, Coleman E: Developmental stages of the transgender coming-out process. Toward an integrated identity. Trong: R Ettner, S Monstrey, E Coleman (Eds). Principles of Transgender Medicine and Surgery, Xuất bản lần thứ hai. Routledge, New York, 2016; trang 137-148.

6. Chaya B, Berman Z, Boczar D, et al: Gender affirmation surgery on the rise: Analysis of trends and outcomes. LGBT Health 9(8): 582-588, 2022 doi: 10.1089/lgbt.2021.0224

7. Bonnington A, Dianat S, Kerns J, et al: Society of Family Planning clinical recommendations: Contraceptive counseling for transgender and gender diverse people who were female sex assigned at birth. Contraception 102(2):70-82, 2020 doi:10.1016/j.contraception.2020.04.001

8. Vincent B: Non-binary genders: Navigating communities, identities, and healthcare. Policy Press, Bristol, UK. 2020.

9. Johnson RB, Onwuegbuzie AJ, Turner LA: Toward a definition of mixed methods research. 9(2):112-133, 2007. doi 10.1177 1558689806298224

10. Wong STS, Wassersug RJ, Johnson TW, et al: Differences in the psychological, sexual, and childhood experiences among men with extreme interests in voluntary castration. Arch Sex Behav 50(3):1167-1182, 2021. https://doi.org/10.1007/s10508-020-01808-6

11. Chen D, Edwards-Leeper L, Stancin T, et al: Advancing the practice of pediatric psychology with transgender youth: State of the science, ongoing controversies, and future directions. Clin Pract Pediatr Psychol 6(1):73-83, 2018. doi: 10.1037/cpp0000229

12. Bloom TM, Nguyen TP, Lami F, et al: Measurement tools for gender identity, gender expression, and gender dysphoria in transgender and gender-diverse children and adolescents: A systematic review. The Lancet Child & Adolescent Health 5(8):582-588, 2021. https://doi.org/10.1016/s2352-4642(21)00098-5

13. Edwards-Leeper L, Leibowitz, Sangganjanavanich VF: Affirmative practice with transgender and gender nonconforming youth: Expanding the model. Psychology of Sexual Orientation and Gender Diversity 3(2):165-172, 2016 https://doi.org/10.1037/sgd0000167

14. Bauer G, Pacaud D, Couch R, et al; Trans Youth CAN! Research Team. Transgender youth referred to clinics for gender-affirming medical care in Canada. Pediatrics 148(5): e2020047266. https://doi.org/10.1542/ peds.2020-047266

15. Hembree WC, Cohen-Kettenis PT, Gooren L, et al: Endocrine treatment of gender-dysphoric/gender-incongruent persons: An Endocrine Society clinical practice guideline. J Clin Endocrinol Metab 102(11):3869-3903, 2017. doi: 10.1210/jc.2017-01658

  • Chuyển đổi giới và đa dạng giới là những thuật ngữ chỉ những người có bản dạng giới khác với giới tính mà họ được ấn định khi sinh ra; một số cá nhân được xác định là phi nhị nguyên, một loại bản dạng giới được trải nghiệm như bên ngoài khái niệm nhị nguyên nam-nữ.

  • Chỉ một số ít người xác định là người chuyển giới, đa dạng giới hoặc phi nhị nguyên đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn định dạng giới.

  • Chỉ chẩn đoán rối loạn định dạng giới khi tình trạng đau khổ và/hoặc suy giảm chức năng liên quan đến không hợp giới là đáng kể và kéo dài ≥ 6 tháng.

  • Khi cần điều trị, nó nhằm mục đích làm giảm bớt sự đau khổ của bệnh nhân và giúp họ thích nghi hơn là cố gắng ngăn cản họ từ bỏ bản dạng giới của họ.

  • Việc điều trị cho trẻ trước tuổi dậy thì có chẩn đoán rối loạn định dạng giới vẫn còn gây tranh cãi nhưng không bao gồm việc sử dụng thuốc nội tiết tố hoặc phẫu thuật.

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)

Rối loạn triệu chứng cơ thể và các rối loạn liên quan

Cơ thể hóa là biểu hiện của hiện tượng tâm thần như các triệu chứng thể chất (cơ thể). Những rối loạn được đặc trưng bởi sự cơ thể hóa từ những người mà ở đó các triệu chứng phát triển một cách vô thức và phi lý chí đến những người có triệu chứng phát triển một cách có ý thức và có lý chí. Sự liên tục này bao gồm

  • Rối loạn triệu chứng cơ thể và các rối loạn liên quan

  • Các rối loạn giả bệnh

  • Bịa bệnh (không phải là rối loạn tâm thần)

Trong tất cả các rối loạn, bệnh nhân tập trung nổi bật vào mối quan tâm về mặt cơ thể. Do đó, cơ thể hóa thường dẫn bệnh nhân đến khám và điều trị nội khoa hơn là chăm sóc tâm thần.

Rối loạn triệu chứng cơ thể và các rối loạn liên quan được đặc trưng bởi các triệu chứng cơ thể dai dẳng có liên quan đến những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi quá mức hoặc không thích ứng trong việc đáp ứng với những triệu chứng này và các mối quan tâm liên quan đến sức khỏe. Những rối loạn này gây phiền toái và thường làm suy giảm đến các khía cạnh xã hội, nghề nghiệp, học tập hoặc các khía cạnh chức năng khác. Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần, tải bản lần thứ 5, Chỉnh sửa nội dung (DSM-5-TR) bao gồm các rối loạn sau đây trong nhóm này (1):

  • Rối loạn triệu chứng cơ thể

  • Rối loạn lo âu về bệnh tật

  • Rối loạn triệu chứng thần kinh chức năng (trước đây là rối loạn chuyển đổi)

  • Các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến các bệnh trạng khác

  • Các rối loạn giả bệnh: Bệnh lý giả tạo áp đặt lên bản thânrối loạn giả bệnh áp đặt lên người khác (trước đây là rối loạn giả bệnh do người khác gây ra)

Rối loạn triệu chứng cơ thể được đặc trưng bởi nhiều phàn nàn về thể chất dai dẳng không giả mạo và có liên quan đến những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi quá mức và không phù hợp liên quan đến những triệu chứng đó. Xem bảng Thang điểm triệu chứng cơ thể 8, được sử dụng để xác định tần suất bệnh nhân bị làm phiền bởi 8 triệu chứng đã chọn trong 7 ngày trước đó.

Rối loạn lo âu về bệnh tật là nỗi lo và sợ về việc có hoặc mắc phải một rối loạn nghiêm trọng.

Rối loạn triệu chứng thần kinh chức năng (rối loạn chuyển đổi) bao gồm các triệu chứng hoặc khiếm khuyết thần kinh (thường liên quan đến chức năng vận động hoặc cảm giác) phát triển một cách vô thức và không theo ý muốn và không tương thích với các cơ chế bệnh sinh hoặc con đường giải phẫu đã biết.

Các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến các tình trạng bệnh lý khác được chẩn đoán khi các yếu tố tâm lý hoặc hành vi ảnh hưởng xấu đến quá trình hoặc kết quả của một tình trạng bệnh lý hiện có.

Rối loạn giả bệnh liên quan đến việc làm giả các triệu chứng và/hoặc dấu hiệu về thể chất hoặc tâm lý khi không có động cơ bên ngoài rõ ràng (ví dụ: xin nghỉ làm, trợ cấp tàn tật hoặc thuốc theo toa; trốn tránh nghĩa vụ quân sự hoặc bị truy tố hình sự). Thuật ngữ hội chứng Munchausen không còn được sử dụng cho các rối loạn giả bệnh nữa. Giả bệnh, không phải là một rối loạn giả bệnh nhưng có thể bị nhầm lẫn với tình trạng đó, là hành vi cố ý giả vờ các triệu chứng về thể chất hoặc tâm lý do động cơ bên ngoài thúc đẩy, điều này phân biệt giả bệnh với các rối loạn giả bệnh.

Rối loạn dạng cơ thể và rối loạn lo âu về bệnh tật là phổ biến nhất.

Thang điểm triệu chứng cơ thể 8*

Triệu chứng

Không có gì

Một chút

Phần nào đó

Khá một chút

Rất nhiều

Đau lưng

0

1:

2:

3:

4:

Đau ngực hoặc khó thở

0

1:

2:

3:

4:

Chóng mặt

0

1:

2:

3:

4:

Cảm thấy mệt mỏi hoặc ít năng lượng

0

1:

2:

3:

4:

Nhức đầu

0

1:

2:

3:

4:

Đau ở cánh tay, chân hoặc khớp của bạn

0

1:

2:

3:

4:

Các vấn đề về dạ dày hoặc ruột

0

1:

2:

3:

4:

Khó ngủ

0

1:

2:

3:

4:

* Tính điểm: Bệnh nhân không hoặc chỉ bị làm phiền ở mức tối thiểu (0 đến 3). Điểm số ngày càng tăng cho thấy mức độ khó chịu ngày càng lớn: thấp (4 đến 7); trung bình (8 đến 11); cao (12 đến 15); rất cao (16 đến 23).

Phỏng theo với sự cho phép của Gierk B, Kohlmann S, Kroenke K, et al. The Somatic Symptom Scale-8 (SSS-8): A brief measure of somatic symptom burden. JAMA Intern Med 174(2):400, 2014. doi: 10.1001/jamainternmed.2013.12179

Tài liệu tham khảo

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, tái bản lần thứ 5, Chỉnh sửa nội dung (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, 2022, pp 349-370.

Rối loạn triệu chứng cơ thể có đặc trưng là những suy nghĩ, cảm xúc và lo lắng không cân xứng và quá mức về các triệu chứng thể chất. Các triệu chứng này không phải do cố ý tạo ra hoặc giả vờ và có thể đi kèm hoặc không đi kèm với một căn bệnh lý thông thường. Chẩn đoán được dựa trên tiền sử của bệnh nhân và thỉnh thoảng từ các thành viên trong gia đình. Phương pháp điều trị bao gồm liệu pháp nhận thức – hành vi. Bệnh nhân sẽ được hưởng lợi khi thiết lập mối quan hệ hỗ trợ và nhất quán giữa bác sĩ và bệnh nhân, tránh việc bệnh nhân phải trải qua các xét nghiệm chẩn đoán và liệu pháp không cần thiết.

Một số rối loạn cơ thể hóa trước đây được phân biệt rõ ràng – rối loạn cơ thể hóa, rối loạn cơ thể dạng chưa phân biệt và rối loạn đau cơ thể dạng – đã được đưa vào các phiên bản trước của Cẩm nang chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần hiện được phân loại thành 1 chẩn đoán, được gọi là rối loạn triệu chứng cơ thể. Đặc trưng của chẩn đoán này là tình trạng bệnh nhân có những suy nghĩ, cảm xúc và lo lắng quá mức về các triệu chứng thể chất. Một thay đổi khác so với tiêu chuẩn chẩn đoán trước đó là rối loạn triệu chứng cơ thể không bị loại trừ bởi tình trạng bệnh lý chung liên quan đến các triệu chứng; một số bệnh nhân có đồng thời các rối loạn về thể chất và tâm thần.

Bệnh nhân thường không nhận thức được vấn đề tâm thần tiềm ẩn của mình và tin rằng họ có bệnh lý về thể chất, vì vậy họ thường tiếp tục gây sức ép với bác sĩ lâm sàng để làm thêm hoặc làm lại các xét nghiệm và điều trị ngay cả sau khi kết quả đánh giá kỹ lưỡng là âm tính.

Các vấn đề sức khỏe tái phát thường bắt đầu trước 30 tuổi, đôi khi xảy ra trong thời thơ ấu. Hầu hết bệnh nhân có nhiều triệu chứng cơ thể, nhưng một số chỉ có một triệu chứng nghiêm trọng, thường là đau. Mức độ nghiêm trọng có thể dao động, nhưng các triệu chứng vẫn tồn tại và hiếm khi thuyên giảm với bất kỳ giai đoạn nào. Bản thân những triệu chứng hoặc sự lo lắng quá mức về chúng phiền nhiễu hoặc phá hoại cuộc sống hàng ngày. Một số bệnh nhân trở nên trầm cảm một cách rõ rệt.

Khi rối loạn triệu chứng cơ thể đi kèm với rối loạn y khoa nói chung, bệnh nhân thường phản ứng thái quá với những tác động của rối loạn y khoa; ví dụ: bệnh nhân đã hồi phục hoàn toàn về mặt thể chất sau cơn nhồi máu cơ tim (MI) không biến chứng có thể vẫn tiếp tục hành xử như người bệnh hoặc liên tục lo lắng về việc bị nhồi máu cơ tim lần nữa.

Bất kể các triệu chứng có liên quan đến rối loạn sức khỏe toàn thân hay không, bệnh nhân vẫn lo lắng quá mức về các triệu chứng và hậu quả thảm khốc có thể xảy ra và rất khó để trấn an họ. Những nỗ lực trấn an bệnh nhân thường bị hiểu nhầm là bác sĩ lâm sàng không coi trọng các triệu chứng của họ.

Các mối quan tâm về sức khỏe thường có vai trò trung tâm và đôi khi bệnh nhân phải tiêu tốn nhiều thời gian trong cuộc sống. Bệnh nhân rất lo lắng về sức khỏe của mình và thường có vẻ nhạy cảm bất thường với tác dụng bất lợi của thuốc.

Bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể cũng có thể bị ảnh hưởng và các triệu chứng cụ thể cũng như tần suất của các triệu chứng đó sẽ khác nhau tùy theo nền văn hóa.

Bất kể biểu hiện như thế nào, bản chất của rối loạn triệu chứng cơ thể là suy nghĩ, cảm xúc hoặc hành vi quá mức hoặc không thích ứng của bệnh nhân trong việc đáp ứng với các triệu chứng.

Bệnh nhân có thể trở nên phụ thuộc vào người khác, yêu cầu giúp đỡ và hỗ trợ tinh thần và trở nên tức giận khi họ cảm thấy nhu cầu của họ không được đáp ứng. Họ cũng có thể đe dọa hoặc cố gắng tự sát. Thường không hài lòng với chăm sóc y tế, họ thường đi từ bác sĩ này sang bác sĩ khác hoặc tìm kiếm sự điều trị của một số bác sĩ đồng thời.

Cường độ và sự dai dẳng của các triệu chứng có thể phản ánh một mong muốn mạnh mẽ để được chăm sóc. Các triệu chứng có thể giúp bệnh nhân tránh được những trách nhiệm nhưng cũng có thể cản trở những niềm vui và hoạt động như một sự trừng phạt, điều đó gợi ý những cảm giác nằm bên dưới như cảm giác không xứng đáng và tội lỗi.

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

  • Đánh giá nội khoa toàn thân để loại trừ các nguyên nhân khác

Các triệu chứng phải gây đau khổ hoặc làm gián đoạn cuộc sống hàng ngày trong > 6 tháng và liên quan đến ít nhất một trong những điều sau đây (1):

  • Những suy nghĩ không cân xứng và liên tục về mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng

  • Sự lo lắng liên tục về sức khỏe hoặc các triệu chứng

  • Dành quá nhiều thời gian và sức lực vào bận tâm các triệu chứng hoặc sức khỏe

Đánh giá khi đến khám lần đầu bao gồm tìm hiểu bệnh sử chi tiết (đôi khi trao đổi với các thành viên trong gia đình), khám thực thể kỹ lưỡng và thường đánh giá thêm bằng xét nghiệm hoặc chẩn đoán hình ảnh để xác định xem nguyên nhân gây ra các triệu chứng có phải là do rối loạn y khoa nói chung hay không. Khi một bệnh nội khoa liên quan đến các triệu chứng hiện có đã được loại trừ rõ ràng hoặc một bệnh lý đã được xác định và điều trị, thì không nên lặp lại các xét nghiệm để đánh giá các triệu chứng đó. Bệnh nhân hiếm khi cảm thấy yên tâm khi có kết quả xét nghiệm âm tính và có thể hiểu việc tiếp tục xét nghiệm là sự xác nhận rằng bác sĩ không chắc chắn chẩn đoán là lành tính. Tuy nhiên, vì bệnh nhân mắc chứng rối loạn triệu chứng cơ thể, giống như mọi cá nhân khác, sau đó có thể phát triển các bệnh nội khoa nói chung, nên cần phải tiến hành các xét nghiệm và kiểm tra thích hợp khi các triệu chứng thay đổi đáng kể, xuất hiện các triệu chứng mới hoặc xuất hiện các dấu hiệu khách quan.

Ngọc trai & cạm bẫy

  • Bệnh nhân mắc chứng rối loạn triệu chứng cơ thể, giống như mọi cá nhân khác, sau đó có thể phát triển các bệnh nội khoa nói chung, do đó, cần phải tiến hành các xét nghiệm và kiểm tra thích hợp khi các triệu chứng thay đổi đáng kể, xuất hiện các triệu chứng mới hoặc các dấu hiệu khách quan.

Rối loạn triệu chứng cơ thể có thể không được chẩn đoán ở bệnh nhân cao tuổi vì một số triệu chứng như mệt mỏi hoặc đau đớn được coi là một phần của quá trình lão hóa. Mối bận tâm của họ với những triệu chứng lão hóa này là điều dễ hiểu, đặc biệt là khi họ mắc nhiều bệnh đi kèm và dùng nhiều loại thuốc.

Rối loạn lo âu về bệnh tật có biểu hiện tương tự ngoại trừ các triệu chứng thể chất là vắng mặt hoặc tối thiểu. Rối loạn triệu chứng cơ thể được phân biệt với rối loạn lo âu lan tỏarối loạn triệu chứng thần kinh chức năng, và trầm cảm chủ yếu bởi sự nổi bật, tính đa dạng và tính dai dẳng của các triệu chứng cơ thể và kèm theo những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi quá mức.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, tái bản lần thứ 5, Chỉnh sửa nội dung (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, 2022, pp 351-356.

  • Liệu pháp nhận thức-hành vi

Bệnh nhân, ngay cả những người có mối quan hệ tốt với bác sĩ chăm sóc chính, thường được giới thiệu đến bác sĩ tâm thần. Điều trị bằng thuốc cho các rối loạn tâm thần đồng thời (ví dụ: trầm cảm) có thể có ích; tuy nhiên, biện pháp can thiệp chính là liệu pháp tâm lý, đặc biệt là liệu pháp nhận thức – hành vi.

Bệnh nhân cũng được hưởng lợi khi có mối quan hệ hỗ trợ với bác sĩ chăm sóc chính, người điều phối mọi dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giúp giảm triệu chứng, thăm khám thường xuyên và bảo vệ họ khỏi các xét nghiệm và thủ thuật không cần thiết.

Trầm cảm, nếu có, được điều trị.

Rối loạn lo âu về bệnh tật là nỗi lo và sợ về việc có hoặc mắc phải một rối loạn nghiêm trọng. Chẩn đoán được xác nhận khi những lo ngại và triệu chứng (nếu có) tồn tại  6 tháng mặc dù được đảm bảo sau khi đánh giá y tế kỹ lưỡng. Điều trị bao gồm việc thiết lập một mối quan hệ bác sĩ – bệnh nhân lâu dài, hỗ trợ; liệu pháp nhận thức và hành vi và thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có thể giúp ích.

Rối loạn lo âu về bệnh tật (trước đây gọi là chứng sợ bệnh tật hoặc chứng sợ bệnh tật, những thuật ngữ đã bị loại bỏ vì hàm ý miệt thị của các tình trạng này) thường bắt đầu ở giai đoạn đầu tuổi trưởng thành và dường như xảy ra như nhau ở cả nam và nữ (1).

Các nỗi sợ của bệnh nhân có thể xuất phát từ việc diễn giải sai các triệu chứng cơ thể không phải bệnh lý hoặc các chức năng cơ thể bình thường (ví dụ, chứng sôi bụng, chướng bụng và khó chịu, cảm giác nhịp tim, đổ mồ hôi).

Tài liệu tham khảo

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, tái bản lần thứ 5, Chỉnh sửa nội dung (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, 2022, pp 358

Bệnh nhân bị rối loạn lo âu về bệnh tật thường rất lo lắng với ý nghĩ rằng họ đang hoặc có thể bị ốm, nỗi lo về bệnh tật làm suy giảm chức năng hoạt động xã hội và nghề nghiệp hoặc gây ra những căng thẳng đáng kể. Bệnh nhân có thể có hoặc không có các triệu chứng thực thể, nhưng nếu có, mối quan tâm của họ là về tác động có thể xảy ra của các triệu chứng hơn là bản thân các triệu chứng (ví dụ, bản thân cảm giác khó chịu ở dạ dày ít gây phiền toái cho họ hơn là khả năng đó có thể là ung thư).

Một số bệnh nhân tự khám mình nhiều lần (ví dụ như nhìn vào cổ họng của họ trong gương, kiểm tra da để tìm tổn thương). Họ dễ dàng bị báo động bởi những cảm giác cơ thể mới. Một số bệnh nhân thường xuyên đến gặp bác sĩ lâm sàng (thể tìm kiếm dịch vụ chăm sóc); những bệnh nhân khác hiếm khi đi khám bệnh (thể tránh dịch vụ chăm sóc).

Diễn biến thường mạn tính – dao động ở người này, ổn định ở người khác.

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

  • Đôi khi một đánh giá nội khoa toàn thân để loại trừ các nguyên nhân khác

Chẩn đoán rối loạn lo âu bệnh tật dựa trên các tiêu chuẩn từ DSM-5-TR, bao gồm những tiêu chuẩn sau (1):

  • Bệnh nhân bận tâm lo lắng về việc có hoặc mắc phải bệnh nghiêm trọng.

  • Bệnh nhân không hoặc tối thiểu có các triệu chứng cơ thể.

  • Bệnh nhân rất lo lắng về sức khỏe và dễ bị báo động về các vấn đề sức khỏe cá nhân.

  • Bệnh nhân liên tục kiểm tra tình trạng sức khỏe hoặc né tránh các cuộc gặp với bác sĩ hoặc tới bệnh viện một cách không phù hợp.

  • Bệnh nhân đã bận tâm về bệnh tật trong  6 tháng, mặc dù lo ngại về bệnh tật cụ thể có thể thay đổi trong khoảng thời gian đó.

  • Các triệu chứng này không thể có nguyên nhân nào thích hợp hơn bằng bệnh trầm cảm hoặc một rối loạn tâm thần khác.

Những bệnh nhân có triệu chứng cơ thể đáng kể và chủ yếu quan tâm đến bản thân các triệu chứng được chẩn đoán bằng rối loạn triệu chứng cơ thể.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, tái bản lần thứ 5, Chỉnh sửa nội dung (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, 2022, pp 357-360.

  • Mối quan hệ hỗ trợ, tin cậy với bác sĩ lâm sàng

  • Đôi khi các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin hoặc liệu pháp nhận thức-hành vi

Bệnh nhân có thể được hưởng lợi khi có mối quan hệ tin cậy với bác sĩ lâm sàng tận tâm và đáng tin cậy. Nếu các triệu chứng không thuyên giảm đáng kể, bệnh nhân có thể được chuyển đến bác sĩ tâm thần trong khi vẫn tiếp tục được bác sĩ lâm sàng chính chăm sóc.

Điều trị bằng thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có thể hữu ích, cũng như liệu pháp nhận thức hành vi (1).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Scarella TM, Boland RJ, Barsky AJ: Rối loạn lo âu về bệnh: Psychopathology, epidemiology, clinical characteristics, and treatment. Psychosom Med 81(5):398-407, 2019. doi: 10.1097/PSY.0000000000000691

Rối loạn triệu chứng thần kinh chức năng, trước đây được gọi là rối loạn chuyển đổi, bao gồm các triệu chứng hoặc thiếu hụt thần kinh phát sinh một cách vô thức và vô điều kiện và thường liên quan đến chức năng vận động hoặc chức năng cảm giác. Các biểu hiện này không tương thích với các cơ chế sinh lý bệnh hay các quá trình giải phẫu. Khởi phát, trầm trọng hơn hoặc duy trì các triệu chứng chuyển đổi thường được cho là do các yếu tố tâm thần, chẳng hạn như căng thẳng hoặc chấn thương. Chẩn đoán được dựa trên tiền sử sau khi loại trừ rối loạn thể chất có thể là nguyên nhân. Việc điều trị bắt đầu bằng cách thiết lập một mối quan hệ bác sĩ-bệnh nhân lâu dài, có hỗ trợ; liệu pháp tâm lý có thể có hiệu quả, cũng như thôi miên và vật lý trị liệu.

Rối loạn triệu chứng thần kinh chức năng là một dạng cơ thể hóa – biểu hiện của hiện tượng tâm thần thành các triệu chứng vật lý (cơ thể).

Rối loạn này có xu hướng phát triển trong thời thơ ấu đến đầu tuổi trưởng thành nhưng có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Rối loạn phổ biến hơn ở phụ nữ.

Các triệu chứng của rối loạn này thường phát sinh đột ngột và khởi phát đôi khi có thể theo sau một sự kiện căng thẳng. Điển hình là, các triệu chứng liên quan đến sự thiếu hụt chức năng cảm giác hoặc vận động chủ động nhưng đôi khi bao gồm các động tác lắc và suy giảm nhận thức (gợi ý các cơn co giật) và các tư thế chi bất thường (gợi ý một chứng rối loạn thần kinh hoặc rối loạn thể chất nói chung). Ví dụ, bệnh nhân có thể có sự kém điều phối hoặc cân bằng, yếu, tê liệt cánh tay hoặc chân, mất cảm giác một phần cơ thể, các cơn co giật, không đáp ứng, mù, nhìn đôi, điếc, mất tiếng, khó nuốt, cảm giác u cục trong cổ họng, hoặc bí tiểu.

Bệnh nhân có thể có một giai đoạn đơn thuần hoặc lặp đi lặp lại một cách rời rạc; các triệu chứng có thể trở thành mạn tính. Thông thường, các giai đoạn có thời gian kéo dài ngắn.

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

  • Đánh giá nội khoa toàn thân để loại trừ các nguyên nhân khác

Chỉ nghĩ đến chẩn đoán rối loạn triệu chứng thần kinh chức năng sau khi khám nội khoa toàn diện và xét nghiệm để loại trừ các rối loạn thần kinh hoặc bệnh toàn thân có thể giải thích đầy đủ các triệu chứng và tác động của bệnh đó. Một đặc điểm quan trọng là các triệu chứng và dấu hiệu không phù hợp với bệnh lý thần kinh. Ví dụ: theo DSM-5-TR, các triệu chứng có thể không tuân theo sự phân bố giải phẫu (ví dụ: các khiếm khuyết về cảm giác liên quan đến các phần của nhiều rễ thần kinh) hoặc các dấu hiệu có thể khác nhau ở các lần khám khác nhau hoặc khi đánh giá theo những cách khác nhau, như sau (1):

  • Một bệnh nhân có thể có phản xạ bàn chân bị yếu khi kiểm tra trên giường nhưng có thể đi bộ bình thường trên ngón chân.

  • Ở một bệnh nhân nằm ngửa, bàn tay của người thăm khám nằm dưới gót chân “tê liệt” phát hiện áp lực hướng xuống dưới khi bệnh nhân nâng chân không bị tổn thương lên chống lại lực kháng (dấu hiệu Hoover).

  • Biểu hiện run bị thay đổi hoặc biến mất khi bệnh nhân bị phân tâm (ví dụ, bằng cách cho bệnh nhân bắt chước một chuyển động nhịp nhàng với bàn tay không bị ảnh hưởng).

  • Việc kháng cự mở mắt được phát hiện trong một cơn co giật rõ ràng.

  • Thiếu hụt thị giác biểu hiện thị trường hình ống (thị trường đường hầm).

Ngoài ra, để đáp ứng các tiêu chuẩn trở thành một rối loạn, các triệu chứng phải đủ nghiêm trọng để gây ra tình trạng khó chịu đáng kể hoặc làm ảnh hưởng đến các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc các khu vực hoạt động quan trọng khác.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, tái bản lần thứ 5, Chỉnh sửa nội dung (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, 2022, pp 360-364.

  • Mối quan hệ hỗ trợ, tin cậy với bác sĩ lâm sàng

  • Đôi khi thôi miên hoặc liệu pháp nhận thức-hành vi

Một mối quan hệ bác sĩ-bệnh nhân luôn tin tưởng và hỗ trợ là điều cần thiết. Điều trị cộng tác bao gồm một bác sĩ tâm thần và một bác sĩ từ một lĩnh vực khác (ví dụ như bác sĩ thần kinh học, bác sĩ nội khoa) có vẻ hữu ích nhất. Sau khi loại trừ được bệnh nội khoa toàn thân, cần đảm bảo với bệnh nhân rằng các triệu chứng là có thật nhưng không chỉ ra một bệnh nền nghiêm trọng nào. Bệnh nhân có thể bắt đầu cảm thấy đỡ hơn và các triệu chứng có thể mờ dần.

Các phương pháp điều trị sau đây có thể giúp:

  • Sự thôi miên có thể giúp bệnh nhân bằng cách cho phép bệnh nhân kiểm soát các ảnh hưởng của stress và trạng thái tinh thần lên các chức năng cơ thể của họ.

  • Liệu pháp tâm lý, bao gồm điều trị nhận thức-hành vi, có hiệu quả đối với một số người.

  • Vật lý trị liệu có thể giúp một số người.

Bất kỳ rối loạn tâm thần nào tồn tại (ví dụ, trầm cảm) cần được điều trị.

Các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến các tình trạng bệnh lý khác được chẩn đoán khi các yếu tố tâm lý hoặc hành vi ảnh hưởng xấu đến quá trình hoặc kết quả của một tình trạng bệnh lý hiện có.

Bệnh nhân có một hoặc nhiều yếu tố tâm lý hoặc hành vi có ý nghĩa trên lâm sàng ảnh hưởng xấu đến tình trạng bệnh lý chung hiện có (ví dụ: bệnh tiểu đường, bệnh tim) hoặc triệu chứng (ví dụ: đau). Những yếu tố này có thể làm tăng nguy cơ đau khổ, tử vong, hoặc tàn tật; làm nặng thêm tình trạng sức khỏe tiềm ẩn; hoặc dẫn đến nhập viện hoặc nhập khoa cấp cứu. Phản ứng tâm lý hoặc hành vi bất thường đối với một tình trạng bệnh lý không ảnh hưởng đến kết quả điều trị được coi là rối loạn điều chỉnh (1).

Các yếu tố tâm lý hoặc hành vi có thể ảnh hưởng bất lợi đến bệnh nội khoa toàn thân bao gồm

  • Chối bỏ sự quan trọng hoặc mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng

  • Kém tuân thủ các xét nghiệm và điều trị theo quy định

Bệnh nhân có thể biểu hiện như thất bại điều trị hoặc với sự trầm trọng các tình trạng bệnh lý liên quan tới stress (ví dụ, bệnh cơ tim Takotsubo).

Giáo dục bệnh nhân và can thiệp tâm lý trị liệu có thể có ích.

Tài liệu tham khảo

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, tái bản lần thứ 5, Chỉnh sửa nội dung (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, 2022, pp 364-367.

Rối loạn giả bệnh là sự giả tạo các triệu chứng về thể chất hoặc tâm lý mà không có động cơ bên ngoài rõ ràng; động cơ của hành vi này là để giả vờ mình bị bệnh. Các triệu chứng có thể là cấp tính, kịch tính và có tính thuyết phục. Bệnh nhân thường đi từ bác sĩ này sang bác sĩ khác, từ bệnh viện này sang bệnh viện khác để điều trị. Nguyên nhân không được biết rõ ràng, mặc dù các stress và rối loạn nhân cách nặng có liên quan, thường là rối loạn nhân cách ranh giới. Chẩn đoán là lâm sàng. Không có phương pháp điều trị hiệu quả rõ ràng.

Rối loạn giả bệnh lên bản thân trước đây được gọi là hội chứng Munchausen, đặc biệt khi các biểu hiện diễn ra kịch tính và nghiêm trọng. Rối loạn giả bệnh do người khác gây ra (trước đây gọi là rối loạn giả bệnh do người khác gây ra) cũng có thể xảy ra.

Những bệnh nhân này, ban đầu và đôi khi là kéo dài, trở thành trách nhiệm chăm sóc của các phòng khám y tế hoặc phẫu thuật. Tuy nhiên, đây là một rối loạn tâm thần và phức tạp hơn việc mô phỏng không trung thực các triệu chứng, đồng thời đi kèm với những khó khăn nghiêm trọng về mặt cảm xúc.

Bệnh nhân có thể có những đặc điểm nổi bật của chứng rối loạn nhân cách ranh giới và thường thông minh và tháo vát. Họ biết làm thế nào để giả bệnh tật và rất tinh vi trong việc thực hành. Họ khác với những người bịa bệnh vì mặc dù sự lừa dối và mô phỏng của họ có ý thức và có lý chí, nhưng không có động cơ bên ngoài rõ ràng nào (ví dụ như lợi ích kinh tế, thời gian nghỉ làm) đối với hành vi của họ. Không rõ những gì họ đạt được ngoài sự chăm sóc y tế về những gì họ đang trải qua, và động lực và đòi hỏi sự chú ý của họ là không ý thức và không rõ nghĩa.

Bệnh nhân có thể có tiền sử về bị lạm dụng cảm xúc và thể chất. Bệnh nhân cũng có thể trải qua một bệnh trầm trọng trong thời thơ ấu hoặc có người thân bị ốm nặng. Bệnh nhân dường như có vấn đề với nhân dạng của họ cũng như các mối quan hệ không ổn định. Giả bệnh tật có thể là cách để tăng hoặc bảo vệ lòng tự trọng bằng cách đổ lỗi những thất bại cho bệnh tật, bằng việc kết hợp với các bác sĩ có uy tín và các trung tâm y tế và/hoặc bằng việc biểu hiện hiếm thấy, liều lĩnh, hoặc có hiểu biết về y khoa và tinh vi.

Bệnh nhân rối loạn giả bệnh lên bản thân có thể phàn nàn hoặc giả vờ các triệu chứng cơ thể mà gợi ý cho các rối loạn cụ thể (ví dụ, đau bụng gợi ý bụng ổ bụng cấp tính, nôn ra máu). Bệnh nhân thường biết nhiều triệu chứng và đặc điểm liên quan đến rối loạn mà họ đang giả vờ (ví dụ, cơn đau từ bệnh nhồi máu cơ tim có thể lan sang cánh tay trái hoặc hàm hoặc được đi kèm với toát mồ hôi).

Đôi khi họ mô phỏng hoặc tạo ra các bằng chứng cơ thể (ví dụ, ngâm một ngón tay để gây nhiễm bẩn mẫu nước tiểu với máu, tiêm các vi khuẩn dưới da để tạo ra sốt hoặc áp xe, trong những trường hợp đó, Escherichia coli thường là sinh vật lây nhiễm). Thành bụng của họ có thể bị chéo ngang bởi những vết sẹo từ việc mở bụng thăm dò, hoặc một ngón hoặc chi bị cắt bỏ.

  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Text Revision (DSM-5-TR) criteria

  • Đôi khi đánh giá nội khoa toàn thân để loại trừ các nguyên nhân khác

Chẩn đoán rối loạn giả bệnh do bản thân tự áp đặt dựa trên các triệu chứng và dấu hiệu đặc trưng của tình trạng này theo DSM-5-TR (1):

  • Giả các dấu hiệu hoặc triệu chứng về thể chất hoặc tâm lý, hoặc gây ra thương tích hoặc bệnh tật liên quan đến hành vi lừa dối đã xác định.

  • Người đó thể hiện bản thân họ với người khác là bị bệnh, suy yếu hoặc bị thương.

  • Hành vi lừa dối vẫn rõ ràng ngay cả khi không có phần thưởng rõ ràng từ bên ngoài.

  • Hành vi này không thể giải thích tốt hơn bằng một rối loạn tâm thần khác, chẳng hạn như rối loạn ảo tưởng hoặc rối loạn loạn thần khác.

Chẩn đoán rối loạn giả bệnh lên bản thân phụ thuộc vào tiền sử và việc thăm khám, cùng với các xét nghiệm cần thiết để loại trừ các rối loạn thể chất và biểu hiện cường điệu, hư cấu, mô phỏng, và/hoặc gây ra các triệu chứng cơ thể. Hành vi phải xảy ra khi không có động cơ bên ngoài rõ ràng (ví dụ: nghỉ làm, bồi thường tài chính cho thương tổn) (1).

Tài liệu tham khảo

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, tái bản lần thứ 5, Chỉnh sửa nội dung (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, 2022, pp 367-370.

  • Không có phương pháp điều trị hiệu quả rõ ràng

Việc điều trị rối loạn giả bệnh lên bản thân thường là thách thức và không có phương pháp điều trị hiệu quả rõ ràng. Bệnh nhân có thể thuyên giảm ban đầu khi đáp ứng được yêu cầu điều trị, nhưng các triệu chứng của họ thường tăng dần, cuối cùng vượt quá khả năng hoặc mong muốn của bác sĩ lâm sàng. Việc đối đầu hoặc từ chối đáp ứng nhu cầu điều trị thường dẫn đến phản ứng tức giận và bệnh nhân thường chuyển từ bác sĩ hoặc bệnh viện này sang bác sĩ hoặc bệnh viện khác.

Việc nhận biết rối loạn và yêu cầu tham vấn tâm thần hoặc tâm lý sớm là rất quan trọng, để tránh các xét nghiệm xâm lấn nguy hiểm, các thủ thuật phẫu thuật và việc sử dụng thuốc quá mức hoặc không cần thiết.

Một phương pháp tiếp cận không gây hấn, không trừng phạt, không đối đầu nên được sử dụng để đưa một chẩn đoán rối loạn giả bệnh cho bệnh nhân. Để tránh gợi ý tội lỗi hoặc hổ thẹn, bác sĩ có thể đưa chẩn đoán ra như một sự trợ giúp. Ngoài ra, một số chuyên gia khuyên nên cung cấp phương pháp điều trị tâm thần mà không yêu cầu bệnh nhân phải thừa nhận vai trò của họ trong việc gây ra bệnh. Trong cả hai trường hợp, truyền đạt đến bệnh nhân rằng việc hợp tác bác sĩ và bệnh nhân để giải quyết vấn đề là hữu ích.

Rối loạn giả bệnh lên người khác là giả mạo các biểu hiện của một bệnh lên người khác, thường được thực hiện bởi những người chăm sóc lên những người mà họ chăm sóc.

Trước đây, rối loạn này được gọi là rối loạn giả bệnh ủy quyền hay hội chứng Munchausen ủy quyền. Trong rối loạn giả bệnh do áp đặt lên một người khác, mọi người, thường là người chăm sóc (như cha mẹ), cố ý tạo ra hoặc làm sai lệch các triệu chứng hoặc dấu hiệu về thể chất hoặc tâm lý ở một người mà họ chăm sóc (thường là trẻ em), thay vì ở chính họ (như trong rối loạn giả bệnh do bản thân tự áp đặt) (1).

Người chăm sóc làm giả bệnh sử và có thể gây thương tổn cho trẻ bằng thuốc (theo toa và/hoặc bất hợp pháp) hoặc các tác nhân khác hoặc thêm máu hoặc chất gây ô nhiễm vi khuẩn vào mẫu nước tiểu để mô phỏng bệnh tật. Người chăm sóc cho trẻ đi khám và có vẻ rất quan tâm và bảo vệ (1). Trẻ thường có tiền sử thường xuyên nhập viện, thường là với nhiều triệu chứng không đặc hiệu, mà không chẩn đoán chắc chắn. Đứa trẻ em bị tổn thương có thể bị ốm nặng và đôi khi chết.

Rối loạn giả bệnh áp đặt lên một người khác thường khó nhận ra, đặc biệt là khi tiền sử của người chăm sóc là chính đáng (ví dụ: báo cáo về cơn sốt ở trẻ sơ sinh) và/hoặc nạn nhân là người không nói được lời.

Tài liệu tham khảo

1. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, tái bản lần thứ 5, Chỉnh sửa nội dung (DSM-5-TR). American Psychiatric Association Publishing, Washington, DC, 2022, pp 367-370.

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)

Hành vi tự sát và tự gây tổn thương

Tự sát là cái chết do một hành động tự làm hại bản thân nhằm mục đích gây chết người. Hành vi tự sát bao gồm một loạt các hành vi từ cố gắng tự sát và các hành vi chuẩn bị cho đến tự sát hoàn thành. Ý tưởng tự sát đề cập đến quá trình suy nghĩ, xem xét hoặc lên kế hoạch tự sát.

Những tiến bộ trong khoa học, vận động chính sách và giảm kỳ thị đã dẫn đến sự thay đổi về phần lớn thuật ngữ liên quan đến tự sát, bao gồm cả những khái niệm đã được định nghĩa ở trên:

  • Ý định tự sát: Ý định tự kết liễu cuộc đời mình bằng cách thực hiện hành vi tự sát

  • Toan tự sát: Một hành vi không gây tử vong, có khả năng gây thương tích nhằm chống lại bản thân với ý định chết do hành vi đó

  • Những người sống sót sau toan tự sát: Những người có trải nghiệm cá nhân về ý nghĩ hoặc toan tự tự sát; thường quan trọng trong phong trào vận động phòng chống tự sát; những người sống sót sau toan tự sát đôi khi hợp lực với những người ủng hộ khác

  • Người sống sót sau mất mát tự sát hoặc người mất tích tự sát: Thành viên gia đình, bạn bè hoặc đồng nghiệp của người chết vì tự sát

Ba thay đổi quan trọng khác trong thuật ngữ tự tử cũng đã được đưa vào từ điển chuyên môn:

  • Chết vì tự tử: Ngôn ngữ được đề xuất này được ưu tiên hơn cụm từ “cam kết tự sát”. Các ngôn từ đơn giản khác cũng được chấp nhận (ví dụ, “tự sát”, “kết liễu cuộc đời cô ấy”, “lấy đi mạng sống của anh ấy”).

  • Hành vi phi tử sát gây thương tổn (NSSI) và hành vi tự gây thương tổn (SIB): Những hành vi này được xác định là cố ý gây thương tổn cho bản thân mà không có ý định tự sát; tự cắt là hình thức phổ biến nhất, nhưng đốt, cào, đánh và cố ý ngăn vết thương lành lại là những hình thức khác. Mặc dù bản thân hành vi không có ý định tự sát, nhưng những người có kiểu NSSI đã được phát hiện có nguy cơ tự tử cao hơn trong thời gian dài.

  • Ý tưởng tự sát: Thuật ngữ này thường được sử dụng trong bối cảnh lâm sàng giữa các chuyên gia để đề cập đến nhiều trải nghiệm tự sát có thể xảy ra; nó không nêu rõ liệu có ý tưởng tự tử hay toan tự sát hay không, hoặc bản chất của ý tưởng hoặc toan tự sát là mãn tính/tái phát hay một sự kiện đơn lẻ hoặc nhiều sự kiện. Trong nhiều trường hợp, việc giao tiếp có thể hiệu quả và rõ ràng hơn nếu người ta nói rõ vấn đề thực tế đang diễn ra (ví dụ: ý tưởng hoặc toan) và bao gồm các chi tiết liên quan.

Số liệu thống kê về hành vi tự sát chủ yếu dựa vào giấy chứng tử, báo cáo điều tra và đánh giá thấp tỷ lệ thực tế. Để cung cấp thông tin đáng tin cậy hơn ở Hoa Kỳ, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) đã thành lập một hệ thống cấp tiểu bang gọi là Hệ thống Báo cáo Tử vong Bạo lực Quốc gia (NVDRS), hệ thống này thu thập thông tin thực tế về từng vụ việc bạo lực từ nhiều nguồn khác nhau để cung cấp thông tin hiểu biết chính xác rõ ràng hơn về nguyên nhân của những cái chết bạo lực (giết người và tự sát). NVDRS hiện đang được áp dụng ở tất cả 50 tiểu bang, Đặc khu Columbia và Puerto Rico.

Tại Hoa Kỳ, tự sát là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ 10 trong nhiều thập kỷ cho đến năm 2020, khi COVID-19 trở thành nguyên nhân gây tử vong đứng thứ ba và đẩy tự sát ra khỏi top 10 (1, 2). Tỷ lệ tự sát ở Mỹ tăng từ năm 1999 đến năm 2018 với tổng tỷ lệ là 36% (từ 10,2 lên 14,2/100.000 người mỗi năm), tiếp theo là 2 năm tỷ lệ giảm liên tiếp vào năm 2019 và 2020. Thật không may, dữ liệu tự sát năm 2021 của Hoa Kỳ cho thấy mức tăng 4% từ năm 2020 đến năm 2021 (2, 3). Do tự sát được biết đến là một hậu quả sức khỏe phức tạp, đa yếu tố nên rất khó xác định nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi tỷ lệ dân số, nhưng tình trạng này được cho là có liên quan đến các yếu tố như thái độ văn hóa đối với sức khỏe tâm thần và tìm kiếm trợ giúp, tiếp cận sức khỏe tâm thần, chăm sóc, tiếp cận các phương tiện gây chết người và nhiều ảnh hưởng khác. Các xu hướng xã hội bên ngoài và trải nghiệm cá nhân được cho là có tương tác với các yếu tố nguy cơ của cá nhân, bên trong như từng trải qua chấn thương hoặc có khuynh hướng di truyền có thể làm tăng nguy cơ tự sát (3).

Vào năm 2021, nhóm tuổi có tỷ lệ tự sát cao hơn là người lớn từ 25 tuổi đến 34 tuổi và từ 75 tuổi đến 84 tuổi, nhưng tỷ lệ này cao nhất ở người cao tuổi trên 85 tuổi. Tỷ lệ tự sát cao nhất trong các nhóm chủng tộc và sắc tộc theo độ tuổi được thấy ở thanh niên người Mỹ da đỏ (2). Tuy nhiên, xét về gánh nặng tự sát nói chung, nam giới da trắng, chiếm khoảng 1/3 dân số Hoa Kỳ, chiếm 7 trong 10 vụ tự sát ở Hoa Kỳ. Dữ liệu mới nổi cũng cho thấy tỷ lệ tự sát ngày càng tăng ở người da đen, người gốc Tây Ban Nha và người Mỹ gốc Á (4). Để biết số liệu thống kê hiện tại về tự sát, hãy xem dữ liệu do Tổ chức Phòng chống Tự sát Hoa Kỳ cung cấp.

Vào những năm 1990, tỷ lệ tự sát ở thanh thiếu niên giảm sau hơn một thập kỷ tăng ổn định, chỉ bắt đầu tăng trở lại vào đầu những năm 2000 do số ca tử vong do tự sát bằng súng tăng lên một cách đáng báo động. Nhiều ảnh hưởng có thể liên quan đến xu hướng ngày càng tăng tỷ lệ tự sát ở trẻ em và thanh thiếu niên, bao gồm những tình trạng sau đây (5):

  • Các tình trạng sức khỏe tâm thần không được giải quyết (bao gồm rối loạn trầm cảm nặngrối loạn lưỡng cựcrối loạn sử dụng chất kích thíchrối loạn tâm thầnrối loạn ăn uốngrối loạn tăng động/giảm chú ý [ADHD]rối loạn lo âu và/hoặc chấn thương)

  • Tình trạng sức khỏe như chấn thương sọ não hoặc rối loạn phổ tự kỷ

  • Những sự kiện bất lợi thời thơ ấu (bao gồm lạm dụng, bỏ bê, mất mát)

  • Trải qua chấn thương hoặc mất mát (bao gồm môi trường gia đình không ổn định; lớn lên với cha mẹ mắc bệnh tâm thần; tiếp xúc với việc bạn bè tự sát và/hoặc người thân chết do tự sát; trải nghiệm bị bắt nạt hoặc phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, giới tính hoặc khuynh hướng tình dục)

Nghiên cứu về vai trò của mạng xã hội đang phát triển và cho đến nay cho thấy ảnh hưởng phức tạp và đa dạng của việc sử dụng mạng xã hội, từ những tác động bất lợi đến tâm trạng, giấc ngủ và ý tưởng tự sát đến sự kết nối tích cực giữa các cá nhân đối với một số người, điều này thực sự có thể mang lại tác dụng bảo vệ (6). (Xem thêm Nguyên nhân). Dữ liệu bổ sung cũng cho thấy tác động có thể có của các cảnh báo được đóng khung do các cơ quan quản lý đưa ra về nguy cơ tự sát tăng lên ở trẻ em và thanh thiếu niên liên quan đến việc sử dụng thuốc chống trầm cảm, điều này có thể dẫn đến giảm khả năng điều trị rối loạn trầm cảm nặng (7, 8).

Nam giới tử vong do tự sát nhiều hơn nữ giới với tỷ lệ khoảng 2,5:1 đến 4:1 trên toàn cầu và gần 4:1 ở Hoa Kỳ. Lý do là không rõ ràng, nhưng có thể giải thích bao gồm

  • Nam giới dường như ít tìm kiếm sự giúp đỡ hơn khi họ đang đau khổ.

  • Nam giới có tỷ lệ hiện mắc của rối loạn sử dụng rượu và rối loạn sử dụng chất kích thích cao hơn, cả hai đều dẫn đến hành vi bốc đồng.

  • Nam giới có xu hướng hung hãn hơn và sử dụng nhiều biện pháp gây chết người hơn khi cố gắng tự sát.

  • Số vụ tự sát ở nam giới bao gồm các vụ tự sát trong quân nhân và cựu chiến binh, nơi có tỷ lệ nam so với nữ cao hơn.

Xét về các trải nghiệm liên quan đến tự sát, ước tính có khoảng 14 triệu người Mỹ có ý định tự tử, 1,4 triệu người Mỹ trưởng thành đã thực hiện nỗ lực tự sát và chỉ dưới 50.000 người chết vì tự sát mỗi năm. Ý tưởng tự sát là một trải nghiệm khá phổ biến trong dân số nói chung và phổ biến hơn trong các mẫu lâm sàng. Trong số những người cân nhắc việc tự sát, có ít hành động có ý nghĩ hoặc xung động tự sát hơn nhiều. Trong số những người sống sót kể cả những nỗ lực tự tử nghiêm trọng về mặt y tế, hơn 90% không chết vì tự sát. Từ góc độ tuổi thọ, thanh thiếu niên và thanh niên có tỷ lệ nảy sinh ý định tự sát cao nhất; nữ giới toán tự sát nhiều hơn nam giới, nhưng tỷ lệ nam giới chết do tự tử cao gấp 3 đến 4 lần so với nữ giới. Ở những người lớn tuổi, mặc dù ý nghĩ tự sát ít phổ biến hơn nhưng cứ 4 lần toan tự sát thì có 1 người kết thúc bằng cái chết.

Một lá thư tuyệt mệnh được để lại khoảng 1 trong 6 người tự sát hoàn thành. Nội dung có thể chỉ ra manh mối liên quan đến các yếu tố dẫn đến vụ tự tử (ví dụ, bệnh tâm thần, vô vọng, hạn chế nhận thức và thu hẹp các lựa chọn nhận thức để đối phó, cảm giác trở thành gánh nặng cho người khác và cảm giác bị cô lập). Sự giao nhau giữa những yếu tố này và những yếu tố gây căng thẳng hoặc mất mát khác trong cuộc sống có thể dẫn đến việc tự tử.

Lây truyền tự tử đề cập đến một hiện tượng trong đó một người tự tử dường như sẽ đến với những người khác trong cộng đồng, trường học hoặc nơi làm việc. Những vụ tự tử được công bố rộng rãi có thể có ảnh hưởng rất rộng rãi. Những người bị ảnh hưởng thường là những người đã dễ bị tổn thương. Con người là sinh vật xã hội có xu hướng bắt chước lẫn nhau và thanh thiếu niên có nhiều khả năng bắt chước hơn người lớn vì giai đoạn phát triển tâm lý và thần kinh của họ. Người ta ước tính rằng sự lây lan là một yếu tố gây ra từ 1% đến 5% tổng số vụ tự sát ở thanh thiếu niên.

Sự lây lan có thể xảy ra khi tiếp xúc với một người bạn đồng trang lứa cố gắng hoặc chết bằng cách tự tử, bởi phương tiện truyền thông đưa tin rộng rãi về vụ tự tử của một người nổi tiếng hoặc bằng hình ảnh và/hoặc mô tả giật gân về vụ tự tử trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Ngược lại, việc đưa tin trên các phương tiện truyền thông với thông điệp tích cực về một cái chết do tự tử có thể giảm thiểu nguy cơ và/hoặc tác động của việc tự tử lây lan cho những thanh thiếu niên dễ bị tổn thương. Thông điệp ngăn ngừa tự sát theo chủ đề tích cực thường liên quan đến việc miêu tả các cuộc đấu tranh về sức khỏe tâm thần như một phần của cuộc sống và trải nghiệm về sức khỏe con người mà không có sự kỳ thị nào liên quan đến việc tìm kiếm sự giúp đỡ và điều trị. Sau khi một vụ tự sát xảy ra, những thông điệp tích cực ở trường học hoặc nơi làm việc nên truyền đạt rõ ràng về sự mất mát bi thảm của một thành viên trong cộng đồng, bày tỏ sự ủng hộ đối với cộng đồng đang đau buồn và cung cấp các nguồn lực để hỗ trợ. Ngôn ngữ mà nhà lãnh đạo sử dụng để thảo luận về vấn đề tự sát, dù bằng văn bản hay tại các cuộc gặp mặt trực tiếp, để trình bày về sự mất mát đều rất quan trọng. Để biết thêm thông tin chi tiết về cách giao tiếp và các mẫu giao tiếp bằng văn bản, hãy xem Bộ công cụ Sau khi Tự sát được cung cấp miễn phí từ Tổ chức Phòng chống Tự sát Hoa Kỳ (afsp.org).

Việc lây lan tự sát cũng có thể lây lan ở trường học và nơi làm việc, những nơi quan trọng để thực hiện và tuân theo các hướng dẫn ngăn chặn các vụ tự sát trong tương lai.

Các loại tự sát khác rất hiếm. Bao gồm

  • Nhóm tự tử

  • Giết người/tự tử

  • “Tự sát do cảnh sát” (tình huống trong đó mọi người hành động theo một cách nào đó, chẳng hạn như vung vũ khí, khiến các nhân viên thực thi pháp luật hành động bằng vũ lực chết người)

Tài liệu tham khảo về dịch tễ học

1. Ahmad FB, Anderson RN: The leading causes of death in the US for 2020 JAMA 325(18):1829-1830, 2021. 10.1001/jama.2021.5469

2. Stone DM, Mack KA, Qualters J: Notes from the field: Recent changes in suicide rates, by race and ethnicity and age group — United States, 2021 MMWR Morb Mortal Wkly Rep 72:160–162, 2023.doi: 10.15585/mmwr.mm7206a4

3. Moutier C, Pisani A, Stahl S: Stahl’s Handbooks: Suicide Prevention. Cambridge University Press, 2021

4. Sheftall AH, Vakil F, Ruch DA, et al: Black youth suicide: Investigation of current trends and precipitating circumstances. J Am Acad Child & Adolesc Psychiatry 61(5):662-675, 2022 doi: https://doi.org/10.1016/j.jaac.2021.10.012

5. Ruch DA, Heck KM, Sheftall AH, et al: Characteristics and precipitating circumstances of suicide among children aged 5 to 11 years in the United States, 2013-2017. JAMA Netw Open4(7):e2115683, 2021. doi:10.1001/jamanetworkopen.2021.15683

6. Czyz EK, Liu Z, King CA: Social connectedness and one-year trajectories among suicidal adolescents following psychiatric hospitalization. J Clin Child Adolesc Psychol 41(2):214-226, 2012. doi: 10.1080/15374416.2012.651998

7. Libby AM, Brent DA, Morrato EH, et al: Decline in treatment of pediatric depression after FDA advisory on risk of suicidality with SSRIs. Am J Psychiatry 164(6):884-891, 2007. doi: 10.1176/ajp.2007.164.6.884

8. Friedman R: Antidepressants’ black-box warning – 10 years later. N Engl J Med 371:1666-1668, 2014 doi: 10.1056/NEJMp1408480

Tự sát là một sự kiện phức tạp liên quan đến sức khỏe, bao gồm một tập hợp các yếu tố di truyền, môi trường, tâm lý và hành vi. Các nghiên cứu khám nghiệm tử thi tâm lý cho thấy rõ ràng rằng trong mỗi trường hợp tự sát, người quá cố đều gặp phải nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến tự sát. Tử vong do tự sát phổ biến hơn nhiều ở những người mắc bệnh tâm thần so với những người đối chứng phù hợp với độ tuổi và giới tính (1). Trong một số nghiên cứu, gần 90% số người tử vong do tự sát đều có tình trạng sức khỏe tâm thần có thể chẩn đoán được vào thời điểm họ qua đời (2). (Xem bảng Tần suất rối loạn sức khỏe tâm thần khi tự tử.)

Tần suất rối loạn sức khỏe tâm thần khi tự tử*

Rối loạn sức khỏe tâm thần

Tần số

Trầm cảm nặng

50 đến 60%

Rối loạn sử dụng chất

25%

loạn thần

15%

Rối loạn lưỡng cực

10%

Rối loạn nhân cách ranh giới

10%

Rối loạn lo âu và rối loạn căng thẳng sau chấn thương

6 đến 10%

Rối loạn kiểm soát xung động

Các rối loạn ăn

Rối loạn tăng động/giảm chú ý

Adapted from Chesney E, Goodwin GM, Fazel S: Risks of all-cause and suicide mortality in mental disorders: a meta-review. World Psychiatry 13(2):153-160. doi: 10.1002/wps.20128

* Các rối loạn được liệt kê theo thứ tự giảm dần tỷ lệ hiện hành; những trường hợp xảy ra với tỷ lệ không đáng kể không có số liệu chính xác đính kèm. Xin lưu ý rằng những rối loạn này thường cùng xảy ra trong các trường hợp có nguy cơ tự tử, do đó, tỷ lệ phổ biến không phải là 100%.

Một trong những yếu tố nguy cơ phổ biến nhất, mạnh mẽ và có thể khắc phục được để tự tử là trầm cảm.

Đối với bệnh nhân trầm cảm, nguy cơ tự tử có thể tăng lên trong giai đoạn trầm cảm nặng hơn và khi một số yếu tố nguy cơ khác hội tụ. Ngoài ra, tự sát dường như phổ biến hơn khi lo lắng nghiêm trọng, bốc đồng, sử dụng chất kích thích và các vấn đề về giấc ngủ là một phần của trầm cảm nặng hoặc trầm cảm lưỡng cực. Nguy cơ có ý nghĩ tự sát (và hiếm khi có ý định tự sát) có thể tăng ở các nhóm tuổi trẻ hơn sau khi bắt đầu dùng thuốc chống trầm cảm (xem Điều trị trầm cảm và nguy cơ tự sát và Nguy cơ tự sát và thuốc chống trầm cảm). Điều trị hiệu quả chứng trầm cảm bằng thuốc và/hoặc một số hình thức trị liệu tâm lý được coi là một cách hiệu quả để giảm nguy cơ tự tử nói chung.

Các yếu tố nguy cơ khác của tự sát bao gồm:

  • Hầu hết các tình trạng sức khỏe tâm thần nghiêm trọng khác

  • Những lần toan tự sát trước đây

  • Rối loạn nhân cách (ví dụ: rối loạn nhân cách ranh giới)

  • Bốc đồng và hung hăng

  • Những trải nghiệm sang chấn thời thơ ấu

  • Tiền sử gia đình từng tự tử và/hoặc các tình trạng tâm thần

  • Sử dụng rượu, thuốc bất hợp pháp và thuốc giảm đau theo đơn

  • Tình trạng sức khỏe thể chất nghiêm trọng hoặc mạn tính (ví dụ: đau mạn tính, chấn thương sọ não)

  • Thời gian mất mát (ví dụ, gia đình hoặc bạn bè qua đời)

  • Xung đột mối quan hệ (ví dụ, ly hôn)

  • Gián đoạn công việc (ví dụ, thất nghiệp)

  • Các giai đoạn chuyển đổi nghề nghiệp (ví dụ, thay đổi tình trạng quân nhân từ tình trạng tại ngũ sang tình trạng cựu chiến binh hoặc nghỉ hưu)

  • Căng thẳng tài chính (ví dụ, suy thoái kinh tế, thiếu việc làm)

  • Bắt nạt hoặc trải nghiệm nhục nhã khác (ví dụ: bắt nạt trên mạng, bị xã hội từ chối, phân biệt đối xử, các vấn đề nghề nghiệp hoặc pháp lý)

Các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo cho tự sát

Kiểu

Các yếu tố cụ thể*

Tình hình xã hội

Những sự kiện quan trọng mang tính cá nhân

Thất nghiệp hoặc khó khăn về tài chính, đặc biệt nếu điều này làm sa sút nhiều tình trạng kinh tế

Ly thân, ly hôn, hay góa bụa gần đây

Việc bắt giữ gần đây hoặc gặp rắc rối với luật pháp

Cô lập xã hội với thái độ không đồng cảm thực tế hoặc được tưởng tượng của người thân hoặc bạn bè

Tiền sử tự sát

Cố gắng tự sát trước đây

Lập kế hoạch tự sát chi tiết, thực hiện các bước để thực hiện kế hoạch (mua súng hoặc thuốc), và hành động cẩn trọng nhằm ngăn ngừa việc bị phát hiện

Tiền sử gia đình về tự sát hoặc rối loạn tâm thần

Lâm sàng

Bệnh trầm cảm, đặc biệt là khi khởi phát

Kích động vận động đáng kể, bồn chồn, và lo âu với chứng mất ngủ trầm trọng

Cảm giác tội lỗi đáng kể, sự không xứng đáng, và tuyệt vọng; nhận thức mình là gánh nặng cho người khác (gánh nặng); tự phỉ báng; hoang tưởng hư vô

Hoang tưởng hoặc gần như hoang tưởng về một rối loạn thể chất (ví dụ như ung thư, rối loạn nhịp tim, bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục) hoặc những hoang tưởng khác (ví dụ, hoang tưởng về sự nghèo đói)

Ảo giác ra lệnh

Nhân cách bốc đồng, thù địch

Một rối loạn thể chất mạn tính, đau đớn, hoặc mất khả năng, đặc biệt là ở những bệnh nhân khỏe mạnh trước đây

Sử dụng thuốc và chất kích thích

Rối loạn sử dụng rượu hoặc chất kích thích (bao gồm cả sử dụng thuốc sai theo đơn), đặc biệt ;à nếu việc sử dụng gần đây tăng lên

Sử dụng các loại thuốc có thể góp phần gây ra hành vi tự sát (ví dụ: ngừng paroxetine đột ngột và một số thuốc chống trầm cảm khác có thể dẫn đến trầm cảm và lo lắng gia tăng, từ đó làm tăng nguy cơ có hành vi tự sát)

See also American Foundation for Suicide Prevention: Suicide Statistics. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2023. 

Người bị bệnh tâm thần phân liệt chết do tự sát với tỷ lệ cao hơn nhiều so với dân số chung, có tới 10% số bệnh nhân tâm thần phân liệt chết do tự sát. Những nguyên nhân dẫn đến nguy cơ tự tử ở những người bị tâm thần phân liệt bao gồm bệnh ở giai đoạn đầu, giai đoạn trầm cảm, ảo giác, không tiếp cận hoặc không tuân theo phương pháp điều trị hiệu quả, tàn tật, vô vọng và chứng nằm ngồi không yên. Các yếu tố nguy cơ tâm lý xã hội nổi tiếng khác đối với việc tự tử bao gồm gián đoạn mối quan hệ, thất nghiệp và mất mát.

Rượu và ma túy trái phép có thể làm tăng sự mất kiềm chế và tính bốc đồng cũng như làm tâm trạng trở nên tồi tệ hơn. Khoảng 30% đến 40% số người chết do tự sát đã uống rượu trước khi cố gắng tự sát, và khoảng một nửa trong số đó đã bị say rượu vào thời điểm đó. Những người trẻ tuổi, thường có xu hướng hành vi bốc đồng hơn, đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi rượu; mức độ say vừa phải có thể dẫn đến việc họ sử dụng các phương pháp tự sát nguy hiểm hơn (3). Tuy nhiên, những người có rối loạn sử dụng ruoouwj có nhiều nguy cơ tự sát thậm chí khi họ không say rượu.

Tình trạng sức khỏe thể chất nghiêm trọng, đặc biệt là những bệnh mạn tính và sự đau đớn, đóng góp khoảng 20% số vụ tự sát ở người cao tuổi. Các tình trạng sức khỏe thể chất mới được chẩn đoán hoặc mới khởi phát cũng có thể làm tăng nguy cơ tự tử (ví dụ, bệnh tiểu đường, rối loạn co giật, tình trạng đau, bệnh đa xơ cứng, ung thư, nhiễm trùng, HIV/AIDS). Những tình trạng sức khỏe này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sinh lý của não và do đó, làm tăng nguy cơ tự tử. Những ảnh hưởng tâm lý của tình trạng khuyết tật, đau đớn hoặc chẩn đoán mới về tình trạng sức khỏe nghiêm trọng cũng có thể làm tăng nguy cơ tự sát.

Những người bị rối loạn nhân cách có xu hướng tự sát, đặc biệt là những người mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới hoặc rối loạn nhân cách chống đối xã hội, những người có thể gặp vấn đề về khả năng chịu đựng căng thẳng và các kiểu phản ứng giữa các cá nhân, bao gồm cả hành vi tự làm bản thân bị thương và gây hấn.

Những trải nghiệm căng thẳng thời thơ ấu, đặc biệt là những căng thẳng về lạm dụng tình dục hoặc thể chất hoặc bị tách rời khỏi cha mẹ, có liên quan đến những nỗ lực tự sát và có lẽ cả tự sát hoàn thành.

Di truyền của nguy cơ tự tử là một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng và dường như ảnh hưởng đến nguy cơ tự tử. Mặc dù nguy cơ tự sát có thể xảy ra trong gia đình nhưng gen dường như chỉ chiếm một phần nguy cơ đó (4). Tiền sử gia đình từng tự tử, cố gắng tự tử hoặc rối loạn tâm thần có liên quan đến việc tăng nguy cơ tự tử.

Cũng có bằng chứng cho thấy sự tương tác giữa di truyền và môi trường góp phần gây ra nguy cơ tự sát (5). Những thay đổi biểu sinh (ví dụ: methyl hóa DNA) ảnh hưởng đến biểu hiện gen có thể làm tăng hoặc giảm nguy cơ tự sát bằng cách ảnh hưởng đến sinh lý thần kinh, nhận thức hoặc điều chỉnh căng thẳng. Điều này có nghĩa là những trải nghiệm tiêu cực như chấn thương và ngược lại, những trải nghiệm tích cực như sự hỗ trợ xã hội của liệu pháp tâm lý thực sự có thể thay đổi biểu hiện gen và ảnh hưởng đáng kể đến khả năng phục hồi và nguy cơ tự sát của một cá nhân.

Các đặc điểm tâm lý như xu hướng bốc đồng, cứng nhắc về nhận thức, nhạy cảm bị từ chối giữa các cá nhân hoặc rối loạn thần kinh nghiêm trọng cũng có thể làm tăng nguy cơ.

Tài liệu tham khảo về căn nguyên

1. Chesney E, Goodwin GM, Fazel S: Risks of all-cause and suicide mortality in mental disorders: a meta-review. World Psychiatry  3(2):153-160, 2014. doi: 10.1002/wps.20128

2. Arsenault-Lapierre G, Kim C, Turecki G: Psychiatric diagnoses in 3275 suicides: a meta-analysis. BMC Psychiatry 4:37, 2004. doi: 10.1186/1471-244X-4-37

3. Park CHK, Yoo SH, Lee J, et al: Impact of acute alcohol consumption on lethality of suicide methods. Compr Psychiatry 75:27-34, 2017. doi: 10.1016/j.comppsych.2017.02.012

4. Galfalvy H, Haghighi F, Hodgkinson C, et al: A genome-wide association study of suicidal behavior. Am J Med Genet B Neuropsychiatr Genet 168(7):557-563, 2015. doi:10.1002/ajmg.b.32330

5. Cheung S, Woo J, Maes MS, et al: Suicide epigenetics, a review of recent progress. J Affect Disord 265:423-438, 2020. doi: 10.1016/j.jad.2020.01.040

Lựa chọn phương pháp tự tử được xác định bởi nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố văn hóa, khả năng sẵn có của các phương tiện để hoàn thành việc tự sát và mức độ nghiêm trọng của ý định. Ví dụ: tình trạng tự ngộ độc thuốc trừ sâu xảy ra phổ biến hơn ở các vùng nông thôn ở các nước Châu Á và Tây Thái Bình Dương (1). Một số phương thức (ví dụ: nhảy từ trên cao) khiến việc sống sót hầu như không thể thực hiện được, trong khi những phương thức khác (ví dụ: sử dụng ma túy trái phép hoặc uống thuốc) có thể cho phép giải cứu. Tuy nhiên, việc sử dụng một phương thức được chứng minh không gây tử vong không nhất thiết ngụ ý rằng ý định tự sát đó ít nghiêm trọng hơn.

Đối với các lần toan tự sát, uống ma túy, thuốc hoặc chất độc bất hợp pháp là phương thức được sử dụng phổ biến nhất. Các phương thức bạo lực như bắn và treo cổ ít phổ biến hơn trong số các vụ toan tự sát.

Khoảng 50% số vụ tự sát thành công ở Hoa Kỳ là bằng súng; nam giới sử dụng phương thức này nhiều hơn nữ giới. Dữ liệu bổ sung về xu hướng tỷ lệ tự sát theo giới tính, chủng tộc và sắc tộc đã được Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) cung cấp (2).

Tài liệu tham khảo về các phương thức

1. Mew EJ, Padmanathan P, Konradsen F, et al: The global burden of fatal self-poisoning with pesticides 2006-15: Systematic review. J Affect Disord 219:93-104, 2017. doi: 10.1016/j.jad.2017.05.002

2. QuickStats: Age-adjusted suicide rates, by sex and three most common methods — United States, 2000–2018. MMWR Morb Mortal Wkly Rep 69:249, 2020 doi: http://dx.doi.org/10.15585/mmwr.mm6909a7

  • Đánh giá nguy cơ tự sát

  • Lập kế hoạch an toàn

  • Theo dõi và giám sát chặt chẽ

Liên minh Hành động Quốc gia về Phòng chống Tự tử (Liên minh Hành động) đã công bố hướng dẫn về điều trị tiêu chuẩn được khuyến nghị cho những bệnh nhân có nguy cơ tự sát. Các tiêu chuẩn này bao gồm các khuyến nghị về sàng lọc, đánh giá nguy cơ tự tử và chăm sóc lâm sàng ở cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu, sức khỏe hành vi và khoa cấp cứu (1).

Điều quan trọng cần lưu ý là nguy cơ tự tử là động. Nguy cơ cấp tính thường chỉ kéo dài trong một khoảng thời gian ngắn (vài giờ đến vài ngày). Trong phần lớn các vụ tự tử, bệnh nhân đã được nhìn thấy ở nhiều cơ sở chăm sóc sức khỏe khác nhau trong giai đoạn có nguy cơ cấp tính, nhưng nguy cơ tự tử không được phát hiện. Các chiến lược nhằm giảm thiểu nguy cơ liên quan đến tự sát mà các bác sĩ lâm sàng có thể sử dụng (ngay cả những người không liên quan đến sức khỏe hành vi) bao gồm

  • Sử dụng phản ứng quan tâm, không phán xét

  • Cung cấp các biện pháp can thiệp ngắn gọn (ví dụ: lập kế hoạch an toàn và tư vấn về các phương tiện gây chết người)

  • Giao tiếp với gia đình và bạn bè thân thiết của bệnh nhân

  • Cung cấp các nguồn hỗ trợ về khủng hoảng và sức khỏe tâm thần khác như 988, Đường dây nóng về Tự sát và Khủng hoảng ở Hoa Kỳ

  • Giới thiệu bệnh nhân để họ được chăm sóc thích hợp

  • Theo dõi bệnh nhân (thậm chí qua điện thoại) giữa các lần khám

Một số khoảng thời gian nhất định có liên quan đến tăng nguy cơ tự sát. Đặc biệt, khoảng thời gian từ vài ngày đến vài tuần sau khi xuất viện từ khoa cấp cứu hoặc bệnh viện tâm thần đối với bệnh nhân nhập viện vì có ý tưởng tự sát hoặc toan tự sát có nguy cơ cao và do đó là thời điểm can thiệp chính (2).

Ở hầu hết các khu vực pháp lý, bác sĩ lâm sàng thấy trước khả năng tự sát sắp xảy ra ở bệnh nhân phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền để can thiệp. Nếu không làm như vậy có thể dẫn đến hành vi hình sự và dân sự. Những bệnh nhân có nguy cơ không nên được để một mình cho đến khi họ được ở trong một môi trường an toàn (thường là một cơ sở tâm thần). Nếu cần thiết, những bệnh nhân đó nên được vận chuyển đến môi trường an toàn bởi các chuyên gia được đào tạo (ví dụ, kỹ thuật viên y tế cấp cứu, cảnh sát). Các nỗ lực vận động ở Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, New Zealand, Úc và các nơi khác nhằm mục đích cải cách hệ thống ứng phó với khủng hoảng để hướng tới sự phụ thuộc vào một bộ tài nguyên sức khỏe tâm thần đa tầng mạnh mẽ hơn, chẳng hạn như các đơn vị xử lý khủng hoảng di động và chăm sóc khủng hoảng toàn diện và tránh xa sự phụ thuộc vào các phòng cấp cứu và cơ quan thực thi pháp luật.

Bất kỳ hành động tự sát nào, dù là cử chỉ hay cố gắng, đều phải được xem xét nghiêm túc. Những người bị tổn thương nghiêm trọng phải được đánh giá và điều trị các thương tích cơ thể.

Nếu quá liều của một loại thuốc có khả năng gây chết người được xác nhận, các bước ngay lập tức được thực hiện để sử dụng thuốc giải độc và điều trị hỗ trợ (xem Ngộ độc).

Đánh giá ban đầu có thể được thực hiện bởi bất kỳ bác sĩ lâm sàng nào được đào tạo về đánh giá và quản lý hành vi tự sát. Tuy nhiên, tất cả bệnh nhân nên được đánh giá nguy cơ tự sát kỹ lưỡng – việc này thường do bác sĩ tâm thần, nhà tâm lý học hoặc chuyên viên chăm sóc sức khỏe tâm thần được đào tạo khác thực hiện – càng sớm càng tốt. Phải đưa ra quyết định về việc bệnh nhân cần được tự nguyện tiếp nhận hay không tự nguyện cam kết điều trị và liệu có cần kiềm chế hay không (xem thêm Các trường hợp khẩn cấp về hành vi). Bệnh nhân bị rối loạn tâm thần và một số rối loạn trầm cảm trầm trọng và một cuộc khủng hoảng chưa được giải quyết nên được đưa vào một đơn vị tâm thần. Những bệnh nhân có triệu chứng của một rối loạn y khoa lũ lẫn tiềm ẩn (như mê sảng, co giật, sốt) có thể cần phải được đưa vào một đơn vị y tế với các biện pháp phòng ngừa tự sát thích hợp.

Sau một nỗ lực tự sát, bệnh nhân có thể phủ nhận bất kỳ vấn đề nào bởi vì trầm cảm nặng dẫn đến hành động tự sát có thể được theo sau bởi sự tăng cảm xúc trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, nguy cơ tự tử hoàn toàn sau đó là cao trừ khi bệnh nhân được điều trị liên tục và hỗ trợ tâm lý xã hội.

Đánh giá nguy cơ tự tử xác định các động lực chính góp phần vào nguy cơ tự tử hiện tại của cá nhân và giúp bác sĩ lâm sàng lập kế hoạch điều trị thích hợp. Đánh giá bao gồm những điều sau đây:

  • Thiết lập mối quan hệ và lắng nghe tường trình của bệnh nhân

  • Hiểu được nỗ lực tự sát, bối cảnh của hành động, các sự kiện xảy ra trước đó, và hoàn cảnh xảy ra

  • Hỏi về các triệu chứng sức khỏe tâm thần và bất kỳ loại thuốc hoặc phương pháp điều trị thay thế nào mà bệnh nhân có thể đang sử dụng để điều trị tình trạng sức khỏe tâm thần của họ hoặc giảm các triệu chứng

  • Đánh giá đầy đủ trạng thái tinh thần của bệnh nhân, đặc biệt chú trọng vào việc xác định trầm cảm, lo âu, kích động, cơn hoảng sợ, mất ngủ trầm trọng, rối loạn tâm thần khác và rối loạn sử dụng rượu hoặc ma túy (nhiều vấn đề cần được điều trị đặc biệt ngoài việc can thiệp vào khủng hoảng)

  • Hiểu sâu về các mối quan hệ cá nhân và gia đình, vốn thường phù hợp với sự cố gắng tự sát

  • Phỏng vấn thành viên thân thiết trong gia đình và bạn bè

  • Hỏi về sự hiện diện của súng hoặc các phương tiện gây chết người khác trong nhà và tư vấn về các phương tiện gây chết người (điều này có thể liên quan đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc cất giữ an toàn hoặc vứt bỏ các phương tiện gây chết người ra khỏi nhà)

Các bác sĩ lâm sàng có thể sử dụng các công cụ đã được xác nhận như Thang đánh giá mức độ nặng của tự sát Columbia (C-SSRS) hoặc công cụ “Đặt câu hỏi sàng lọc tự sát” (ASQ) do Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia (NIMH) phát triển.

Lập kế hoạch an toàn, bước đầu tiên sau khi đánh giá, là một biện pháp can thiệp thiết yếu được thực hiện để giúp bệnh nhân xác định các tác nhân gây ra kế hoạch tự sát và xây dựng kế hoạch đối phó với ý nghĩ tự sát khi có các tác nhân này (3, 4).

Các bước khác mà bác sĩ lâm sàng nên thực hiện bao gồm cung cấp cho bệnh nhân các nguồn lực xử lý khủng hoảng, tư vấn về cách loại bỏ hoặc lưu trữ các phương tiện gây chết người (5, 6) và giới thiệu dịch vụ chăm sóc giảm thiểu nguy cơ thích hợp (ví dụ: liệu pháp nhận thức-hành vi, liệu pháp hành vi biện chứng, đánh giá hợp tác và quản lý ý định tự sát [CAMS], trị liệu gia đình) (4, 7–10). Các bác sĩ lâm sàng cũng có thể cung cấp cho bệnh nhân sự liên lạc thường xuyên hơn thông qua các lần khám ngoại trú hoặc các hình thức giao tiếp khác nhau, một số trong số đó có thể do các thành viên khác của nhóm chăm sóc sức khỏe cung cấp (11).

Tài liệu tài liệu tham khảo về quản lý

1. National Action Alliance for Suicide Prevention: Transforming Health Systems Initiative Work Group: Recommended standard care for people with suicide risk: Making health care suicide safe. Washington, DC: Education Development Center, Inc. 2018.

2. Chung DT, Ryan CJ, Hadzi-Pavlovic D, et al: Suicide rates after discharge from psychiatric facilities: A systematic review and meta-analysis. JAMA Psychiatry 4(7):694-702, 2017. doi:10.1001/jamapsychiatry.2017.1044

3. Michel K, Valach L, Gysin-Maillart A: A novel therapy for people who attempt suicide and why we need new models of suicide. Int J Environ Res Public Health 14(3): 243, 2017. doi: doi: 10.3390/ijerph14030243

4. Stanley B, Brown GK: Safety planning intervention: A brief intervention to mitigate suicide risk. Cogn Behav Pract 19:256-264, 2011.

5. Barber CW, Miller MJ: Reducing a suicidal person’s access to lethal means of suicide: A research agenda. Am J Prev Med 47(3 Suppl 2):S264-S272. doi: 10.1016/j.amepre.2014.05.028

6. Harvard TH Chan School of Public Health: Lethal Means Counseling. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2023.

7. Linehan MM, Comtois KA, Murray AM, et al: Two-year randomized controlled trial and follow-up of dialectical behavior therapy vs therapy by experts for suicidal behaviors and borderline personality disorder. Arch Gen Psych 63(7):757-766, 2006. doi: 10.1001/archpsyc.63.7.757

8. Brown GK, Ten Have T, Henriques GR, et al: Cognitive therapy for the prevention of suicide attempts: A randomized controlled trial. JAMA 294(5):563-570, 2005. doi: 10.1001/jama.294.5.563

9. Jobes DA: The CAMS approach to suicide risk: Philosophy and clinical procedures. Suicidologi 14(1):1-5, 2019. doi:10.5617/suicidologi.1978

10. Diamond GS, Wintersteen MB, Brown GK, et al: Attachment-based family therapy for adolescents with suicidal ideation: A randomized controlled trial. J Amer Acad Child Adol Psychiatry 49(2):122-131, 2010. doi: 10.1097/00004583-201002000-00006

11. Luxton DD, June JD, Comtois KA: Can postdischarge follow-up contacts prevent suicide and suicidal behavior? A review of the evidence. Crisis 34(1):32-41, 2013. doi: 10.1027/0227-5910/a000158

Phòng ngừa tự sát đòi hỏi phải xác định những đối tượng nguy cơ cao (xem bảng Yếu tố nguy cơ và các dấu hiệu cảnh báo của tự sát) và bắt đầu những can thiệp phù hợp.

Có những chiến lược mà hệ thống y tế có thể sử dụng để giảm tỷ lệ tự sát ở những bệnh nhân có nguy cơ cao nhất. Một khuôn khổ như vậy được gọi là Không tự sát, ủng hộ việc đào tạo phổ cập về sàng lọc tự sát cho tất cả nhân viên hệ thống y tế, sử dụng hồ sơ sức khỏe điện tử để giúp tạo điều kiện chăm sóc bệnh nhân tốt hơn và sử dụng các biện pháp can thiệp (lập kế hoạch an toàn, tư vấn phương tiện gây chết người, mạnh mẽ liên lạc với bệnh nhân và gia đình khi có thể, đồng thời giới thiệu và theo dõi phù hợp).

Những nỗ lực ngăn ngừa tự sát là cực kỳ quan trọng ở cấp khu vực và quốc gia. Những nỗ lực này được bổ sung bằng cách chăm sóc sức khỏe hiệu quả trong việc giảm nguy cơ tự tử. Các can thiệp ở cấp cộng đồng cũng cho thấy kết quả đầy hứa hẹn trong việc giảm nguy cơ tự sát (1). Ngoài ra, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo trên nền tảng truyền thông xã hội đã giúp xác định những cá nhân có nguy cơ cao và đưa ra hỗ trợ kịp thời (2).

Có các can thiệp y tế học đường và y tế công cộng. Một ví dụ là chương trình Phòng chống tự sát của Sources of Strength do các lãnh đạo đồng đẳng ở trường trung học thực hiện (3). Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc đào tạo phù hợp các tình nguyện viên làm nhân viên cứu hộ tự sát sẽ giúp cứu sống nhiều mạng sống (4).

Một ví dụ mạnh mẽ khác về hiệu quả của chương trình phòng chống tự tử có chọn lọc và phổ quát được chứng minh bằng các kết quả liên quan đến các khoản tài trợ của Đạo luật Tưởng niệm Garrett Lee Smith (GLS). Những khoản tài trợ này đã tài trợ cho các hoạt động ngăn ngừa tự sát của thanh thiếu niên ở Hoa Kỳ kể từ năm 2004, trong các trường đại học cũng như trong môi trường cộng đồng và bộ lạc ở nhiều bang. Trong khoảng thời gian 15 năm, một tỷ lệ lớn các quận ở Hoa Kỳ đã nhận được tài trợ tài chính để tham gia vào các sáng kiến ngăn ngừa tự sát ở thanh thiếu niên, bao gồm những sáng kiến sau (5):

  • Thiết lập các chương trình tiếp cận, nâng cao nhận thức và sàng lọc

  • Cung cấp đào tạo “người gác cổng” (tức là giáo dục những người ở các vai trò tiền tuyến chính để nhận ra nguy cơ tự tử và can thiệp cho phù hợp)

  • Phát triển các liên minh (thường bao gồm một số nhóm địa phương, ví dụ: các sở y tế tâm thần hoặc phòng chống tự sát của chính quyền địa phương, các tổ chức phi lợi nhuận tập trung vào phòng chống tự sát, các nhà giáo dục, nhóm phụ huynh, các nhóm dựa trên đức tin, thực thi pháp luật)

  • Thực hiện các chính sách và/hoặc quy trình

  • Thành lập và tài trợ cho đường dây nóng

Bốn mươi phần trăm trợ cấp GLS được trao ở các vùng nông thôn của Hoa Kỳ, nơi tỷ lệ tự tử cao hơn và nơi các nguồn lực cho các chương trình và điều trị lâm sàng có xu hướng ít hơn nhiều so với các khu vực khác. Trong một nghiên cứu về các quận có hoạt động GLS so với các quận đối chứng có xu hướng phù hợp nhưng không tiếp xúc với các chương trình GLS, người ta nhận thấy mức giảm đáng kể về mặt thống kê cả về tác động ngắn hạn và dài hạn đối với hành vi tự sát và tử vong do tự sát (6). Hiệu ứng tích cực lớn nhất ở các vùng nông thôn của Hoa Kỳ.

Một sáng kiến toàn quốc sáng tạo khác ở Hoa Kỳ do Quỹ Phòng chống Tự tử Hoa Kỳ (Dự án 2025) dẫn đầu nhằm mục đích giảm 20% tỷ lệ tự tử ở Hoa Kỳ vào năm 2025.

Trong lĩnh vực lâm sàng, những bệnh nhân nhập viện sau khi toan tự sát có nguy cơ tử vong do tự sát cao nhất trong vài ngày hoặc vài tuần đầu sau khi xuất viện, và nguy cơ vẫn cao trong 6 đến 12 tháng đầu sau khi xuất viện (7). Do đó, trước khi bệnh nhân được xuất viện, họ – cùng với các thành viên trong gia đình và/hoặc bạn bè thân thiết – nên được tư vấn về nguy cơ tử vong ngay lập tức do tự tử, và nên đặt lịch hẹn tái khám trong tuần đầu tiên sau khi xuất viện. Một hoặc hai cuộc gọi điện thoại đơn giản sau khi xuất viện đã được chứng minh là làm giảm đáng kể tỷ lệ tái toan tự sát (8). Ngoài ra, bệnh nhân và người nhà hoặc bạn bè nên được biết tên, liều lượng và tần suất dùng thuốc của bệnh nhân.

Trong những tuần đầu tiên sau khi xuất viện, gia đình và bạn bè nên đảm bảo rằng

  • Không nên để bệnh nhân một mình.

  • Việc tuân thủ phác đồ dùng thuốc theo đơn kê của bệnh nhân được theo dõi.

  • Bệnh nhân được hỏi hàng ngày về trạng thái chung của tâm trí, tâm trạng, thói quen ngủ và năng lượng (ví dụ, thức dậy, mặc quần áo và tương tác với người khác).

Thành viên gia đình hoặc bạn bè của bệnh nhân cần phải đưa bệnh nhân đến các cuộc hẹn tái khám và nên thông báo cho bác sĩ lâm sàng về tiến triển hoặc thiếu tiến triển của bệnh nhân. Những can thiệp này cần được tiếp tục trong vài tháng sau khi xuất viện.

Mặc dù một số vụ toan tự sát hoặc tự sát thành công đều gây ngạc nhiên và sốc, ngay cả với người thân và cộng sự, nhưng những cảnh báo rõ ràng có thể đã được đưa ra cho các thành viên trong gia đình, bạn bè hoặc bác sĩ lâm sàng. Cảnh báo thường rất rõ ràng, như khi bệnh nhân thực sự thảo luận về các kế hoạch hoặc đột nhiên viết hoặc thay đổi di chúc. Tuy nhiên, các cảnh báo có thể tinh tế hơn, như khi bệnh nhân đưa ra ý kiến về việc không có gì đáng sống hoặc chết sẽ tốt hơn. Trong một nghiên cứu, khoảng 83% số người tử vong do tự sát đã được bác sĩ khám trong vài tháng trước khi họ tử vong và khoảng 24% được chẩn đoán về sức khỏe tâm thần trong tháng trước khi họ tử vong (9).

Bởi vì các rối loạn thể chất nặng và đau đớn, rối loạn sử dụng chất kích thích và rối loạn tâm thần (đặc biệt là trầm cảm) làm tăng nguy cơ tự sát, việc nhận ra những yếu tố có thể xảy ra này và bắt đầu điều trị thích hợp là những đóng góp quan trọng mà bác sĩ có thể thực hiện để ngăn ngừa tự sát.

Mỗi bệnh nhân trầm cảm phải được đặt câu hỏi về những suy nghĩ tự sát. Sự sợ hãi rằng sự hỏi như thế có thể làm phát sinh ý tưởng về sự tự hủy hoại bản thân ở bệnh nhân là vô căn cứ. Việc tìm hiểu giúp bác sĩ lâm sàng có được bức tranh rõ ràng hơn về mức độ trầm cảm, khuyến khích thảo luận mang tính xây dựng và truyền đạt nhận thức của bác sĩ lâm sàng về sự thất vọng và tuyệt vọng sâu sắc của bệnh nhân.

Ngay cả những người đe dọa tự sát sắp xảy ra (ví dụ: những người gọi điện và tuyên bố rằng họ sắp uống một liều thuốc gây chết người hoặc đe dọa nhảy từ độ cao) cũng được cho là có mong muốn sống. Bác sĩ lâm sàng hoặc người khác mà họ kêu gọi giúp đỡ phải ủng hộ mong muốn được sống.

Hỗ trợ cấp cứu tâm thần cho người tự sát bao gồm những điều sau đây:

  • Thiết lập mối quan hệ và giao tiếp cởi mở với họ

  • Hỏi về việc điều trị tâm thần hiện tại và trước đây cũng như các loại thuốc hiện đang được sử dụng

  • Giúp giải quyết vấn đề gây ra sự khủng hoảng

  • Cung cấp sự trợ giúp mang tính xây dựng với vấn đề, bao gồm một kế hoạch an toàn được soạn thảo với bệnh nhân

  • Bắt đầu điều trị rối loạn tâm thần cơ bản

  • Chuyển họ đến một nơi thích hợp để chăm sóc theo dõi càng sớm càng tốt

  • Giao những bệnh nhân có nguy cơ thấp cho người thân hoặc một người bạn tận tâm và thấu hiểu chăm sóc

  • Cung cấp cho những bệnh nhân này số 988 để Trò chuyện và nhắn tin trên Lifeline hoặc các liên kết đến các trang web hữu ích (988 Suicide and Crisis LifelineAmerican Foundation for Suicide Prevention)

  • Cung cấp quyền truy cập thông tin về phòng chống tự tử

Tài liệu tham khảo về phòng ngừa

 1. National Action Alliance for Suicide Prevention: Transforming communities: Key elements for the implementation of comprehensive community-based suicide prevention. Washington, DC: Education Development Center, Inc. Truy cập ngày 3 tháng 5

2.McCarthy J F. Cooper SA, Dent KR, et al: Evaluation of the Recovery Engagement and Coordination for Health-Veterans Enhanced Treatment Suicide Risk Modeling Clinical Program in the Veterans Health Administration. JAMA Netw Open 4(10):e2129900, 2021 doi.org/10.1001/jamanetworkopen.2021.29900

3. Wyman PA, Brown CH, LoMurray M, et al: An outcome evaluation of the Sources of Strength suicide prevention program delivered by adolescent peer leaders in high schools. Am J Public Health 100:1653-1661, 2010. doi: 10.2105/AJPH.2009.190025

4. Gould MS, Cross W, Pisani AR, et al: Impact of applied suicide intervention skills training (ASIST) on national suicide prevention lifeline counselor. Suicide Life Threat Behav 43:676-691, 2013. doi: 10.1111/sltb.12049

5. Goldston DB, Walrath CM,  McKeon R, et al: The Garrett Lee Smith memorial suicide prevention program. Suicide Life Threat Behav  40(3):245-256, 2010. doi: 10.1521/suli.2010.40.3.245

6. Garraza LG, Kuiper N, Goldston D, et al: Long-term impact of the Garrett Lee Smith Youth Suicide Prevention Program on youth suicide mortality, 2006–2015. J Child Psychol Psychiatr 60(10):1142-1147, 2019. doi:10.1111/jcpp.13058

7. Chung DT, Ryan CJ, Hadzi-Pavlovic D, et al: Suicide rates after discharge from psychiatric facilities: A systematic review and meta-analysis. JAMA Psychiatry 74(7):694–702, 2017 doi:10.1001/jamapsychiatry.2017.1044

8. Luxton DD, June JD, Comtois KA: Can postdischarge follow-up contacts prevent suicide and suicidal behavior? A review of the evidence. Crisis 34(1): 32-41, 2013 doi: 10.1027/0227-5910/a000158

9. Ahmedani BK, Simon GE, Stewart C, et al: Health Care contacts in the year before suicide death. J Gen Intern Med 29(6): 870-877, 2014 doi 10.1007/s11606-014-2767-3

  • Can thiệp ngắn gọn

Những can thiệp ngắn gọn có hiệu quả trong việc giảm nguy cơ tự sát và được coi là phương pháp thực hành tốt nhất. Những can thiệp này có thể được thực hiện tại cơ sở chăm sóc ban đầu, chăm sóc sức khỏe hành vi ngoại trú và cơ sở chăm sóc bệnh nhân nội trú. Những can thiệp này bao gồm

  • Thực hiện sàng lọc nguy cơ tự sát

  • Thực hiện đánh giá nguy cơ tự sát

  • Thực hiện can thiệp lập kế hoạch an toàn

  • Cung cấp tư vấn an toàn về phương tiện gây chết người

  • Cung cấp các cuộc gọi điện thoại, tin nhắn hoặc tin nhắn hỗ trợ tiếp theo (đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ tự sát ở những bệnh nhân có nguy cơ)

  • Cung cấp giáo dục cho bệnh nhân và gia đình khi có thể

  • Cung cấp nguồn lực khủng hoảng

Phương pháp điều trị làm giảm nguy cơ tự sát bao gồm một số loại liệu pháp tâm lý:

  • Liệu pháp nhận thức hành vi để ngăn ngừa tự sát

  • Liệu pháp hành vi biện chứng

  • Một số loại trị liệu gia đình

  • Đánh giá hợp tác và kiểm soát tự sát

Trong liệu pháp nhận thức-hành vi để ngăn ngừa tự sát, hành vi tự sát được xem như một hành vi đối phó có vấn đề và là vấn đề và mục tiêu chính của điều trị, hơn là một triệu chứng của rối loạn. Điều trị tập trung vào việc ngăn ngừa các cơn khủng hoảng tự sát trong tương lai. Thay đổi cá nhân nhằm mục đích xảy ra bằng cách giúp mọi người sửa đổi phản ứng của họ đối với những suy nghĩ tự động của họ và bằng cách hủy liên kết các kiểu suy nghĩ-hành vi-tâm trạng tiêu cực.

Liệu pháp hành vi biện chứng tập trung vào việc tăng khả năng chịu đựng đau khổ, xác định và cố gắng thay đổi lối suy nghĩ tiêu cực và thúc đẩy những thay đổi tích cực. Nó nhằm mục đích giúp bệnh nhân tìm ra những cách ứng phó mang tính xây dựng hơn với căng thẳng (ví dụ: chống lại sự thôi thúc hành xử tự hủy hoại).

Một số loại liệu pháp gia đình đã được phát triển để đặc biệt làm giảm hành vi tự sát và giúp các gia đình hỗ trợ người thân của họ. Ví dụ: Chương trình SAFETY là một biện pháp can thiệp về nhận thức-hành vi dành cho gia đình được thiết kế để tăng cường sự an toàn và giảm hành vi tự sát (1). Liệu pháp gia đình dựa trên sự gắn bó cũng cho thấy sự hứa hẹn như một biện pháp can thiệp dành cho thanh thiếu niên có ý định tự sát và cha mẹ của họ (2).

Trong quá trình hợp tác đánh giá và kiểm soát hành vi tự sát (hay CAMS), nguy cơ hành động theo ý nghĩ tự sát của một người sẽ giảm đi bằng cách cải thiện sự hiểu biết của họ về các động cơ thúc đẩy hành động tự sát, các vấn đề về mối quan hệ và cách giải quyết vấn đề. Người có ý tưởng và/hoặc hành vi tự sát hợp tác với bác sĩ lâm sàng để cùng phát triển và theo dõi kế hoạch sống sót và nâng cao động lực sống của họ.

(Xem trang web của American Foundation for Suicide Prevention (Tổ chức Phòng chống Tự tử Hoa Kỳ) để biết thảo luận đầy đủ về các biện pháp can thiệp phòng ngừa và các lựa chọn điều trị.)

Thay đổi trong cách tiếp cận lâm sàng nhằm giải quyết nguy cơ tự sát là khuyến nghị không chỉ tập trung vào tình trạng tâm thần nguyên phát của bệnh nhân mà còn xem nguy cơ tự sát là trọng tâm lâm sàng của chính nó (3). Những người bị trầm cảm và các tình trạng sức khỏe tâm thần khác có nguy cơ tự sát đáng kể và cần được theo dõi cẩn thận về các hành vi và ý nghĩ tự sát. Nguy cơ tự sát có thể sớm tăng lên trong khi điều trị trầm cảm, trong khi sự chậm chạp về tâm thần và sự thiếu quyết đoán đã được cải thiện nhưng cảm xúc chán nản chỉ được nâng lên một phần. Khi bắt đầu dùng thuốc chống trầm cảm hoặc khi tăng liều, một số bệnh nhân bị kích động, lo lắng và trầm cảm ngày càng tăng, điều này có thể làm tăng khả năng có ý định tự tử và thậm chí, trong một số trường hợp hiếm gặp, có hành vi tự sát.

Cảnh báo sức khỏe cộng đồng về mối liên quan có thể có giữa việc sử dụng thuốc chống trầm cảm với ý nghĩ và nỗ lực tự sát ở trẻ em, thanh thiếu niên và thanh niên đã dẫn đến việc giảm đáng kể (> 30%) số đơn thuốc chống trầm cảm cho những nhóm đối tượng này. Tuy nhiên, tỷ lệ tự sát của thanh niên tăng 14% trong cùng một giai đoạn. Do đó, bằng cách không khuyến khích điều trị trầm cảm bằng thuốc, những cảnh báo này có thể đã tạm thời dẫn đến tử vong do tự sát nhiều hơn, mà không phải là ít hơn. Những phát hiện này đều cho thấy phương pháp tốt nhất là khuyến khích điều trị, nhưng với sự cẩn thận thích hợp như

  • Kê đơn thuốc chống trầm cảm với liều lượng không gây độc

  • Ưu tiên sử dụng thuốc chống trầm cảm mà không gây chết người nếu dùng quá liều

  • Các lần khám và theo dõi thường xuyên hơn trong thời gian điều trị

  • Đưa ra cảnh báo rõ ràng cho bệnh nhân và các thành viên trong gia đình và những người quan trọng khác để cảnh giác với các triệu chứng như kích động, mất ngủ hoặc ý định tự tử

  • Hướng dẫn bệnh nhân, thành viên trong gia đình, và những người quan trọng khác gọi ngay bác sĩ kê đơn hoặc tìm kiếm sự chăm sóc gần đó nếu triệu chứng tồi tệ hơn hoặc có ý tưởng tự sát xuất hiện

Bằng chứng từ các thử nghiệm phân nhóm ngẫu nhiên đã chỉ ra rằng lithium, khi dùng đơn độc hoặc dưới dạng liệu pháp bổ trợ với thuốc chống trầm cảm hoặc thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai (còn được gọi là thuốc chống loạn thần không điển hình), làm giảm số ca tử vong do tự sát ở bệnh nhân trầm cảm nặng hoặc rối loạn lưỡng cực (4). Esketamine dạng xịt mũi có thể được sử dụng kết hợp với thuốc chống trầm cảm đường uống cho người lớn bị trầm cảm nặng đơn cực bao gồm ý tưởng hoặc hành vi tự sát cấp tính. Clozapine làm giảm nguy cơ tự sát ở bệnh nhân tâm thần phân liệt.

Có nhiều phương pháp điều trị đang được nghiên cứu đối với bệnh nhân trầm cảm muốn tự sát, bao gồm các biện pháp can thiệp tâm lý và can thiệp y tế bằng buprenorphine (một loại thuốc dùng để điều trị cai rượu và opioid).

Liệu pháp sốc điện (ECT) vẫn còn hiệu quả để điều trị trầm cảm nặng và trầm cảm tự sát. ECT và kích thích từ xuyên sọ (rTMS) đã được phê duyệt để điều trị trầm cảm kháng trị và có thể được xem xét cho những bệnh nhân bị trầm cảm khó điều trị, trầm cảm loạn thần hoặc rối loạn lưỡng cực. Cả hai hình thức điều trị này cũng có thể hiệu quả trong việc giảm nguy cơ tự sát (5, 6).

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Asarnow JR, Berk M, Hughes JL, et al: The SAFETY Program: A treatment-development trial of a cognitive-behavioral family treatment for adolescent suicide attempters. J Clin Child Adolesc Psychol44(1):194-203, 2015. doi: 10.1080/15374416.2014.94062

2. Krauthamer Ewing ES, Diamond G, Levy S: Attachment-based family therapy for depressed and suicidal adolescents: Theory, clinical model and empirical support. Attach Hum Dev 17(2):136-156, 2015. doi: 10.1080/14616734.2015.1006384

3. Moutier C, Pisani A, Stahl S: Stahl’s Handbooks: Suicide Prevention. Cambridge University Press, 2021

4. Cipriani A , Hawton K, Stockton A, et al: Lithium in the prevention of suicide in mood disorders: Updated systematic review and meta-analysis. BMJ 346:f3646, 2013. doi: 10.1136/bmj.f3646

5. Kellner CH, Fink M, Knapp R, et al: Relief of expressed suicidal intent by ECT: A consortium for research in ECT study. Am J Psychiatry 162(5):977-982, 2005. doi: 10.1176/appi.ajp.162.5.977 doi:10.1176/appi.ajp.162.5.977

6. George MS, Raman R, Benedek DM, et al: A two-site pilot randomized 3 day trial of high dose left prefrontal repetitive transcranial magnetic stimulation (rTMS) for suicidal inpatients. Brain Stimul 7(3):421-431, 2014. doi: 10.1016/j.brs.2014.03.006

Bất kỳ hành động tự sát nào đều có ảnh hưởng rõ rệt lên cảm xúc đối với tất cả những người có liên quan. Mất người vì tự tử là một kiểu mất mát đặc biệt đau đớn và phức tạp. Đau buồn liên quan đến tự tử khác với các loại mất mát khác vì những câu hỏi chưa được giải đáp xung quanh lý do tại sao một người nào đó chết do tự tử và bởi vì nhiều người có kiến thức hạn chế về tự tử. Trong nỗ lực tìm hiểu sự kiện gây sốc và không thể giải thích được, mọi người thường xuyên tiến hành tìm kiếm thông tin ráo riết và tạo ra một loạt giả thuyết về lý do tại sao vụ tự sát lại xảy ra. Điều này có thể dẫn đến cảm giác tội lỗi, đổ lỗi và giận dữ nhắm vào bản thân và những người khác vì đã không ngăn chặn việc tự tử, và cũng tức giận với người thân đã chết. Phần tự nhiên của nỗi đau tự tử này thường cực kỳ dữ dội trong vài tháng đầu và thường giảm bớt cường độ trong năm thứ hai trở đi.

Nhiều cá nhân bị ảnh hưởng bởi mỗi cái chết do tự sát, bao gồm các thành viên trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và những người khác (1). Một phân tích tổng hợp quốc tế về các nghiên cứu mất tích do tự tử dựa trên dân số cho thấy 4,3% số thành viên cộng đồng đã từng tự tử của người khác trong năm qua và 21,8% trong suốt cuộc đời của họ. Ở Hoa Kỳ, tỷ lệ ảnh hưởng thậm chí còn cao hơn (2). Từ một mẫu quốc gia gồm 1432 người trưởng thành, 51% đã từng có nguy cơ tự tử và 35% đáp ứng các tiêu chuẩn về mất mát người thân do tự sát (được định nghĩa là trải qua đau khổ tinh thần từ mức độ trung bình đến nghiêm trọng liên quan đến mất mát do tự sát) tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời của họ (3).

Bác sĩ có thể cung cấp hỗ trợ có giá trị cho những bệnh nhân đang tự tử.

Đối với các bác sĩ lâm sàng để mất một bệnh nhân do tự tử, trải nghiệm có thể đau buồn hơn nhiều so với những trường hợp tử vong liên quan đến lâm sàng khác. Nó thường giống với trải nghiệm đau buồn và đau buồn sâu sắc về cái chết của một thành viên trong gia đình bác sĩ lâm sàng hơn là sự mất mát một bệnh nhân. Trong một nghiên cứu, một nửa số bác sĩ tâm thần mất bệnh nhân do tự tử có điểm về Tác động của thang đo sự kiện tương đương với điểm của một dân số lâm sàng đã trải qua cái chết của cha mẹ (4). Trải nghiệm mất mát đối với các chuyên viên y tế thường có những hậu quả cả về mặt cá nhân và nghề nghiệp, có thể bao gồm nỗi thống khổ, cảm giác tội lỗi, nghi ngờ bản thân, đau buồn phức tạp và thậm chí cả ý nghĩ rời bỏ nghề nghiệp. Có các nguồn lực sẵn có dành cho các bác sĩ lâm sàng để được hỗ trợ thông qua một số tổ chức (Tổ chức Phòng chống Tự sát Hoa Kỳ, Hiệp hội Nghiên cứu Tự sát Hoa Kỳ, Quỹ Jed; Trung tâm Nguồn lực Phòng chống Tự tử [5]), và các chương trình giảng dạy cũng có sẵn để dạy các học viên và chuẩn bị cho họ trải nghiệm về các hành vi tự sát mất một bệnh nhân do tự sát (6).

Tài liệu tham khảo về ảnh hưởng của tự sát

1. Berman AL: Estimating the population of survivors of suicide: Seeking an evidence base. Suicide Life Threat Behav 41(1):110-116, 2011. doi:10.1111/j.1943-278X.2010.00009.x

2. Andriessen K, Rahman B, Draper B, et al: Prevalence of exposure to suicide: A meta-analysis of population-based studies. J Psychiatr Res 88:113-120, 2017 doi: 10.1016/j.jpsychires.2017.01.017

3. Feigelman W, Cerel J, McIntosh JL, et al : Suicide exposures and bereavement among American adults: Evidence from the 2016 General Social Survey. J Affect Disord 227:1-6, 2018. doi: 10.1016/j.jad.2017.09.056

4. Hendin H, Lipschitz A, Maltsberger JT, et al: Therapists’ reactions to patients’ suicides. Am J Psychiatry 157(12):2022-2027, 2000. doi: 10.1176/appi.ajp.157.12.2022

5. Sung JC: Sample agency practices for responding to client suicide. Forefront: Innovations in Suicide Prevention. 2016. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2023.

6. Lerner U, Brooks K, McNeil DE, et al: Coping with a patient’s suicide: A curriculum for psychiatry residency training programs. Acad Psychiatry, 36(1):29-33. 2012. doi: 10.1176/appi.ap.10010006

Trợ giúp của bác sĩ về cái chết (trước đây là trợ giúp tự sát) đề cập đến sự trợ giúp của bác sĩ đối với những người muốn chấm dứt cuộc đời của họ. Nó còn gây tranh cãi nhưng hợp pháp ở hơn chục bang của Mỹ và đang được xem xét ở các bang khác. Tất cả các tiểu bang nơi hỗ trợ bác sĩ khi hấp hối là hợp pháp đều có hướng dẫn cho bệnh nhân và bác sĩ tham gia, chẳng hạn như các yêu cầu về khả năng điều kiện và báo cáo (ví dụ, bệnh nhân phải có đủ năng lực tâm thần và mắc bệnh giai đoạn cuối với tuổi thọ < 6 tháng). Phương pháp chết êm ái tự nguyện và/hoặc trợ tử là hợp pháp ở Hà Lan, Bỉ, Colombia, Luxembourg, Tây Ban Nha, New Zealand, Úc, Thụy Sĩ, Đức và Canada.

Sự tự sát được trợ giúp bởi bác sĩ (hoặc hỗ trợ chết) liên quan đến việc đưa ra các phương thức gây tử vong cho bệnh nhân được sử dụng vào thời điểm bệnh nhân tự lựa chọn. Trong tình trạng chết không đau đớn tự nguyện, bác sĩ đóng một vai trò tích cực trong việc thực hiện yêu cầu của bệnh nhân; điều đó thường liên quan đến việc dùng theo đường tĩnh mạch một chất gây chết người.).

Mặc dù có rất ít sự sẵn có về trợ giúp cái chết của bác sĩ, những bệnh nhân có các tình trạng đau đớn, suy nhược và không điều trị được có thể bắt đầu thảo luận với bác sĩ.

Trợ giúp của bác sĩ về cái chết có thể gây ra những vấn đề đạo đức khó khăn cho các bác sĩ.

Sau đây là các tài nguyên tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của các tài nguyên này.

American Association of Suicidology: Là nhà phát triển và cung cấp các chương trình đào tạo chuyên nghiệp cho các nhà cung cấp sức khỏe tâm thần và thể chất, những người có thể gặp phải các cá nhân tự tử, Hiệp hội Tự tử Hoa Kỳ cung cấp các cơ hội công nhận và đào tạo cho các tổ chức và cá nhân. Tổ chức này cũng cung cấp hỗ trợ cho các bác sĩ lâm sàng có bệnh nhân tử vong do tự tử.

American Foundation for Suicide Prevention: Trao quyền cho những người bị ảnh hưởng bởi tự tử bằng cách tài trợ cho nghiên cứu, giáo dục công chúng về các vấn đề sức khỏe tâm thần và phòng ngừa tự tử, hỗ trợ những người sống sót sau vụ tự tử và những người đã mất người thân do tự tử, và ủng hộ các chính sách y tế công cộng có liên quan.

International Association for Suicide Prevention : Các ấn phẩm, hoạt động và tài nguyên dành cho học giả, chuyên gia sức khỏe tâm thần, nhân viên khủng hoảng, tình nguyện viên và những người sống sót sau vụ tự sát.

Jed Foundation: Quỹ Jed hợp tác với các trường trung học và cao đẳng để tăng cường sức khỏe tâm thần của thanh thiếu niên và thanh niên và do đó ngăn ngừa tự sát. Tổ chức này cũng cung cấp hỗ trợ cho các bác sĩ lâm sàng có bệnh nhân tử vong do tự tử.

988 the Suicide & Crisis Lifeline: Hỗ trợ 24/7 cho những người gặp nạn. Nội dung có sẵn ở nhiều định dạng khác nhau qua văn bản, điện thoại và trò chuyện dành cho các nhóm dân cư đặc biệt (ví dụ: dành cho cựu chiến binh, người điếc và khiếm thính, nhóm LGBTQ) và bằng tiếng Tây Ban Nha.

Preventing Suicide: A technical package of policy, programs, and practices: Do Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Thương tích Quốc gia ban hành, tài nguyên này là tập hợp các phương pháp hay nhất để giúp cộng đồng và các bang trau dồi các hoạt động ngăn ngừa tự tử bằng cách tập trung vào các biện pháp can thiệp ở nhiều cấp độ: cấp độ cá nhân, mối quan hệ của họ, cộng đồng và xã hội nói chung.

Tự gây thương tích cho bản thân là hành vi tự gây ra đau đớn hoặc tổn thương bề ngoài nhưng không nhằm mục đích gây ra cái chết.

Mặc dù các phương thức đôi khi được sử dụng chồng chéo với toan tự sát (ví dụ, cắt cổ tay bằng dao cạo hoặc lưỡi dao), tự gây thương tích không tự sát khác biệt với tự sát vì bệnh nhân không có ý định để tìm kiếm cái chết. Bệnh nhân có thể cho thấy cụ thể sự thiếu ý định, hoặc sự không có ý định có thể được suy ra bởi việc sử dụng lặp lại các phương thức rõ ràng không gây tử vong. Mặc dù không có ý định gây chết ngay lập tức, nhưng nguy cơ lâu dài về toan tự sát và tự sát thành công sẽ tăng lên, và do đó, tự gây tổn thương không tự sát không nên được xem nhẹ.

Các ví dụ phổ biến nhất về sự tự gây tổn thương bao gồm

  • Cắt hoặc đâm vào da bằng một vật sắc nhọn (ví dụ như dao, dao cạo, kim)

  • Đốt da (thường với thuốc lá)

Bệnh nhân thường tự làm mình bị thương nhiều lần trong một buổi duy nhất, tạo ra nhiều vết thương ở cùng một vị trí, điển hình là ở những vùng dễ bị che khuất nhưng có thể tiếp cận được (ví dụ như cẳng tay, mặt trước của đùi). Hành vi này thường được lặp lại, tạo ra những vết sẹo rộng. Bệnh nhân thường bận tâm suy nghĩ về các hành vi gây hại.

Tự gây thương tích không tự sát có xu hướng bắt đầu ở tuổi thiếu niên (1). Tỷ lệ từ các nghiên cứu dân số nói chung là tương tự nhau giữa nam và nữ. Tiền sử thường không rõ ràng, nhưng hành vi này dường như giảm sau khi trưởng thành. Tỷ lệ mắc cũng cao trong quần thể tội phạm, có xu hướng chủ yếu là nam giới.

Động lực cho việc tự gây tổn thương là không rõ ràng, nhưng sự tự gây tổn thương có thể

  • Là một cách để giảm bớt căng thẳng hoặc những cảm xúc tiêu cực

  • Là một cách để giải quyết những khó khăn giữa các cá nhân

  • Là một cách tự trừng phạt vì những nhận thức về tội lội

  • Sự cầu xin giúp đỡ

Một số bệnh nhân xem việc tự gây tổn thương là một hành vi tích cực và do đó thường không tìm kiếm hoặc chấp nhận tư vấn.

Sự tự gây tổn thương không tự sát thường đi kèm với các rối loạn khác, đặc biệt rối loạn nhân cách ranh giới, tự kỉ ám thịrối loạn nhân cách chống đối xã hộirối loạn ăn uốngrượu và rối loạn sử dụng chất gây nghiện.

Tài liệu tham khảo chung

1. Klonsky ED, Victor SE, Saffer BY: Nonsuicidal self-injury: What we know, and what we need to know. Can J Psych 59(11):565-568, 2014. doi: 10.1177/070674371405901101

  • Loại trừ hành vi tự sát

  • Đánh giá tự gây tổn thương

Chẩn đoán sự tự gây tổn thương phải loại trừ hành vi tự sát.

Đánh giá sự tự gây tổn thương, cũng như đối với hành vi tự sát, là điều cần thiết trước khi bắt đầu điều trị.

Việc thảo luận về việc tự gây thương tích với bệnh nhân là cần thiết để đánh giá đầy đủ và giúp bác sĩ lên kế hoạch điều trị. Các bác sĩ có thể tạo điều kiện thảo luận bằng cách như sau:

  • Xác nhận trải nghiệm của bệnh nhân bằng cách thông báo rằng họ đã được nghe về bệnh nhân và biết được những trải nghiệm của bệnh nhân một cách nghiêm túc

  • Hiểu được cảm xúc của bệnh nhân (ví dụ, xác nhận rằng cảm xúc và hành động của bệnh nhân là có thể hiểu được trong bối cảnh của bệnh nhân)

Việc đánh giá sự tự gây tổn thương bao gồm những điều sau:

  • Xác định loại tự gây thương tổn và số lượng các loại thương tổn mà bệnh nhân đã gây ra

  • Xác định mức độ thường xuyên của hành vi tự gây tổn thương và xảy ra trong thời gian bao lâu

  • Xác định chức năng của hành vi tự gây tổn thương đối với bệnh nhân

  • Kiểm tra các rối loạn tâm thần đồng diễn

  • Ước tính nguy cơ tự sát

  • Xác định mức độ sẵn sàng mà bệnh nhân tham gia điều trị

  • Một số hình thức trị liệu tâm lý (ví dụ: liệu pháp hành vi nhận thức, liệu pháp hành vi biện chứng, liệu pháp nhóm điều chỉnh cảm xúc)

  • Điều trị những rối loạn đồng diễn

Liệu pháp hành vi nhận thức thường được thực hiện dưới dạng trị liệu ngoại trú, cá nhân, nhưng nó cũng có thể được thực hiện theo nhóm trong môi trường nội trú. Cải thiện xảy ra bằng cách giúp một người thay đổi cách họ phản ứng với những suy nghĩ tự động của họ và hủy liên kết các kiểu suy nghĩ-hành vi-tâm trạng tiêu cực.

Trị liệu hành vi biện chứng bao gồm trị liệu cá nhân và nhóm trong ít nhất 1 năm. Phương pháp này tập trung vào việc xác định và cố gắng thay đổi các mẫu suy nghĩ tiêu cực và thúc đẩy những thay đổi tích cực. Nó nhằm mục đích giúp bệnh nhân tìm ra những phương pháp phù hợp hơn để ứng phó với căng thẳng (ví dụ, để chống lại sự thôi thúc thực hiện hành vi tự hủy hoại).

Liệu pháp nhóm điều chỉnh cảm xúc được thực hiện trong môi trường nhóm kéo dài 14 tuần. Liệu pháp này liên quan đến việc giảng dạy bệnh nhân làm thế nào để nâng cao nhận thức về cảm xúc của họ và cung cấp cho họ những kỹ năng để đối phó với cảm xúc của họ. Liệu pháp nhóm điều chỉnh cảm xúc giúp bệnh nhân chấp nhận những cảm xúc tiêu cực như một phần của cuộc sống và do đó không phản ứng lại những cảm xúc đó quá mãnh liệt và bốc đồng.

Không có loại thuốc nào được phê duyệt để điều trị hành vi tự làm bản thân bị thương không tự sát. Tuy nhiên, naltrexone và một số thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai có hiệu quả ở một số bệnh nhân (1).

Các rối loạn tâm thần kèm theo (ví dụ: trầm cảmrối loạn ăn uốngrối loạn sử dụng chất kích thíchrối loạn nhân cách ranh giới, rối loạn lưỡng cực) cần được điều trị thích hợp. Bệnh nhân cần phải được giới thiệu đến một bác sĩ lâm sàng thích hợp khi cần thiết.

Các buổi hẹn tiếp theo nên được lên kế hoạch.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Turner BJ, Austin SB, Chapman AL: Treating nonsuicidal self-injury: a systematic review of psychological and pharmacological interventions. Can J Psychiatry. 2014 Nov;59(11):576-85. doi: 10.1177/070674371405901103

Tài nguyên bằng tiếng Anh sau đây có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.

Self-Injury & Recovery Resources (SIRR): Trang web này được Đại học Cornell ra mắt vào năm 2003 để giải quyết hiện tượng tự gây thương tổn đang nổi lên ở thanh thiếu niên và thanh niên và cuối cùng đã tạo ra một loạt tài nguyên để giáo dục người dân và các chuyên gia về tự làm bản thân bị thương không tự sát (NSS), cũng như đánh giá và công cụ phục hồi để hỗ trợ điều trị NSSI.

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)

Rối loạn chất gây nghiện

Rối loạn liên quan đến sử dụng chất kích thích liên quan đến các loại chất hoạt hóa trực tiếp vào hệ thống tưởng thưởng của bộ não. Việc kích hoạt hệ thống phần thưởng thường gây ra cảm giác thích thú; các đặc điểm cụ thể của những cảm giác sung sướng được gợi lên rất khác nhau tùy thuộc vào loại thuốc phiện. Các loại chất này được chia thành 10 loại khác nhau và có các cơ chế dược lý khác nhau, mặc dù không hoàn toàn khác biệt. Các loại chất bao gồm

  • Rượu

  • Caffeine

  • Cần sa và dạng cần sa tổng hợp

  • Chất gây ảo giác (ví dụ: LSD, phencyclidine, psilocybin, 3,4-metyl enedioxy methamphetamine [MDMA])

  • Chất hít (hydrocacbon dễ bay hơi [ví dụ, sơn mỏng, một vài loại keo])

  • Opioid (ví dụ, fentanyl, morphin, oxycodon)

  • Thuốc gây an dịu, thuốc ngủ, và thuốc giải lo âu (ví dụ lorazepam, secobarbital)

  • Chất kích thần (ví dụ, amphetamincocain)

  • Thuốc lá

  • Khác (ví dụ, các steroid đồng hóa)

Việc phân loại này không dựa trên việc liệu một chất có hợp pháp (ví dụ, rượu, caffein), bất hợp pháp (ví dụ, chất gây ảo giác) hoặc có sẵn được kê đơn trên thị trường (ví dụ, morphin, lorazepam). Các chi tiết cụ thể liên quan đến các chất này và các tác dụng của chúng được thảo luận ở những nơi khác trong CẨM NANG.

Thuật ngữ “ma túy” là thuật ngữ pháp luật và là thuật ngữ đời thường. Ban đầu, nó đề cập đến các loại chất gây ra trạng thái mơ màng (vô hồn hoặc sững sờ), đặc biệt là thuốc opioid (ví dụ, thuốc phiện, các dẫn xuất của thuốc phiện). Tuy nhiên, thuật ngữ này hiện được sử dụng không thống nhất (ví dụ, chính phủ Hoa Kỳ đã phân loại loại thuốc kích thần cocain như một loại ma tuý) là thuật ngữ có ít ý nghĩa khoa học hoặc y học.

Việc sử dụng và ngừng sử dụng các chất kích thích có thể gây ra những thay đổi về tâm lý, hành vi và sinh lý, tức là say và cai nghiện. Lạm dụng chất gây nghiện cũng có thể dẫn đến rối loạn tâm thần (ví dụ: trầm cảmrối loạn tâm thầnlo lắng hoặc rối loạn nhận thức thần kinh).

Rối loạn sử dụng chất có liên quan đến mô hình hành vi bệnh lý, trong đó bệnh nhân tiếp tục sử dụng chất bất chấp những vấn đề đáng kể liên quan đến việc sử dụng chất đó. Có thể có biểu hiện sinh lý, bao gồm cả sự thay đổi trong hệ thống dẫn truyền của não bộ. Các thuật ngữ phổ biến “nghiện”, “lạm dụng” và “phụ thuộc” rất không chắc chắn và dễ thay đổi để được xác định là rất hữu ích trong chẩn đoán một cách có hệ thống; “rối loạn sử dụng chất” là toàn diện hơn và có ít ý nghĩa tiêu cực hơn.

Các loại ma túy theo 10 nhóm khác nhau về khả năng gây rối loạn sử dụng chất gây nghiện. Khả năng được gọi là có khả năng bị nghiện và phụ thuộc vào sự kết hợp của các yếu tố bao gồm

  • Đường sử dụng

  • Tốc độ mà loại chất đó vượt qua hàng rào máu-não và kích hoạt con đường tưởng thưởng

  • Thời gian để khởi phát tác dụng

  • Khả năng gây dung nạp và/hoặc các triệu chứng cai nghiện

Các chất trong danh mục

Tại Hoa Kỳ, Đạo luật Kiểm soát và Ngăn ngừa Lạm dụng Thuốc Toàn diện năm 1970 và các sửa đổi tiếp theo yêu cầu ngành dược phẩm duy trì an ninh vật lý và lưu giữ hồ sơ nghiêm ngặt đối với một số loại thuốc nhất định (các chất kích thích được kiểm soát – xem bảng Một số ví dụ về các chất kích thích được kiểm soát). Các chất được kiểm soát được chia thành 5 mục (hoặc nhóm) dựa trên khả năng gây lạm dụng, được chấp nhận sử dụng trong y tế và sự an toàn được chấp nhận dưới sự giám sát y tế. Bảng phân loại xác định cách một chất được kiểm soát.

  • Mục I: Những chất này có khả năng gây nghiện cao, không được công nhận sử dụng trong y tế, và thiếu sự an toàn được chấp nhận. Chúng chỉ có thể được sử dụng với sự chấp thuận của chỉnh phủ trong trường hợp nghiên cứu.

  • Mục từ II đến IV: Những loại thuốc này dần dần ít tác dụng gây nghiện hơn (theo lịch trình II đến IV). Chúng được công nhận sử dụng trong y tế. Các đơn thuốc cho những chất này phải có số giấy phép của Cục Quản Lý Dược Phẩm Liên Bang (DEA) dành cho bác sĩ.

  • Mục V: Các chất này có khả năng gây nghiện ít nhất. Một số thuốc theo Mục V không yêu cầu phải kê đơn.

Các danh mục của bang có thể thay đổi dựa theo lịch danh mục của liên bang.

Một số ví dụ về các chất kích thích bị kiểm soát

Lịch trình

Ví dụ

I*

Cathinon (khat) và methcathinon, GHB, heroin (và một số opioid khác), LSD, MDMA, psilocybin, cần sa và dạng cần sa tổng hợp

II

Amphetamin, các barbiturat (tác dụng ngắn), cocain, hydrozapod (bao gồm cả các sản phẩm kết hợp hydrocodon), hydromorphon, methadon, methylphenidat, morphin và các chất chủ vận opioid mạnh khác, oxycodon, phencyclidin

III

Steroid đồng hoá, barbiturat (tác dụng trung gian), buprenorphin, dihydrocodein, dronabinol, ketamin, paregoric

IV

Barbiturat (tác dụng kéo dài), benzodiazepin, chloral hydrat, modafinil, meprobamat, pentazocin, propoxyphen, zolpidem

V

Thuốc giảm ho có chứa một lượng nhỏ codein, pregabalin

* Không được kê đơn.

GHB = gamma hydroxybutyrat; LSD = axit lysergic dietylamid; MDMA = methylenedioxymethamphetamin.

  • Loại trừ hành vi tự sát

  • Đánh giá tự gây tổn thương

Chẩn đoán sự tự gây tổn thương phải loại trừ hành vi tự sát.

Đánh giá sự tự gây tổn thương, cũng như đối với hành vi tự sát, là điều cần thiết trước khi bắt đầu điều trị.

Việc thảo luận về việc tự gây thương tích với bệnh nhân là cần thiết để đánh giá đầy đủ và giúp bác sĩ lên kế hoạch điều trị. Các bác sĩ có thể tạo điều kiện thảo luận bằng cách như sau:

  • Xác nhận trải nghiệm của bệnh nhân bằng cách thông báo rằng họ đã được nghe về bệnh nhân và biết được những trải nghiệm của bệnh nhân một cách nghiêm túc

  • Hiểu được cảm xúc của bệnh nhân (ví dụ, xác nhận rằng cảm xúc và hành động của bệnh nhân là có thể hiểu được trong bối cảnh của bệnh nhân)

Việc đánh giá sự tự gây tổn thương bao gồm những điều sau:

  • Xác định loại tự gây thương tổn và số lượng các loại thương tổn mà bệnh nhân đã gây ra

  • Xác định mức độ thường xuyên của hành vi tự gây tổn thương và xảy ra trong thời gian bao lâu

  • Xác định chức năng của hành vi tự gây tổn thương đối với bệnh nhân

  • Kiểm tra các rối loạn tâm thần đồng diễn

  • Ước tính nguy cơ tự sát

  • Xác định mức độ sẵn sàng mà bệnh nhân tham gia điều trị

  • Một số hình thức trị liệu tâm lý (ví dụ: liệu pháp hành vi nhận thức, liệu pháp hành vi biện chứng, liệu pháp nhóm điều chỉnh cảm xúc)

  • Điều trị những rối loạn đồng diễn

Liệu pháp hành vi nhận thức thường được thực hiện dưới dạng trị liệu ngoại trú, cá nhân, nhưng nó cũng có thể được thực hiện theo nhóm trong môi trường nội trú. Cải thiện xảy ra bằng cách giúp một người thay đổi cách họ phản ứng với những suy nghĩ tự động của họ và hủy liên kết các kiểu suy nghĩ-hành vi-tâm trạng tiêu cực.

Trị liệu hành vi biện chứng bao gồm trị liệu cá nhân và nhóm trong ít nhất 1 năm. Phương pháp này tập trung vào việc xác định và cố gắng thay đổi các mẫu suy nghĩ tiêu cực và thúc đẩy những thay đổi tích cực. Nó nhằm mục đích giúp bệnh nhân tìm ra những phương pháp phù hợp hơn để ứng phó với căng thẳng (ví dụ, để chống lại sự thôi thúc thực hiện hành vi tự hủy hoại).

Liệu pháp nhóm điều chỉnh cảm xúc được thực hiện trong môi trường nhóm kéo dài 14 tuần. Liệu pháp này liên quan đến việc giảng dạy bệnh nhân làm thế nào để nâng cao nhận thức về cảm xúc của họ và cung cấp cho họ những kỹ năng để đối phó với cảm xúc của họ. Liệu pháp nhóm điều chỉnh cảm xúc giúp bệnh nhân chấp nhận những cảm xúc tiêu cực như một phần của cuộc sống và do đó không phản ứng lại những cảm xúc đó quá mãnh liệt và bốc đồng.

Không có loại thuốc nào được phê duyệt để điều trị hành vi tự làm bản thân bị thương không tự sát. Tuy nhiên, naltrexone và một số thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai có hiệu quả ở một số bệnh nhân (1).

Các rối loạn tâm thần kèm theo (ví dụ: trầm cảmrối loạn ăn uốngrối loạn sử dụng chất kích thíchrối loạn nhân cách ranh giới, rối loạn lưỡng cực) cần được điều trị thích hợp. Bệnh nhân cần phải được giới thiệu đến một bác sĩ lâm sàng thích hợp khi cần thiết.

Các buổi hẹn tiếp theo nên được lên kế hoạch.

Tài liệu tham khảo về điều trị

1. Turner BJ, Austin SB, Chapman AL: Treating nonsuicidal self-injury: a systematic review of psychological and pharmacological interventions. Can J Psychiatry. 2014 Nov;59(11):576-85. doi: 10.1177/070674371405901103

Tài nguyên bằng tiếng Anh sau đây có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.

Self-Injury & Recovery Resources (SIRR): Trang web này được Đại học Cornell ra mắt vào năm 2003 để giải quyết hiện tượng tự gây thương tổn đang nổi lên ở thanh thiếu niên và thanh niên và cuối cùng đã tạo ra một loạt tài nguyên để giáo dục người dân và các chuyên gia về tự làm bản thân bị thương không tự sát (NSS), cũng như đánh giá và công cụ phục hồi để hỗ trợ điều trị NSSI.

Rối loạn sử dụng chất có liên quan đến mô hình hành vi bệnh lý, trong đó bệnh nhân tiếp tục sử dụng chất bất chấp những vấn đề đáng kể liên quan đến việc sử dụng chất đó. Chẩn đoán rối loạn sử dụng chất kích thích dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán về kiểu hành vi. Điều trị rối loạn sử dụng chất kích thích là một thử thách và thay đổi tùy theo chất kích thích và hoàn cảnh.

Các thuật ngữ phổ biến “nghiện”, “lạm dụng” và “phụ thuộc” thường được sử dụng liên quan đến sử dụng chất, nhưng những thuật ngữ này rất không chắc chắn và dễ thay đổi để được xác định là rất hữu ích trong chẩn đoán một cách có hệ thống. “Rối loạn sử dụng chất” là toàn diện hơn và có ít hàm ý tiêu cực hơn. Các chất có liên quan thường nằm trong danh sách 10 nhóm thuốc phiện thường gây rối loạn liên quan đến sử dụng chất kích thích.

Những chất này đều hoạt hóa trực tiếp hệ thống tưởng thưởng của não bộ và tạo ra cảm giác thoải mái. Việc hoạt hóa có thể rất mãnh liệt đến nỗi các bệnh nhân thèm nhớ một cách mãnh liệt và bỏ bê các hoạt động thường ngày để có được và sử dụng chất đó. Những chất kích thích này cũng có tác dụng sinh lý trực tiếp, bao gồm

  • Ngộ độc

  • Hội chứng cai

  • Rối loạn tâm thần do chất kích thích

Các biểu hiện cụ thể và điều trị ngộ độc và cai thay đổi theo từng chất hoặc nhóm chất và được thảo luận ở nơi khác.

Ngộ độc

Ngộ độc là đề cập đến sự phát triển của một hội chứng đặc hiệu có thể hồi phục với những thay đổi về tâm thần và hành vi có thể bao gồm sự thay đổi về tri giác, khoái cảm, suy giảm nhận thức, suy giảm khả năng đánh giá, suy giảm hoạt động thể chất và xã hội, cảm xúc không ổn định, hiếu chiến, hoặc phối hợp. Nếu ở mức độ nghiêm trọng, ngộ độc chất có thể dẫn đến quá liều, gây gánh nặng bệnh tật đáng kể, và gây nguy cơ tử vong.

Hội chứng cai

Trạng thái cai là tác động về thể chất, các triệu chứng và thay đồi hành vi đặc hiệu liên quan đến chất gây ra bởi việc dừng hoặc giảm số lượng sử dụng chất. Để được phân loại là một rối loạn cai nghiện chất, hội chứng cai nghiện phải khiến bệnh nhân đau khổ nghiêm trọng và/hoặc suy giảm chức năng (ví dụ, xã hội, nghề nghiệp). Hầu hết các bệnh nhân có trạng thái cai nhận thấy rằng việc tái sử dụng chất sẽ làm giảm các triệu chứng của họ.

Mặc dù một số bệnh nhân có hội chứng cai có một rối loạn sử dụng chất, một số loại chất đặc biệt là opioidchất gây yên dịu/gây ngủ, và chất kích thần, có thể dẫn đến các triệu chứng cai ngay cả khi được dùng theo đơn vì các lý do y tế chính đáng và trong thời gian tương đối ngắn (1 tuần đối với opioid). Các triệu chứng cai phát triển sau khi sử dụng với mục đích y tế chính đáng không được coi là tiêu chuẩn để chẩn đoán rối loạn sử dụng chất.

Rối loạn tâm thần do sử dụng chất kích thích là những thay đổi về tâm thần gây ra do sử dụng chất kích thích hoặc cai nghiện mà giống với rối loạn tâm thần độc lập (ví dụ, trầm cảmloạn thầnlo âu, hoặc các rối loạn nhận thức).

Để một rối loạn tâm thần được coi là do chất kích thích gây ra, chất kích thích liên quan phải được biết là có khả năng gây ra rối loạn. Các chất có thể nằm trong danh sách 10 nhóm chất thường gây rối loạn liên quan đến sử dụng chất hoặc nhiều thuốc khác (ví dụ, thuốc kháng cholinergic và corticosteroid có thể gây các hội chứng loạn thần tạm thời). Ngoài ra, rối loạn tâm thần này nên

  • Xuất hiện trong vòng 1 tháng sau ngộ độc chất hoặc cai chất

  • Gây ra tình trạng đau khổ đáng kể hoặc suy giảm chức năng

  • Không có biểu hiện trước sử dụng chất

  • Không chỉ xảy ra trong tình trạng mê sảng cấp gây ra do các chất

  • Không kéo dài trong một khoảng thời gian đáng kể*

* Một số rối loạn nhận thức thần kinh do rượu, chất hít, hoặc chất gây an dịu-gây ngủ và rối loạn tri giác gây ra do các chất gây ảo giác có thể kéo dài.

Phương pháp tiếp cận lâm sàng đối với các rối loạn do sử dụng chất kích thích

Sử dụng chất bất hợp pháp, mặc dù có vấn đề vì nó là bất hợp pháp, không phải lúc nào cũng có rối loạn sử dụng chất. Ngược lại, các chất hợp pháp, như rượu và thuốc được kê đơn (và cần sa ở một số lượng ngày càng tăng của các bang), có thể là một rối loạn sử dụng chất. Các vấn đề gây ra do sử dụng các thuốc được kê đơn và các chất bất hợp pháp đều có trên tất cả các nhóm kinh tế xã hội.

Việc sử dụng chất để tiêu khiển, mặc dù thông thường không được xã hội chấp nhận, không phải là một hiện tượng mới, và đã tồn tại dưới hình thức này hay hình thức khác trong nhiều thế kỷ. Mọi người sử dụng chất vì nhiều lý do:

  • Để thay đổi hoặc nâng cao cảm xúc

  • Là một phần của nghi thức tôn giáo

  • Để có được sự giác ngộ tâm linh

  • Để nâng cao hiệu suất

Một số người dùng dường như không hề hấn gì; họ có xu hướng sử dụng thuốc phiện theo từng đợt với liều lượng tương đối nhỏ, loại trừ độc tính lâm sàng và phát triển khả năng dung nạp và phụ thuộc vào thể chất. Nhiều loại chất tiêu khiển (ví dụ như thuốc phiện thô, rượu, cần sa, caffein, các loại nấm gây ảo giác, lá coca) là “tự nhiên” (tức là gần với nguồn gốc thực vật); chúng chứa một hỗn hợp nồng độ các hợp chất tác động tâm thần tương đối thấp và không tách biệt các hợp chất tác động tâm thần.

Mọi người thường theo một tiến trình từ thử dùng sang sử dụng thỉnh thoảng và sau đó là sử dụng nặng và đôi khi là rối loạn sử dụng chất gây. Tiến trình này rất phức tạp và mới chỉ được hiểu một phần. Tiến trình này phụ thuộc vào sự tương tác giữa chất, người sử dụng, và khung cảnh.

Thuốc uống

Các loại ma túy theo 10 nhóm khác nhau về khả năng gây rối loạn sử dụng chất gây nghiện. Khả năng được gọi là có khả năng gây nghiện. Khả năng gây nghiện phụ thuộc vào sự kết hợp của các yếu tố bao gồm

  • Đường sử dụng

  • Tốc độ mà loại chất đó vượt qua hàng rào máu-não và kích hoạt con đường tưởng thưởng

  • Thời gian để khởi phát tác dụng

  • Khả năng gây dung nạp và/hoặc các triệu chứng cai nghiện

Ngoài ra, các chất hợp pháp và/hoặc sẵn có (ví dụ như rượu, thuốc lá) có nhiều khả năng được sử dụng ban đầu hơn và do đó làm tăng nguy cơ tiến triển đến việc sử dụng có vấn đề. Hơn nữa, khi nhận thức về nguy cơ sử dụng một chất cụ thể làm giảm, có thể sẽ có những thử nghiệm và/hoặc sử dụng thuốc tiếp theo, làm tăng sự phơi nhiễm với các chất lạm dụng. Sự dao động trong nhận thức về nguy cơ của chất bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm những phát hiện liên quan đến y tế và di chứng tâm thần do sử dụng chất đó và các hậu quả xã hội.

Trong quá trình điều trị các bệnh lý nội khoa hoặc trong thủ thuật ngoại khoa hoặc thủ thuật nha khoa, bệnh nhân thường được kê toa opioid. Một phần đáng kể các loại thuốc phiện này không được sử dụng nhưng có thể vẫn còn trong nhà, là một nguồn đáng kể cho trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn muốn sử dụng chúng cho các mục đích không phải y tế. Để đáp ứng, đã có sự nhấn mạnh vào nhu cầu

  • Kê đơn thuốc opioid với lượng thấp hơn phù hợp với thời gian và mức độ đau

  • Thúc đẩy việc lưu trữ an toàn các thuốc còn sót lại

  • Mở rộng các chương trình theo đơn

Người dùng

Các yếu tố dự báo ở người dùng bao gồm:

  • Đặc điểm tâm lý

  • Các hoàn cảnh và rối loạn

Đặc điểm tâm lý không thực sự là một yếu tố nguy cơ rõ ràng, mặc dù những người có mức độ tự kiểm soát thấp (xung động) hoặc mức độ cao của việc chấp nhận nguy cơ và tìm kiếm sự mới mẻ có thể có nguy cơ phát triển rối loạn sử dụng chất kích thích. Tuy nhiên, khái niệm về nhân cách nghiện mà đã được mô tả rất khác nhau bởi một số nhà khoa học hành vi có rất ít bằng chứng khoa học hộ nó.

Một số hoàn cảnh và các rối loạn cùng tồn tại dường như làm tăng nguy cơ. Ví dụ, những người buồn, cảm xúc đau khổ, hoặc bị xa lánh về mặt xã hội có thể tìm thấy các cảm nhận này tạm thời được giảm bớt bởi một loại chất; điều này có thể dẫn đến tăng sử dụng và đôi khi là rối loạn sử dụng chất. Bệnh nhân có các rối loạn khác không liên quan đến rối loạn tâm thần có nguy cơ cao phát triển một rối loạn sử dụng chất. Bệnh nhân có đau mạn tính (ví dụ như đau lưng, đau do bệnh hồng cầu lưỡi liềm, đau thần kinh, đau cơ xơ) thường dùng thuốc opioid để giảm đau; nhiều người sau đó phát triển một rối loạn sử dụng. Tuy nhiên, ở nhiều bệnh nhân này, các thuốc không opioid và các phương pháp điều trị khác không làm giảm hết cơn đau về thể chất và tinh thần.

Nghiện có thể là một chứng rối loạn đa gen. Có một số yếu tố di truyền và biểu sinh ảnh hưởng đến sự tiến triển của chứng nghiện. Nghiên cứu liên quan đến các bất thường di truyền cụ thể khác nhau tùy theo chất kích thích cụ thể.

Ngọc trai & cạm bẫy

  • Khái niệm về tính cách nghiện ngâpk có rất ít bằng chứng khoa học chứng minh điều đó.

Bối cảnh

Các yếu tố văn hoá và xã hội là rất quan trọng trong việc bắt đầu và duy trì (hoặc tái sử dụng) sử dụng chất. Quan sát các thành viên trong gia đình (cha mẹ, anh chị em ruột) và những người đồng đẳng sử dụng chất làm tăng nguy cơ người ta sẽ bắt đầu sử dụng chất. Bạn bè có ảnh hưởng đặc biệt mạnh mẽ đối với thanh thiếu niên (xem Sử dụng ma túy và chất kích thích ở thanh thiếu niên). Những người đang cố gắng ngừng sử dụng một chất sẽ thấy khó khăn hơn nhiều nếu họ đang ở xung quanh những người khác cũng sử dụng chất đó.

Các bác sĩ có thể vô tình góp phần vào việc sử dụng gây hại các thuốc phiện có tác động tâm thần thông qua việc kê đơn quá mức các loại thuốc này để giảm căng thẳng. Nhiều yếu tố xã hội, bao gồm các phương tiện thông tin đại chúng, góp phần vào kỳ vọng của bệnh nhân là thuốc nên được sử dụng để giảm bớt tất cả sự phiền muộn.

  • Tiêu chuẩn chẩn đoán

Chẩn đoán rối loạn sử dụng chất dựa trên việc xác định mô hình hành vi bệnh lý, trong đó bệnh nhân tiếp tục sử dụng chất bất chấp những vấn đề đáng kể liên quan đến việc sử dụng chất. Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần, Ấn bản lần thứ Năm, Sửa đổi nội dung (DSM5-TR) đưa ra 11 tiêu chuẩn được chia thành 4 loại. Những người đáp ứng 2 trong số các tiêu chuẩn này trong vòng 12 tháng được xem là có rối loạn sử dụng chất kích thích.

Kiểm soát sử dụng kém

  • Người sử dụng chất với số lượng lớn hơn hoặc trong một thời gian dài hơn so với kế hoạch ban đầu

  • Người muốn ngừng hoặc giảm việc sử dụng chất kích thích

  • Người dành thời gian đáng kể để tìm kiếm, sử dụng, hoặc phục hồi từ tác động của chất

  • Người có một thèm muốn mãnh liệt (thèm nhớ) để sử dụng chất

Suy giảm về xã hội

  • Người không thực hiện được các nhiệm vụ quan trọng trong công việc, trường học hoặc gia đình

  • Người tiếp tục sử dụng chất ngay cả khi chất đó gây ra (hoặc làm tồi tệ hơn) các vấn đề xã hội hoặc tương tác giữa các cá nhân

  • Người từ bỏ hoặc giảm các hoạt động xã hội, nghề nghiệp, hoặc giải trí quan trọng do sử dụng chất

Sử dụng có nguy cơ

  • Người sử dụng chất trong các tình huống nguy hiểm về thể chất (ví dụ như lái xe hoặc trong tình huống xã hội nguy hiểm)

  • Người tiếp tục sử dụng chất gây mặc dù biết rằng nó đang làm tồi tệ hơn một vấn đề về thể chất hoặc tâm lý

Triệu chứng dược lý*

  • Dung nạp: Người cần tăng dần liều chất sử dụng để gây ngộ độc hoặc đạt hiệu quả mong muốn, hoặc hiệu quả của một liều nhất định giảm theo thời gian

  • Hội chứng cai: Các ảnh hưởng bất thường lên thể chất xảy ra khi ngừng sử dụng chất hoặc khi bị làm mất tác dụng của chất bằng một chất đối vận đặc hiệu

* Lưu ý rằng một số thuốc phiện, đặc biệt là các opioidthuốc gây an dịu/gây ngủ và thuốc kích thần, có thể dẫn đến các triệu chứng dung nạp và/hoặc triệu chứng cai ngay cả khi được dùng theo đơn vì các lý do y tế chính đáng và trong thời gian tương đối ngắn (< 1 tuần đối với opioid). Các triệu chứng cai phát triển sau khi sử dụng với mục đích y tế chính đáng không được coi là tiêu chuẩn để chẩn đoán rối loạn sử dụng chất.

Mức độ nghiêm trọng của rối loạn sử dụng được xác định bởi số triệu chứng:

  • Nhẹ: 2 đến 3 tiêu chuẩn

  • Trung bình: 4 đến 5 tiêu chuẩn

  • Nặng:  6 tiêu chuẩn

  • Thay đổi tùy theo chất và hoàn cảnh

Điều trị rối loạn sử dụng chất gây nghiện là một thử thách và bao gồm một hoặc nhiều điều sau đây:

  • Giải độc cấp

  • Ngăn ngừa và xử trí hội chứng cai nghiện

  • Ngừng (hoặc hiếm khi, giảm) sử dụng

  • Duy trì tiết chế

Các giai đoạn điều trị khác nhau có thể được điều trị bằng thuốc và/hoặc tư vấn và hỗ trợ. Các biện pháp và vấn đề cụ thể được thảo luận trong phần cụ thể ở nơi khác trong CẨM NANG, bao gồm Rối loạn sử dụng rượu và Rối loạn sử dụng thuốc phiện.

Với bằng chứng ngày càng tăng và sự hiểu biết sâu hơn về các quá trình sinh học nằm bên dưới việc sử dụng ma túy cưỡng bức, rối loạn sử dụng chất đã được xác lập chắc chắn hơn trở thành một bệnh lý y khoa. Như vậy, các bệnh này có liên tuân theo các hình thức điều trị khác nhau, bao gồm các nhóm hỗ trợ (nhóm nghiện rượu ẩn danh và các chương trình Mười Hai bước khác); liệu pháp tâm lý (ví dụ như liệu pháp tăng cường động lực, liệu pháp nhận thức-hành vi, dự phòng tái phát); và các loại thuốc khác nhau, từ liệu pháp điều trị bằng chất đồng vận (ví dụ, liệu pháp thay thế nicotin cho rối loạn sử dụng thuốc lá, methadon và buprenorphin đối với rối loạn sử dụng opioid) tới các phương pháp mới đang được nghiên cứu. Tập trung vào việc xác định chính xác bệnh nhân có rối loạn sử dụng chất và chuyển tuyến điều trị đặc hiệu sẽ giúp giảm đáng kể các hậu quả cá nhân cũng như tác động xã hội.

  • Rối loạn sử dụng chất liên quan đến mô hình hành vi bệnh lý, trong đó bệnh nhân tiếp tục sử dụng chất bất chấp những vấn đề đáng kể liên quan đến việc sử dụng chất.

  • Các biểu hiện được phân loại thành sự kiểm soát sử dụng kém, suy giảm về xã hội, sử dụng có nguy cơ và các triệu chứng dược lý.

  • Các thuật ngữ “nghiện”, “lạm dụng” và “sự phụ thuộc” là mơ hồ và mang tính chủ quan; nên tốt hơn là nói về rối loạn sử dụng chất và tập trung vào các biểu hiện cụ thể và mức độ nghiêm trọng của chúng.

  • Các hậu quả và điều trị rối loạn sử dụng chất khác nhau rất nhiều tùy thuộc vào chất.

Tra cứu International Classification of Diseases 11th Revision (ICD-11)