Việc chẩn đoán rối loạn nhân cách ở trẻ em là một vấn đề gây tranh cãi vì sự thay đổi tự nhiên trong tâm trạng và hành vi của trẻ. Tuy nhiên, khi những đặc điểm không thích ứng tồn tại lâu dài và dai dẳng, một rối loạn nhân cách có thể xuất hiện.
Rối loạn nhân cách là những kiểu hành vi và đặc điểm không thích ứng, cứng nhắc, kéo dài, và khác biệt rõ rệt so với những chuẩn mực văn hóa xã hội. Những đặc điểm trong rối loạn nhân cách thường ổn định theo thời gian và gây ra sự rối loạn ở các lĩnh vực chức năng quan trọng.
Các chuyên gia y tế cho rằng rối loạn nhân cách không thường xuất hiện cho đến tuổi vị thành niên hoặc đầu tuổi trưởng thành. Trước những giai đoạn này, nhân cách và nhận thức về bản thân của trẻ đang trong quá trình thay đổi và phát triển.
Sự chuyển tiếp tự nhiên trong nhân cách khiến việc chẩn đoán rối loạn nhân cách ở trẻ em trở nên rất khó khăn và gây tranh cãi.
Rối loạn nhân cách là gì?
Theo DSM – 5, DSM – IV, và ICD – 10 thì rối loạn nhân cách (PD) là những rối loạn tâm thần nghiêm trọng được đặc trưng bởi các mô hình nhận thức, tình cảm, điều chỉnh xung lực và hành vi giữa các cá nhân không linh hoạt, thích nghi kém và lan tỏa.
Ngoài định nghĩa chẩn đoán chung này, cả hai hệ thống phân loại quốc tế (ICD-10 và DSM-IV/5) đều bao gồm các tiêu chí để chỉ định một cá nhân có thể đáp ứng các tiêu chí cho PD cụ thể nào.
Rối loạn nhân cách (PD) tốn kém và gây đau khổ cho cả cá nhân và xã hội và có thể dẫn đến mức độ suy giảm toàn diện cao hơn các dạng bệnh lý tâm thần khác, chẳng hạn như rối loạn trầm cảm nặng (MDD) ( Skodol, 2018 ).
PD có liên quan đến các bệnh đi kèm đáng kể về sức khỏe thể chất và tinh thần ( Dixon-Gordon, Conkey & Whalen, 2018 ) cùng với việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cao không cân xứng ( Quirk và cộng sự, 2016 ).
Những người mắc PD loại phân liệt và ranh giới có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn và khả năng bị khuyết tật cao gấp đôi so với những người mắc MDD ( Skodol và cộng sự, 2005 ).
Trên thực tế, người ta ước tính rằng 6% đến 17% thanh thiếu niên trong môi trường cộng đồng đáp ứng các tiêu chí cho một hoặc nhiều chẩn đoán PD ( Kongerslev và cộng sự, 2015 ) và tỷ lệ mắc bệnh cao nhất của họ có thể xảy ra trong giai đoạn đầu và giữa tuổi vị thành niên ( Bernstein và cộng sự, 1993 ; Johnson và cộng sự, 1999 ).
Johnson và cộng sự phát hiện ra rằng tỷ lệ mắc bất kỳ chẩn đoán PD nào là 14,6% ở độ tuổi 14, 12,9% ở độ tuổi 16 và 13,9% ở độ tuổi 22 trong một mẫu cộng đồng gồm 568 thanh thiếu niên Hoa Kỳ.
Trong các mẫu cộng đồng đại diện và các cơ sở chăm sóc chính, ước tính tỷ lệ mắc đối với bất kỳ chẩn đoán PD nào dao động từ 6 đến 17%, với trung vị là 11% ở trẻ em và thanh thiếu niên (Johnson et al., 2008).
Liệu bác sĩ có thể chẩn đoán rối loạn nhân cách ở trẻ em không?
Theo các hướng dẫn lâm sàng hiện tại trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, Phiên bản thứ 5, sửa đổi (DSM-5-TR), bác sĩ có thể chẩn đoán rối loạn nhân cách ở trẻ em dưới 18 tuổi. Ngoại lệ duy nhất là đối với rối loạn nhân cách chống đối xã hội, yêu cầu phải trên 18 tuổi.
DSM-5-TR chỉ ra rằng việc chẩn đoán rối loạn nhân cách ở trẻ em là điều hiếm, nhưng bác sĩ có thể đưa ra chẩn đoán nếu những đặc điểm nhân cách không thích ứng xuất hiện trong ít nhất một năm và là dai dẳng, phổ biến, không liên quan đến một giai đoạn phát triển cụ thể hay một rối loạn tâm thần khác.
Tranh cãi
Mặc dù DSM-5-TR cho phép chẩn đoán, việc chẩn đoán rối loạn nhân cách ở trẻ em vẫn gây tranh cãi.
Marina Kerlow, một nhà trị liệu hôn nhân và gia đình ở Takoma Park, Maryland, cho biết: “Chẩn đoán một rối loạn nhân cách ở trẻ em giống như cố gắng định nghĩa một câu chuyện vẫn đang được viết, thường chỉ trở nên rõ ràng hơn trong những chương cuối của tuổi vị thành niên hoặc đầu tuổi trưởng thành.”
Bà giải thích rằng rối loạn nhân cách rất khó chẩn đoán ở trẻ em do quá trình phát triển nhân cách đang diễn ra và khả năng triệu chứng thay đổi theo thời gian.
DSM-5-TR cũng chỉ ra rằng, trẻ em thường có những đặc điểm của rối loạn nhân cách mà tự nhiên sẽ giảm dần khi chúng tiến gần đến tuổi trưởng thành. Những đặc điểm này, như chứng tự cao, là một phần của quá trình học hỏi trong phát triển.
Một nghiên cứu theo dõi dài hạn năm 2019 về các đặc điểm rối loạn nhân cách ở học sinh lớp ba, lớp sáu và lớp chín cho thấy rằng các đặc điểm liên quan đến rối loạn nhân cách giảm dần tự nhiên ở trẻ em trong suốt 36 tháng.
Dù có những lo ngại về việc nhầm lẫn giữa sự phát triển và rối loạn nhân cách, ranh giới giữa chúng vẫn chưa rõ ràng. Vì rối loạn nhân cách thường xuất hiện trong giai đoạn vị thành niên — giai đoạn cuộc sống kết hợp giữa trẻ em và người lớn — một số chuyên gia tin rằng rối loạn nhân cách khởi phát sớm, hoặc ở trẻ em, vẫn chưa được nhận diện đầy đủ.
Những rối loạn nhân cách phổ biến ở trẻ em
Do tranh cãi xoay quanh rối loạn nhân cách ở trẻ em, nghiên cứu về vấn đề này còn hạn chế, và tỷ lệ chính xác của các rối loạn này chưa được biết rõ.
Một nghiên cứu quy mô lớn năm 2023 tại Đan Mạch, với hơn 115.000 trẻ em và thanh thiếu niên, cho thấy những rối loạn nhân cách phổ biến nhất là:
- Rối loạn nhân cách ranh giới (BPD)
- Rối loạn nhân cách không xác định
- Rối loạn nhân cách kiểu phân ly
Trong nghiên cứu, trẻ em dưới 10 tuổi chiếm 3-6% trong số các trường hợp chẩn đoán rối loạn nhân cách. Phần lớn các chẩn đoán được thực hiện ở những người tham gia từ 15 tuổi trở lên.
Rối loạn nhân cách ranh giới (BPD)
BPD là một rối loạn nhân cách thuộc nhóm B, nhóm các rối loạn có các đặc điểm hành vi thất thường, cảm xúc, hoặc gây tranh cãi.
BPD có các đặc điểm nổi bật như sự bất ổn trong các mối quan hệ, tâm trạng và hình ảnh về bản thân. Nó cũng có những biểu hiện rõ rệt về sự thiếu kiên nhẫn trong nhiều lĩnh vực cuộc sống.
Dấu hiệu trẻ em có thể mắc rối loạn nhân cách
Việc nhận ra rối loạn nhân cách ở trẻ em rất khó khăn, ngay cả đối với các chuyên gia đã qua đào tạo. Trẻ em luôn trong quá trình học hỏi, phát triển và thích nghi. Con đường phát triển của trẻ có thể bao gồm cảm xúc thay đổi mạnh mẽ và hành vi bốc đồng, những điều này không nhất thiết chỉ ra một rối loạn nhân cách.
Kim Homan, một nhà trị liệu hôn nhân và gia đình tại Nashville, Tennessee, cho biết một trong những dấu hiệu đầu tiên có thể chỉ ra một rối loạn nhân cách ở trẻ em là các mô hình hành vi dai dẳng, phổ biến và khác biệt rõ rệt so với bạn bè đồng trang lứa.
“Điều này có thể bao gồm sự thay đổi cảm xúc mạnh mẽ, các mối quan hệ không ổn định, khó khăn kéo dài trong trường học hoặc với bạn bè, hành vi bốc đồng và sự không nhất quán rõ rệt giữa hành động của trẻ và kỳ vọng xã hội,” bà nói.
Ngoài ra, bà giải thích rằng rối loạn nhân cách có thể thể hiện khác biệt ở trẻ em so với người lớn do quá trình phát triển đang diễn ra.
Triệu chứng của rối loạn nhân cách ranh giới ở trẻ em
Các tiêu chí chẩn đoán cho BPD là giống nhau ở cả trẻ em và người lớn. BPD thường gây ra các triệu chứng như:
- Nỗi sợ bị bỏ rơi mãnh liệt
- Cảm giác trống rỗng thường xuyên
- Sự không muốn ở một mình
- Biến động cảm xúc và tức giận không thích hợp
- Hành vi bốc đồng
- Hành vi nguy hiểm
- Hành động tự làm hại bản thân
- Cảm nhận sai lệch về bản thân
Những triệu chứng này chủ yếu dựa trên trải nghiệm của người lớn với BPD. Tuy nhiên, nghiên cứu về các triệu chứng BPD ở trẻ em là một lĩnh vực nghiên cứu đang phát triển.
Theo một đánh giá năm 2019, những yếu tố dự báo BPD ở độ tuổi sớm có thể bao gồm:
- Tính hung hăng, đặc biệt là đối với các mối quan hệ gần gũi
- Tính bốc đồng
- Sự bất ổn cảm xúc
- Xu hướng tiêu cực cảm xúc
- Kiểm soát cảm xúc hạn chế khi bị ngược đãi
- Sự hiện diện của các rối loạn tâm lý khác, như:
- Trầm cảm
- Lo âu
- Tách rời cảm xúc
- Tự làm hại bản thân
- Rối loạn sử dụng chất kích thích
- Rối loạn tăng động giảm chú ý
- Rối loạn đối kháng có chọn lọc
- Rối loạn hành vi
Điều trị rối loạn nhân cách ở trẻ em
Các bác sĩ chủ yếu điều trị rối loạn nhân cách ở trẻ em và người lớn bằng liệu pháp tâm lý, còn được gọi là liệu pháp nói chuyện.
Liệu pháp trò chuyện là phương pháp điều trị chính cho các rối loạn nhân cách và nhiều tình trạng sức khỏe tâm thần khác.
Có nhiều loại liệu pháp trò chuyện. Một số có công dụng cụ thể cho các tình trạng cụ thể. Ví dụ, liệu pháp hành vi biện chứng có thể giúp điều trị BPD. Một nhà tâm lý học trẻ em hoặc bác sĩ tâm thần có thể tư vấn về phương pháp tiếp cận tốt nhất sau khi đánh giá các triệu chứng của trẻ.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC)Trusted Source lưu ý rằng việc điều trị sớm các vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ em có thể làm giảm nguy cơ gặp vấn đề ở nhà, ở trường, trong cộng đồng và với bạn bè. Nó cũng có thể hỗ trợ quá trình chuyển đổi lành mạnh sang tuổi trưởng thành.
Nhà tâm lý học có thể làm việc với trẻ một mình hoặc theo nhóm. Họ cũng có thể liên quan đến gia đình, giáo viên và những người quan trọng khác trong cuộc sống của trẻ.
Tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ, liệu pháp có thể bao gồm trò chuyện, chơi và các hoạt động khác để khuyến khích cá nhân nói về cảm xúc của mình. Trong một số trường hợp, thuốc có thể phù hợp.
Các phương pháp phổ biến bao gồm:
- Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT)
- Liệu pháp hành vi biện chứng (DBT)
Những liệu pháp này giúp trẻ em cấu trúc lại các mô hình nhân cách không hiệu quả trong khi học cách chú ý đến cảm xúc và kiểm soát sự phản ứng cảm xúc của mình.
Một lời từ PSYEZ
Các chuyên gia y tế có thể chẩn đoán rối loạn nhân cách ở trẻ em, mặc dù nhiều người trong cộng đồng y tế coi điều này là gây tranh cãi. Rối loạn nhân cách thực sự ở trẻ em là hiếm.
Trẻ em vẫn đang phát triển, và nhiều đặc điểm liên quan đến rối loạn nhân cách tự nhiên sẽ cải thiện theo thời gian.
Khi một đứa trẻ mắc phải rối loạn nhân cách, hành vi của chúng thường khác biệt đáng kể so với bạn bè đồng trang lứa, và các đặc điểm của chúng là ổn định và dai dẳng.
Một chuyên gia sức khỏe tâm thần có thể đưa ra chẩn đoán rối loạn nhân cách cho trẻ khi những mô hình nhân cách không thích ứng tồn tại ít nhất một năm.
Nguồn tham khảo
Klinkby, I. M. I., Hastrup, L. H., Bo, S., & et al. (2024). Prevalence and incidence of personality disorders among children and adolescents in Danish mental health services: A nationwide register study. European Child & Adolescent Psychiatry, 33(11), 1731–1740. https://doi.org/10.1007/s00787-023-02274-w
Hamlat, E. J., Young, J. F., & Hankin, B. L. (2020). Developmental course of personality disorder traits in childhood and adolescence. Journal of Personality Disorders, 34(Suppl B), 25–43. https://doi.org/10.1521/pedi_2019_33_433
Bozzatello, P., Bellino, S., Bosia, M., & Rocca, P. (2019). Early detection and outcome in borderline personality disorder. Frontiers in Psychiatry, 10, Article 710. https://doi.org/10.3389/fpsyt.2019.00710
American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders (5th ed.). Arlington, VA: American Psychiatric Association.
American Psychiatric Association. (1994). Diagnostic and statistical manual of mental disorders (4th ed.). Washington, DC: American Psychiatric Press.
World Health Organization. (1992). The ICD-10 classification of mental and behavioural disorders: Clinical descriptions and diagnostic guidelines. Geneva: World Health Organization.
Skodol, A. E. (2018). Impact of personality pathology on psychosocial functioning. Current Opinion in Psychology, 21, 33–38. https://doi.org/10.1016/j.copsyc.2017.09.006
Dixon-Gordon, K. L., Conkey, L. C., & Whalen, D. J. (2018). Recent advances in understanding physical health problems in personality disorders. Current Opinion in Psychology, 21, 1–5. https://doi.org/10.1016/j.copsyc.2017.08.004
Quirk, S. E., Berk, M., Chanen, A. M., Koivumaa-Honkanen, H., Brennan-Olsen, S. L., Pasco, J. A., & Williams, L. J. (2016). Population prevalence of personality disorder and associations with physical health comorbidities and health care service utilization: A review. Personality Disorders: Theory, Research, and Treatment, 7(2), 136–146. https://doi.org/10.1037/per0000156
Skodol, A. E., Gunderson, J. G., Shea, M. T., McGlashan, T. H., Morey, L. C., Sanislow, C. A., … & Stout, R. L. (2005). The Collaborative Longitudinal Personality Disorders Study (CLPS): Overview and implications. Journal of Personality Disorders, 19(5), 487–504. https://doi.org/10.1521/pedi.2005.19.5.487
Kongerslev, M. T., Chanen, A. M., & Simonsen, E. (2015). Personality disorder in childhood and adolescence comes of age: A review of the current evidence and prospects for future research. Scandinavian Journal of Child and Adolescent Psychiatry and Psychology, 3(1), 31–48. https://doi.org/10.21307/sjcapp-2015-004
Bernstein, D. P., Cohen, P., Velez, C. N., Schwab-Stone, M., Siever, L. J., & Shinsato, L. (1993). Prevalence and stability of the DSM-III-R personality disorders in a community-based survey of adolescents. American Journal of Psychiatry, 150(8), 1237–1243. https://doi.org/10.1176/ajp.150.8.1237
Johnson, J. G., Cohen, P., Skodol, A. E., Oldham, J. M., Kasen, S., & Brook, J. S. (1999). Personality disorders in adolescence and risk of major mental disorders and suicidality during adulthood. Archives of General Psychiatry, 56(9), 805–811. https://doi.org/10.1001/archpsyc.56.9.805
Johnson, J. G., Cohen, P., Kasen, S., Skodol, A. E., & Oldham, J. M. (2008). Cumulative prevalence of personality disorders between adolescence and adulthood. Acta Psychiatrica Scandinavica, 118(6), 410–413. https://doi.org/10.1111/j.1600-0447.2008.01278.x